Thực trạng sử dụng tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội

Abstract: This article deals with non-standard variants of language among teenagers

nowadays and their impact on the so-called pureness of Vietnamese. The authors give a total

picture of how teenagers language is different with standard language in terms of slang, codemixing and code-switching, borrowing and symbols used in daily communication. The authors

also make a survey on this phenomenon and come to suggest some solutions to protect

Vietnamese language in process of globalization.

pdf 10 trang yennguyen 5100
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sử dụng tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sử dụng tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội

Thực trạng sử dụng tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội
Số 5 (223)-2014 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
1 
NGÔN NGỮ HỌC VÀ VIỆT NGỮ HỌC 
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT “PHI CHUẨN” 
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ 
NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI 
“NON-STANDARD” VIETNAMESE OF THE YOUTH 
FROM VIEWPOINT OF SOCIOLINGUISTICS 
NGUYỄN VĂN HIỆP 
(GS.TS;Viện Ngôn ngữ học) 
ĐINH THỊ HẰNG 
(ThS;Viện Ngôn ngữ học) 
Abstract: This article deals with non-standard variants of language among teenagers 
nowadays and their impact on the so-called pureness of Vietnamese. The authors give a total 
picture of how teenagers language is different with standard language in terms of slang, code-
mixing and code-switching, borrowing and symbols used in daily communication. The authors 
also make a survey on this phenomenon and come to suggest some solutions to protect 
Vietnamese language in process of globalization. 
Key words: non-standard Vietnamese; social dialectology; pureness of language; teenager; 
slang; code-mixing; code-switching; borrowing. 
1. Dẫn nhập 
Ngôn ngữ giới trẻ là một hiện tượng phổ 
biến trong xã hội, không mang tính cá biệt đối 
với giới trẻ của bất kì nước nào. Điều này 
được thể hiện rõ trên các diễn đàn, blog cá 
nhân, nơi giới trẻ chia sẻ, bộc lộ cảm xúc của 
mình. 
Trên thế giới, ngôn ngữ giới trẻ được coi là 
một dạng tiếng lóng mà một bộ phận thanh 
thiếu niên sử dụng. Tuy nhiên, xung quanh 
vấn đề về loại tiếng lóng này cũng có nhiều 
luồng ý kiến khác nhau. Trong bài viết 
"Standard English in decline among 
teenagers" (Tiếng Anh chuẩn biến đổi trong 
tầng lớp thanh thiếu niên), Graeme Paton 
(2008) đề cập đến vấn đề nhiều người Anh lo 
ngại rằng việc sử dụng các trang mạng xã hội 
và tin nhắn điện thoại đang phá hủy kĩ năng 
đọc của trẻ. Graeme Paton cũng dẫn ra nghiên 
cứu mới nhất của Đại học Cambridge khi khảo 
sát hơn 2000 thanh thiếu niên tại 26 trường 
trung học Anh. Nghiên cứu này đưa ra các 
cụm từ khác nhau và yêu cầu người sử dụng 
đánh dấu những cụm từ không đúng tiêu 
chuẩn. Kết quả nghiên cứu này cho thấy một 
nửa số thanh thiếu niên không nhận ra sự khác 
biệt giữa ngữ pháp tiếng Anh chuẩn và ngôn 
ngữ thông tục. Beth Black - tác giả của nghiên 
cứu mới này nhận định: "Có thể những hình 
thức tiếng Anh phi chuẩn, ít được công nhận 
sẽ tìm đường vào tiếng Anh chuẩn, đặc biệt 
đưa ra quan điểm rằng thanh thiếu niên là 
những người sáng tạo ngôn ngữ và mang lại 
những sự thay đổi trong phương ngữ chuẩn". 
Tác giả bài báo cũng dẫn ra ý kiến của Ian Mc 
Neilly đến từ Hiệp hội quốc gia giảng dạy 
tiếng Anh: "Đối với rất nhiều người - không 
chỉ những người trẻ tuổi - ngôn ngữ hàng ngày 
của họ là tiếng Anh trong môi trường mới - 
nơi các cấu trúc phi văn phạm được chấp nhận 
hơn. Điều này chắc chắn sẽ kéo theo sự suy 
giảm của các cấu trúc tiêu chuẩn" [12]. 
David Crystal, nhà ngôn ngữ học thuộc Đại 
học Reading, khác với nhiều người cho rằng 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5 (223)-2014 
2 
tiếng lóng chỉ có ý nghĩa tiêu cực, ông lại chỉ 
coi nó như là thứ ngôn ngữ "không chính thức, 
không đạt tiêu chuẩn từ vựng" hay là "biệt ngữ 
của một nhóm đặc biệt" và nó chỉ là cách để 
giới trẻ tách mình khỏi những người lớn tuổi 
hơn, đồng thời nó cũng thể hiện sự đoàn kết, 
thống nhất với những người cùng nhóm [9]. 
Vanessa Barford, trong một bài viết có tiêu 
đề "Mind your slanguage" đăng trên BBC 
News đặt ra vấn đề rằng nếu việc cấm tiếng 
lóng không phải là giải pháp tốt thì hãy tìm ra 
"chìa khóa" để hiểu nó tốt hơn - và điều này 
cũng đã được thực hiện tại một trường đại học 
ở phía nam London, thông qua việc đưa tiếng 
lóng vào các giáo trình. Những người giảng 
dạy, nghiên cứu đi vào phân tích ngôn ngữ, 
suy nghĩ về vai trò hoạt động của nó trong các 
cuộc trò chuyện, các dạng kết hợp của nó để 
có thể nhận dạng, tìm hiểu mối quan hệ giữa 
tiếng lóng với các giá trị của nền văn hóa 
hướng đến việc giảng dạy cho người nước 
ngoài. Nói như Zephaniah, chúng ta nên học 
cách sử dụng tiếng lóng cho phù hợp bởi vì 
cho dù thích hay không, cách chúng ta nói 
chuyện cũng sẽ ảnh hưởng đến cách mọi 
người nhìn chúng ta và điều này có thể dẫn 
đến những hệ quả rất nghiêm trọng; "Tiếng 
lóng cũng như võ thuật. Vì vậy, miễn là bạn có 
nền tảng vững chắc, bạn có thể tự do ứng 
biến" [18]. 
Trước thực trạng như vậy, tiếng lóng của 
tầng lớp thanh thiếu niên cũng thu hút được sự 
quan tâm nhất định từ các nhà nghiên cứu. Các 
nghiên cứu thường tập trung vào một số nội 
dung như: (1) Phân tích, mô tả các biến thể mà 
giới trẻ thường sử dụng trong giao tiếp, (2) So 
sánh ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết của thanh 
thiếu niên, (3) Sự khác biệt của ngôn ngữ giới 
trẻ với ngôn ngữ chuẩn về mặt từ vựng, ngữ 
âm, ngữ pháp và cả ngữ dụng, (4) Mối quan 
hệ/ sự tác động giữa các biến thể ngôn ngữ 
giới trẻ với các nhân tố xã hội, 
Ở Việt Nam, ngôn ngữ mà giới trẻ hiện 
đang sử dụng được gọi bằng nhiều cái tên 
khác nhau, tùy thuộc vào sự nhấn mạnh một 
nhân tố nào đó liên quan đến loại ngôn ngữ 
này. Chẳng hạn, căn cứ vào đối tượng sử 
dụng, có các cách định danh như: ngôn ngữ 
giới trẻ, ngôn ngữ 9X, ngôn ngữ teen, ngôn 
ngữ tuổi teen, tiếng lóng tuổi teen; căn cứ vào 
phương tiện sử dụng (máy tính và internet), có 
các cách gọi tên khác, như: ngôn ngữ "a còng" 
(@), ngôn ngữ chát, ngôn ngữ mạng; căn cứ 
vào ý nghĩa của việc sử dụng, lại có cách đặt 
tên khác là ngôn ngữ "sành điệu". Một sự thực 
không thể không thấy, đó là loại ngôn ngữ này 
là một thứ tiếng lóng, được sử dụng rộng rãi 
trong giới trẻ các thế hệ 8X, 9 X và có thể là 
cả thế hệ 10X tới đây. 
Trước sự phổ biến của ngôn ngữ giới trẻ, 
có nhiều luồng ý kiến trái chiều khác nhau, 
song có thể quy thành 3 nhóm: (1) Nhóm tán 
đồng, (2) Nhóm lên án và (3) Nhóm nhìn nhận 
với thái độ dung hòa. 
Những người đồng tình, ủng hộ thì cho 
rằng ngôn ngữ giới trẻ độc đáo, mới lạ, sáng 
tạo, đa dạng, dễ thương, đáng yêu, gần 
gũi,Ngôn ngữ này thể hiện sự trẻ trung, 
năng động, nhí nhảnh, vui tươi, phong cách, 
cá tính,Nó có thể giúp xả stress, tiết kiệm kí 
tự, thời gian và công sức nhắn. 
Nhóm những người lên án việc sử dụng 
ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay cho rằng đó là 
thứ ngôn ngữ kì dị/ kì quặc/ quái dị, biến dạng, 
méo mó, lai căng, hỗn tạp, vô nguyên tắc/ vô 
tội vạ, không phù hợp với sắc thái tiếng Việt 
Họ lo ngại ngôn ngữ bị rối loạn, tiếng Việt 
đang mất đi, tiếng Việt bị thoái hóa, Điều 
này thể hiện thói quen xấu, là sự "bạo hành" 
đối với tiếng Việt, thậm chí cho đó là biểu 
hiện của sự sa sút về nhân cách, có thể làm 
mất giá trị văn hóa Việt và cho rằng đây là 
tình trạng đáng báo động, cần lên án nếu 
không muốn mất gốc, muốn giữ gìn sự trong 
sáng của tiếng Việt và giữ gìn bản sắc văn 
hóa 
Một số khác không bày tỏ thái độ tán đồng 
nhưng cũng không kịch liệt phản đối việc sử 
dụng ngôn ngữ của giới trẻ. Họ cho rằng chỉ 
cần không lạm dụng thì việc sử dụng ngôn ngữ 
Số 5 (223)-2014 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
3 
giới trẻ cũng không ảnh hưởng gì nhiều, quan 
trọng là phải biết dùng đúng nơi, đúng lúc. 
Chẳng hạn, đối với giấy tờ hành chính, giao 
tiếp mang tính nghi thức, các bài kiểm 
tra,thì tuyệt đối không được sử dụng các kí 
tự sáng tạo này vào. Họ cho rằng cái gì xã hội 
không chấp nhận thì sẽ bị đào thải, không 
nên nhìn 9X và ngôn ngữ của thế hệ 9X một 
cách phiến diện. Ngôn ngữ giới trẻ cũng chỉ 
là một dạng tiếng lóng, nó xuất hiện theo 
từng giai đoạn, nó tự xuất hiện và cũng sẽ tự 
mất đi theo quy luật của nó. Việc sử dụng 
ngôn ngữ này chưa hẳn là một điều đáng chê 
trách. 
Trong bài viết này, bằng việc khảo sát 
thực trạng sử dụng ngôn ngữ giới trẻ, chúng 
tôi muốn đưa ra một cách nhìn nhận thỏa đáng 
về các hiện tượng bị coi là "phi chuẩn" dưới 
góc độ ngôn ngữ học xã hội. Điều này sẽ góp 
phần phát hiện và chỉ ra xu thế biến đổi của 
ngôn ngữ, bản chất bên trong của hệ thống 
ngôn ngữ, từ đó cung cấp cơ sở cho việc xây 
dựng các giải pháp điều tiết ngôn ngữ. 
2. Thực trạng sử dụng tiếng Việt “phi 
chuẩn” 
2.1. Hình thức sử dụng 
Giới trẻ sáng tạo ra ngôn ngữ của riêng 
mình dựa trên những kết hợp chữ - số, âm, 
nghĩa, chêm xen, hết sức đa dạng. Dưới 
đây, chúng tôi đưa ra một số dạng biểu hiện 
phổ biến trong cách sử dụng ngôn ngữ của 
giới trẻ: 
(1) Sử dụng những kết hợp kì lạ 
Ví dụ: Bật như con lật đật, Chảnh như con 
cá cảnh, Lạnh lùng như con thạch sùng, Ngốc 
như con ốc, Chuối cả nải, Đau sờ cau, Hê lô 
cô sô vô, 
(2) Sử dụng biến âm 
Giới trẻ thường viết theo âm đọc, nhưng 
biến tướng một cách sai chính tả, không giống 
với ngôn ngữ phổ thông, cũng không giống 
với bất kì ngôn ngữ nào khác. 
Ví dụ: Dám -> zám, rồi -> roài/ rùi/ gòi, 
mà -> mừ, lắm -> lém, quen -> wen, không -> 
hok, yêu -> iêu, thích -> thik, buồn -> bùn, 
vậy -> dị, biết -> bít, về -> dìa, trời ơi -> trùi 
ui, chiều -> chìu, mà -> mừ, chết -> chít, 
(3) Sử dụng tiếng Anh chen tiếng Việt 
Đây là lối sử dụng ngôn ngữ nửa Tây nửa 
ta hay tiếng bồi trong giao tiếp. Hiện tượng 
"sính ngoại ngữ" này nhiều khi bị lạm dụng 
một cách vô tội vạ, gây phản cảm. Chúng ta 
thường xuyên bắt gặp các cách nói, như: 
“book phòng” (đặt phòng), “thank you anh” 
(cảm ơn anh), “sorry anh, em forget mất” (xin 
lỗi anh, em quên mất), Thậm chí, cách 
chêm xen tiếng Anh này còn được sử dụng với 
mật độ cao, chẳng hạn: “Tuần này tớ bận làm 
case study cho môn OE. Đang thi Micro muốn 
die luôn đây, chưa kể leader cứ nhắc nhở mãi 
về present cho môn bà giáo Nancy”. 
Cách nói chêm xen này, dễ được chấp nhận 
hơn đối với những thuật ngữ khoa học, công 
nghệ thông tin (ví dụ: email, folder,) vì chưa 
có thuật ngữ tương đương hay thuật ngữ tiếng 
Việt chưa thực sự phổ biến. Nhưng có những 
từ có thể tìm thấy từ tiếng Việt tương đương 
nhưng giới trẻ vẫn thường xuyên chêm xen từ 
ngữ nước ngoài vào. 
(4) Sử dụng loại "chữ cái" từ các biểu 
tượng (symbol) hay các kí tự ASCII trong ứng 
dụng văn phòng Microsoft Word thay thế các 
bảng mẫu chữ cái truyền thống, chẳng hạn: A 
= Cl; B = β ; C = ( ; D = ]) , Ví dụ: vCl 
†|ºCl]\[ †ºCl ]\[ "†Cl/v\ †]†"(có nghĩa: và... 
hoàn toàn "tậm tịt"; chú giải: V = v, A = Cl, H 
= †|, O = º, N = ]\[, T = †, M = /v\, I = ]). 
(5) Sử dụng con số thay chữ 
Giới trẻ có những thỏa thuận ngầm, quy 
ước chữ cái tiếng Việt sang con số: A = 1, B = 
2, C = 3, Ví dụ: 8 0? (có nghĩa: Chat 
không?) 
(6) Viết tắt 
Giới trẻ tận dụng tối đa các hình thức viết 
tắt. Thậm chí còn kết hợp giữa biến dạng, biến 
âm, chuyển đổi chữ sang số, trước khi viết 
tắt. Nhìn chung, viết tắt là hình thức khá đa 
dạng mà giới trẻ thường xuyên sử dụng. 
Ví dụ 1: Trong tiếng Việt, "tạm biệt", tương 
đương với "bye bye " trong tiếng Anh, nhưng 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5 (223)-2014 
4 
giới trẻ thường biến âm thành "bibi" hoặc 
"pipi", và khi viết tắt thì còn "bb" hay "pp". 
Ví dụ 2: Chúng ta cũng bắt gặp hàng loạt 
các hình thức viết tắt như: 
Xin chào = Hi -> 2! 
Bạn = You -> U 
Chúc ngủ ngon = Good night -> G9 
Ví dụ 3: 
- Em yêu anh, hẹn gặp lại, ngủ ngon nhé! = 
I love you, see you later, good night ->Ilu, 
Sul, G9. 
- Hẹn gặp bạn tối nay = See you tonight -
>Cu 29. 
(7) Dùng nguyên cả một cụm từ hoặc một 
từ ghép hoặc một tên riêng của một người, 
một địa phương hoặc một nước, chỉ lấy ra một 
từ tố trong đó 
Ví dụ: Thay vì nói “lâu”, người ta nói “Hà 
Văn Lâu” (hay “Hồng Lâu Mộng”); thay vì 
nói “đông” (đúc), người ta nói “Hà Đông”; 
thay vì nói “xa”, người ta nói “Natasha” (chỉ 
lấy âm cuối, “Sha”, phát âm theo giọng miền 
Bắc là “xa”); thay vì nói “xinh” (xắn), người ta 
nói “nhà vệ sinh” (âm /s/ bị biến thành /x/); 
thay vì nói “tiện”, người ta nói “đê tiện”; thay 
vì nói “cạn” (li), người ta nói “Bắc Cạn”; thay 
vì nói “can” (ngăn), người ta nói “Lương Văn 
Can”; và thay vì nói “chia” (tiền), người ta nói 
“Campuchia”. Kết quả, ta thấy có một mẩu 
đối thoại lạ lùng như sau: 
- “Đi gì mà Hà Văn Lâu thế?'' 
- ''Ừ, tại đường Hà Đông quá!'' 
'- 'Từ đấy đến đây có Natasa không?'' 
- “Không. À, mà hôm nay em trông 
hơi nhà vệ sinh đấy nhé!” 
- “Khéo nịnh! Tí nữa, đi về, có đê tiện, mua 
giùm em tờ báo nhé!” 
- “Ừ, mà thôi, bây giờ nhậu đi!” 
- “Ừ, Bắc Cạn đi, các bạn ơi!'' 
- “Thôi, tôi Lương Văn Can đấy!” 
- ''Này, hết bao nhiêu đấy, để 
còn Campuchia?'' 
[
tuong-phan-ngon-ngu-o-vietnam/1507491.html ] 
(8) Cố tình nói ngọng và viết sai chính tả 
Ví dụ: Từ "như thế nào" sẽ được nói tắt là 
"như nào", rồi có người lại cố tình nói sai 
thành "dư lào". 
Nhìn chung, ngôn ngữ giới trẻ chủ yếu 
thay đổi về mặt từ vựng (hình dạng chữ viết) 
và mặt ngữ âm (âm thanh của ngôn ngữ), 
còn ngữ nghĩa, ngữ pháp hầu như không 
thay đổi. Sự biến đổi này không chỉ diễn ra 
mạnh mẽ, trên diện rộng, mà còn biểu hiện 
rất đa dạng về hình thức. 
(9) Sử dụng tiếng lóng 
Ví dụ: xoắn (công kích), bó tay.com 
(chịu), chuối/ chuối cả nải (sến, dở), quẩy 
(làm náo động lên), vãi (quá), 
2.2. Phạm vi sử dụng 
Sự phát triển phổ biến của ngôn ngữ giới 
trẻ biểu hiện ở chỗ nó không chỉ được sử 
dụng ở riêng một vùng miền nào, mà nó phổ 
biến từ thành thị tới nông thôn. Ngôn ngữ 
này xuất hiện lan tràn trên các trang điện tử, 
các diễn đàn, thậm chí trên cả một số 
phương tiện giáo dục - truyền thông như báo 
chí, đặc biệt là những tờ báo hướng tới đối 
tượng chủ yếu là giới trẻ. 
Để tìm hiểu phạm vi sử dụng ngôn ngữ 
giới trẻ, chúng tôi tiến hành khảo sát hơn 
1000 phiếu với đối tượng là học sinh, sinh 
viên trong độ tuổi từ 17-26, kết quả thu được 
như sau: 
Hình 
thức 
Gia đình Trường học Những nơi khác Mọi nơi Không nơi nào 
Tổng 
số 
phiếu 
hợp lệ 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
(%) 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
(%) 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
(%) 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
(%) Tần số 
Tỉ lệ 
(%) 
Tần số 
(100%) 
Chêm 62 6.7 336 36.3 533 57.6 12 1.3 69 7.5 925 
Số 5 (223)-2014 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
5 
xen 
ngoại 
ngữ 
Cách 
kết 
hợp lạ 
85 9.1 359 38.6 485 52.2 24 2.6 66 7.1 929 
Thay 
đổi 
hình 
thức từ 
70 7.6 340 37.1 498 54.3 25 2.7 72 7.9 917 
Sử 
dụng 
biểu 
tượng 
vui 
73 8 290 31.8 535 58.7 16 1.8 84 9.2 911 
Viết 
tắt 
79 8.6 307 33.4 563 61.1 18 2 58 6.3 922 
Sử 
dụng 
số kết 
hợp 
chữ 
58 6.4 250 27.5 514 56.5 13 1.4 132 15 910 
Tiếng 
lóng 
64 7 287 32 588 65 27 3 62 6.8 910 
0
10
20
30
40
50
60
70
Chêm xen
ngoại ngữ
Cách kết
hợp lạ
Thay đổi
hình thức
từ
Sử dụng
biểu tượng
vui
Viết tắt Sử dụng
số kết hợp
chữ
Tiếng lóng
Gia đình
Trường học
Những nơi khác
Mọi nơi
Không nơi nào
Kết quả khảo sát về môi trường mà giới trẻ 
sử dụng ngôn ngữ của mình cho thấy dù là 
hình thức nào (chêm xen ngoại ngữ, sử dụng 
cách kết hợp lạ, thay đổi hình thức từ, viết 
tắt,) thì đa phần giới trẻ đều ít khi sử dụng 
trong giao tiếp gia đình, trường học; phần lớn 
số người được hỏi đều trả lời rằng họ sử dụng 
trong các môi trường khác, số người trả lời sử 
dụng ở mọi nơi hay không sử dụng ở nơi nào 
chiếm tỉ lệ ít hơn hẳn. Chẳng hạn, đối với 
Hình thức chêm xen ngoại ngữ, 57,6% trả lời 
sử dụng ở những nơi khác; 36,3% sử dụng ở 
trường học; 7,5% trả lời không sử dụng ở nơi 
nào; chỉ 6,7% sử dụ ... 
dụng chiếm tỉ lệ cao hơn các hình thức khác. 
Như vậy, không riêng hình thức nào, phần 
lớn giới trẻ đều thỉnh thoảng mới sử dụng, số 
người sử dụng ở mức thường xuyên không 
Số 5 (223)-2014 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
7 
phải là đa số. Có thể, với mức độ sử dụng này, 
chúng ta không nên/ không cần thiết phải nâng 
nó lên thành hiện tượng báo động, nguy cấp 
mà cần bình tĩnh để nhìn nhận từng hình thức. 
3.Tiếng Việt “phi chuẩn” dưới góc nhìn 
của ngôn ngữ học xã hội 
3.1. Đi tìm lí do sử dụng tiếng Việt “phi 
chuẩn” của giới trẻ 
Để tìm hiểu về nguyên nhân tại sao ở độ 
tuổi này giới trẻ lại hay sử dụng lối diễn đạt 
như vậy, chúng tôi đưa ra câu hỏi về lí do sử 
dụng "ngôn ngữ 9X", lí do được lựa chọn 
nhiều nhất là Tùy hứng, không có gì đặc biệt 
(42.5%), tiếp đến là các lí do khác Giảm thiểu 
số kí tự phải gõ (41%), Thể hiện cảm xúc, thay 
lời muốn nói (38.1%), Tạo sự mới lạ trong 
cách nói/ viết (32.1%), các Lí do khác chiếm tỉ 
lệ không đáng kể (4.8%). Điều này được thể 
hiện cụ thể trong bảng sau: 
Lí do sử dụng Tần số 
Tỉ lệ 
(%) 
Tạo sự mới lạ trong 
cách nói/ viết 322/1002 32.1 
Giảm thiểu số kí tự 
phải gõ 410/1002 41 
Thể hiện cảm xúc, 
thay lời muốn nói 382/1002 38.1 
Tùy hứng, không có 
gì đặc biệt 426/1002 42.5 
Lí do khác 48/1002 4.8 
Lí giải thêm về những lí do nói trên, chúng 
tôi đưa ra một số nhận định về nguyên nhân sử 
dụng như sau: 
(1) Về mặt tâm lí, ở lứa tuổi này, giới trẻ 
thường thích chứng tỏ bản thân, muốn được 
khẳng định sự độc đáo cá nhân bằng những 
điều mới lạ. Ngoài việc thể hiện bằng cách ăn 
mặc, kiểu tóc, các trò giải trí, thì ngôn ngữ 
cũng là một trong số những cách để giới trẻ 
khẳng định "đẳng cấp" và cá tính của mình. 
Một số em còn cho rằng đó là "bộ nhận diện 
thương hiệu" của "tuổi teen". Đồng thời, nếu 
nói về sự nhanh nhạy trong việc khám phá, 
nắm bắt cái mới thì giới trẻ luôn là đối tượng 
đi đầu. Đa phần giới trẻ rất hứng thú với 
những công việc sáng tạo, giàu trí tưởng 
tượng, thậm chí là phá cách. Các "thành ngữ 
sành điệu" kiểu như: "Đau khổ như con hổ", 
"Ghét như con bọ chét", "Tào lao bí đao" 
cũng vì thế mà xuất hiện. Cũng ở giai đoạn 
này, do đặc điểm tâm sinh lí, giới trẻ cũng dễ 
bị cuốn theo trào lưu mới, nhất là những trào 
lưu mang đặc trưng phong cách lứa tuổi. 
Thông thường, việc theo trào lưu được giới trẻ 
xem là phù hợp, không lạc hậu hay dị biệt. 
(2) Ngôn ngữ giới trẻ thể hiện được sự vui 
tươi, hồn nhiên, nhí nhảnh, sự sáng tạo, với 
mục đích tạo sự vui vẻ, gần gũi, thu hẹp 
khoảng cách trong giao tiếp. Hơn nữa, với 
những kí tự sáng tạo này, giới trẻ có thể dễ 
dàng biểu lộ cảm xúc của mình. Trong nhiều 
trường hợp, nó làm giảm bớt sự nghiêm túc, 
khô khan, nhàm chán so với ngôn ngữ bình 
thường. Chẳng hạn, "hem bit âu nà" (không 
biết đâu nè), dễ khiến người ta hình dung đến 
một đứa con nít nhõng nhẽo, nũng nịu, dễ 
thương. Như vậy, ngoài thông tin thuần túy thì 
ngôn ngữ giới trẻ còn thể hiện rất rõ thái độ, 
cảm xúc của những đối tượng tham gia giao 
tiếp. 
(3) Bằng việc sử dụng ngôn ngữ giới trẻ, có 
thể giảm bớt số lần đánh kí tự. Điều này giúp 
tiết kiệm thời gian, công sức. Có nghĩa là đối 
việc giao tiếp bằng kí tự, trong một tin nhắn đi 
có thể truyền tải được lượng thông tin nhiều 
nhất, nhanh nhất với số kí tự ít nhất nếu biết 
cách. Ví dụ: không = ko, k; biết = bit; tình yêu 
= ty; xin chào = hi, 2; Good night to you = 
G92U; Bạn bao nhiêu tuổi, giới tính, ở đâu = 
what is your age, sex, location? = ASL?; 
những = ~ ; khác = #, ... Do đó, thay vì sử 
dụng cách viết thông thường, giới trẻ thường 
lựa chọn cho mình cách viết tắt, cách thay thế 
các kí tự chuẩn bằng các kí tự gần giống. Tuy 
nhiên, việc sáng tạo ra các kí tự không phải 
bao giờ cũng giản tiện hơn, mà lại rất phức tạp 
đến mức người ngoài không thể hiểu nổi. 
Trong trường hợp này, mục đích bảo mật 
được đặt lên trước. 
(4) Như có đề cập ở trên, ngôn ngữ mà giới 
trẻ sáng tạo ra là ngôn ngữ có tính bảo mật cao 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5 (223)-2014 
8 
với người lớn hoặc người không cùng nhóm. 
Giới trẻ coi đó là những "phát minh ngôn ngữ" 
giúp họ trao đổi, chia sẻ "nội bộ" với nhau mà 
người lớn khó có thể hiểu và kiểm soát được. 
Chính vì những lí do trên mà "ngôn ngữ 
tuổi teen" được hình thành và phổ biến, nhằm 
thỏa mãn nhu cầu của bản thân và thể hiện đặc 
trưng của lứa tuổi này. Nó cũng thể hiện sự 
thông minh, sáng tạo, trí tưởng tượng phong 
phú, nhanh nhạy, linh hoạt, của giới trẻ hiện 
nay. 
3.2. Một số giải pháp cho vấn đề sử dụng 
ngôn ngữ giới trẻ dưới góc nhìn của ngôn ngữ 
học xã hội 
Trước thực trạng ngôn ngữ giới trẻ hiện 
nay, liệu có nên phủ nhận hết "những biến tấu" 
trong ngôn ngữ giới trẻ? Nếu không phủ nhận 
hết thì những hiện tượng nào có thể chấp 
nhận? Chấp nhận trong phạm vi nào và với 
đối tượng nào? 
(1) Về phạm vi sử dụng (sử dụng ở đâu? 
với đối tượng nào?), cần phải xét đến tính quy 
thức - không quy thức, tính trang trọng - suồng 
sã, để lựa chọn việc sử dụng ngôn ngữ cho 
phù hợp. 
Đối với môi trường quy thức (trường học, 
công sở, tòa án,) hay giao tiếp với người 
trên, ngôn ngữ đòi hỏi phải có sự chuẩn mực. 
Đó là phép ứng xử có văn hóa, thể hiện thái độ 
lịch sự của người nói. Như vậy, các đơn từ, 
văn bản, hành chính; các bài thi, kiểm tra, 
giấy xin phép, bản kiểm điểm, ở trường học 
đều không nên sử dụng ngôn ngữ mà giới trẻ 
đang dùng. 
Với các sách báo, phim ảnh, cũng không 
nên lạm dụng ngôn ngữ giới trẻ. Mặc dù, trong 
chừng mực nào đó, cách viết/ cách nói đó gần 
gũi với giới trẻ, phản ánh đúng phong cách của 
giới trẻ hiện nay. Song, những hình thức ấn 
phẩm này vốn là thứ chuyển tải cái hay, cái 
đẹp, nét văn hóa đến với đông đảo công 
chúng, không chỉ riêng giới trẻ, nên việc sử 
dụng ngôn từ cũng nên cân nhắc sao cho phù 
hợp. Việc lạm dụng, chạy theo thị hiếu của 
một số ít người, có thể làm cho cả một thế hệ 
có những nhận thức lệch lạc, thậm chí có thể 
làm mất đi những giá trị nhân văn sâu sắc của 
tác phẩm [17]. 
Đối với môi trường không quy thức (giao 
tiếp sinh hoạt hàng ngày/ khẩu ngữ, tin nhắn 
điện thoại, mạng xã hội,) hay nói chuyện 
với đối tượng là bạn bè, người ít tuổi hơn, 
thì không cần phải đòi hỏi khắt khe về tính 
trang trọng hay chuẩn mực ngôn ngữ. Trong 
những trường hợp này, nên tôn trọng quyền tự 
do lựa chọn cách diễn đạt và thể hiện cá tính/ 
phong cách của mình. Thiết nghĩ, khi giới trẻ 
vẫn có thể sử dụng, có thể hiểu được thứ mà 
họ tạo ra, có nghĩa là ngôn ngữ vẫn đang thực 
hiện chức năng là phương tiện để giao tiếp. 
Với một môi trường khác, đối tượng khác, họ 
sẽ tự nhận thức để điều chỉnh ngôn ngữ. Ắt 
hẳn, không ai lại cố diễn đạt điều mình muốn 
truyền đạt thông tin, chia sẻ tâm tư, bằng 
thứ ngôn ngữ mà người khác không hiểu. 
(2) Có thể nói, ngôn ngữ "tuổi teen" dễ ăn 
sâu vào lời ăn, tiếng nói, cách hành xử của 
giới trẻ, kể cả trong môi trường học đường. Đó 
là lí do vì sao nhiều người lo ngại và kịch liệt 
lên án cách sử dụng ngôn từ "biến dị" của giới 
trẻ. Song, nhìn nhận ở một mặt khác thì có 
những yếu tố có thể chấp nhận được (viết tắt 
để tiết kiệm kí tự, thể hiện cá tính,), bởi đó 
là những sáng tạo hài hước với mục đích chính 
là vui thú, giải trí. Chẳng hạn, đối với các câu 
được tạo ra nhờ sự hiệp vần: Chuẩn không cần 
chỉnh, Cướp trên giàn mướp, Nhục như con 
trùng trục Nói như tác giả Phạm Văn Tình, 
"giới trẻ đã sáng tạo ra các thành ngữ hiện 
đại dựa trên việc sử dụng chất liệu dân gian", 
nó không khác gì các câu đồng dao hay các 
câu cửa miệng mà chúng ta vẫn thường nói, 
như: "Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu 
sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ 
các" hay "Mất tí da là ba đồng sáu, mất tí máu 
là sáu đồng tư",[16]. 
Nhiều người lo ngại rằng, việc không cấm 
một cách triệt để ngôn ngữ giới trẻ hay vẫn 
cho chúng môi trường để tồn tại sẽ làm 
phương hại và ảnh hưởng ít nhiều khi sử dụng 
Số 5 (223)-2014 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
9 
trong những môi trường quy phạm. Minh 
chứng là hiện tượng học sinh sử dụng ngôn 
ngữ "tuổi teen" trong vở ghi, các bài kiểm tra, 
thi cử trên lớp. Thực tế, hiện tượng này là có, 
nhưng những thiết chế, quy định trong nhà 
trường sẽ là cách để giới trẻ hạn chế sử dụng 
chúng. Một học sinh sử dụng một cách lạm 
dụng ngôn ngữ giới trẻ trong bài thi có thể bị 
trừ điểm, bị điểm kém hay bị phê bình trước 
lớp. Từ những hình thức đó, những học sinh 
từng vi phạm có thể tự rút ra kinh nghiệm cho 
mình nếu không muốn tiếp tục chịu những 
hình phạt đó. 
(3) Theo kết quả khảo sát, tùy môi trường, 
tùy đối tượng mà giới trẻ có sự điều chỉnh 
trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bản thân ngôn 
ngữ giới trẻ không có đủ sức mạnh để thay đổi 
được hệ thống tiếng nói và chữ viết tiếng Việt 
hiện nay, hơn nữa chữ viết tiếng Việt tương 
đối ổn định nên cũng khó có thể có xảy ra 
những biến đối lớn được. Do đó, nên bình tĩnh 
để nhìn nhận chúng, cũng không nên lấy ngôn 
ngữ cũ làm chuẩn để đánh giá ngôn ngữ giới 
trẻ là lệch chuẩn. Thời gian sẽ quyết định sự 
tồn tại của ngôn ngữ tuổi teen. Nói khác đi, 
ngôn ngữ này sẽ được sử dụng, và trải qua cơ 
chế sàng lọc và đào thải riêng của nó. Có 
những yếu tố sẽ đi vào xã hội một cách phổ 
biến, làm phong phú hơn tiếng Việt, song, 
cũng có những yếu tố sẽ được sử dụng thưa 
dần rồi mất đi. Như vậy, những yếu tố ngôn 
ngữ mới, ban đầu đôi khi chỉ là những câu cửa 
miệng, nhưng được cộng đồng thừa nhận thì 
chúng có thể được đưa vào từ điển hay sử 
dụng trong một số kiểu loại văn bản nhất định; 
còn những yếu tố chỉ sử dụng phổ biến trong 
một nhóm người, nhóm tuổi, nếu không được 
cả cộng đồng chấp nhận thì nó cũng không thể 
trở thành ngôn ngữ chính thức được. Đồng 
thời, cơ chế tự điều tiết của ngôn ngữ cũng sẽ 
giúp cho nó tự cân bằng, tự điều chỉnh, không 
"rối loạn" đến mức "báo động" như nhiều 
người vẫn nghĩ. 
Hiểu được sự vận động trong nội tại của 
ngôn ngữ, chúng ta không nên và cũng không 
thể cấm được việc sử dụng ngôn ngữ teen. 
Giới trẻ sẽ vẫn tiếp tục sử dụng nếu nó vẫn 
đảm bảo được mục đích giao tiếp và thỏa mãn 
nhu cầu khẳng định phong cách lứa tuổi. Việc 
chấp nhận và nhân rộng nó đến đâu là phụ 
thuộc vào ý thức xã hội. Chúng ta chỉ nên giáo 
dục để giới trẻ nhận thức được được vấn đề 
này và biết ứng xử có văn hóa. Nghĩa là giúp 
giới trẻ hiểu được việc sử dụng ngôn ngữ này 
trong trường hợp nào (đối tượng, hoàn cảnh, 
mục đích,) thì được chấp nhận, còn trong 
những trường hợp nào thì không được chấp 
nhận. Qua đó, giới trẻ sẽ tự nhận thức được và 
thu hẹp ngôn ngữ của mình cho phù hợp với 
môi trường quy thức. 
Như vậy, "Áp lực của thói quen trong sử 
dụng ngôn ngữ là vô cùng lớn. Chúng ta 
không nên tung hô nhanh chóng, cũng không 
phủ định nhanh chóng, mà phải bình tĩnh, tìm 
hiểu về hạt nhân giá trị và bản chất của nó 
một cách ôn hòa" [Phạm Văn Tình,13]. Và 
bản chất ở đây là, ngôn ngữ luôn ở trạng thái 
động, các yếu tố hiện tại luôn không ngừng 
biến đổi hoặc tiềm ẩn sự biến đổi, làm xuất 
hiện các yếu tố mới. Giữa trạng thái cân bằng 
và không cân bằng, cân bằng là xu thế, không 
cân bằng chỉ là sự biến động (có thể lúc mạnh, 
lúc yếu hơn cân bằng) dưới tác động của bối 
cảnh ngôn ngữ - xã hội. Về tính biến đổi của 
hiện tượng ngôn ngữ, cần phải cân nhắc kĩ 
lưỡng để có cái nhìn khách quan, không nên 
phê phán một cách cứng nhắc các hiện tượng 
ngôn ngữ mới, và cho rằng mọi biến đổi đều là 
phi chuẩn. "Chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung và 
chuẩn hóa tiếng Việt nói riêng [] cần phải 
thuận theo tính tự nhiên của ngôn ngữ, thuận 
theo xu thế phát triển của xã hội" [Nguyễn 
Văn Khang 2003, tr.53]. 
4. Kết luận 
Tóm lại, dưới góc độ của ngôn ngữ học xã 
hội, việc sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ của 
giới trẻ ngày nay là hiện tượng không lạ. Bởi 
ngôn ngữ không cố định mà luôn luôn biến đổi 
(sự mất đi và sự thu nạp các yếu tố), và ngôn 
ngữ của giới trẻ chính là biểu hiện của sự biến 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5 (223)-2014 
10 
đổi đó. Sự biến đổi nào cũng tiềm ẩn những 
yếu tố tích cực và tiêu cực của nó. Vì thế 
nên lắng nghe, bình tĩnh nhìn nhận tiếng nói 
của giới trẻ, không nên quy kết tất cả những 
cách nói "phá cách" của họ là biểu hiện của 
sự "thiếu chuẩn mực", "không nghiêm 
túc", ảnh hưởng đến "sự trong sáng của 
tiếng Việt". Nói khác đi, chuẩn ngôn ngữ 
không có nghĩa là điều chỉnh để ngôn ngữ 
"nhất thành bất biến", mà hãy để chúng tự 
biến đổi và tự điều tiết. Không có ngôn ngữ 
nào là chuẩn ngay từ đầu và chuẩn "mãi 
mãi", bởi cái chuẩn của hôm nay có thể 
không còn chuẩn vào ngày mai hay cái 
không chuẩn của hôm nay có thể trở thành 
chuẩn của ngày mai. Cũng không phải mọi 
yếu tố ngôn ngữ mới xuất hiện đều lành 
mạnh và được chấp nhận rộng rãi. Xã hội sẽ 
sàng lọc và gạn lại những yếu tố phù hợp 
theo quy luật đào thải, chọn lọc tự nhiên. 
Còn việc dùng chúng như thế nào lại phụ 
thuộc vào nhận thức và ý thức của người sử 
dụng. Sử dụng đúng lúc, đúng nơi, đúng đối 
tượng thì sẽ đem lại giá trị tích cực và ngược 
lại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Allen, I. L (1998), Slang: Sociology, In J. 
Mey & R. Asher (eds), Concise encyclopedia of 
pragmatics, Amsterdam: Elsevier, 878-883. 
2. Andersen, G and Anna-Brita Stenström 
(1996), More trends in teenage talk, 
o.html#CBR. 
3. Andersen, G (1997), They like wanna see 
like how we talk and all that, The use of like as a 
discourse marker in London teenage speech, In 
M. Ljung (ed), Corpus-based studies in English, 
Amsterdam: Rodopi, 37-48. 
4. Andersen, G (1997), Pragmatic markers in 
teenage and adult conversation, University of 
Bergen 
5. Andersson, G. & P. Trudgill (1990), Bad 
language, Oxford: Blackwell. 
6. Anna-Brita Stenström, Gisle Andersen và 
Ingrid Kristine Hasund (2002), Trends in 
teenage talk, Corpus compilation, analysis and 
findings. Studies in Corpus Linguistics. 
7. Anna-Brita Stenstrom, From slang to 
slanguage: a description based on teenage talk, 
slanguage/. 
8. Butler, J (1997), Mind your slanguage: 
Kids reveal their new lingo. In The Mirror, 
Friday July 18. 
9. Catie Holdridge, The slang debate, 
10. Eble, C (1996), Slang and sociability: in-
group language among college students, The 
University of North Carolina Press. 
11. The bergen corpus of London teenage 
talk (COLT).  
12. Graeme Paton (2008), Standard English 
in decline among teenagers, 
7/Standard-English-in-decline-among-
teenagers.html. 
13. Hồ Hương Giang (2012), Giới trẻ phản 
biện "Sát thủ đầu mưng mủ" 
tre-phan-bien-sat-thu-dau-mung-mu.html 
14. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ 
học xã hội, Nxb Giáo dục. 
15. Nguyễn Văn Khang (2003), Kế hoạch 
hóa ngôn ngữ - Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô, Nxb 
KHXH. 
16. Lê Trường (2012), Thành ngữ tuổi teen 
có lệch chuẩn tiếng Việt? 
nh-ngu-tuoi-teen%E2%80%9D-co-lech-chuan-
tieng-viet.6310/ 
17. Uyển Phan U.P, Bạo hành tiếng Việt để 
câu khách 
x?ID=57578 . 
18. Vanessa Barford (2009), Mind your 
slanguage 
/8388545.stm. 
19. Lê Vy (2012), “Ngôn ngữ “lai căng” của 
giới trẻ” 
lai-cang-cua-gioi-tre.htm. 
 (Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 23-04-2014) 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_su_dung_tieng_viet_phi_chuan_cua_gioi_tre_hien_na.pdf