Khảo sát hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong một số cấu trúc điều kiện tiếng Việt

Theo Searle, khái niệm hành vi ngôn ngữ gián tiếp được hiểu là một hành động tại lời

(illocutionary act) được thực hiện một cách gián tiếp qua việc thực hiện một hành động tại lời

khác [7,168]. Hay nói như Nguyễn Thiện Giáp, đó là “hành động ngôn từ được thực hiện ở

những phát ngôn có quan hệ gián tiếp giữa một chức năng và một cấu trúc” [5,55], phân biệt

với hành động ngôn từ trực tiếp (khi có quan hệ trực tiếp giữa một chức năng và một cấu

trúc).

Cấu trúc điều kiện là một trong những cấu trúc mà ngữ nghĩa và ngữ pháp của nó tỏ ra

thích hợp trong việc thực hiện hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Trong hội thoại, thông qua ngữ

cảnh và tình huống giao tiếp, một phát ngôn điều kiện trần thuật hoặc một phát ngôn điều

kiện nghi vấn có thể được chuyển đổi thành một hành vi gián tiếp mà ở đó hành vi “cố hữu”

của nó đã bị chuyển đổi sang một hành vi khác.

pdf 9 trang yennguyen 5580
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong một số cấu trúc điều kiện tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong một số cấu trúc điều kiện tiếng Việt

Khảo sát hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong một số cấu trúc điều kiện tiếng Việt
 1 
KHẢO SÁT HÀNH VI NGÔN NGỮ GIÁN TIẾP 
TRONG MỘT SỐ CẤU TRÚC ĐIỀU KIỆN TIẾNG VIỆT1 
___________________________________________________________Lê Thị Minh Hằng 
Theo Searle, khái niệm hành vi ngôn ngữ gián tiếp được hiểu là một hành động tại lời 
(illocutionary act) được thực hiện một cách gián tiếp qua việc thực hiện một hành động tại lời 
khác [7,168]. Hay nói như Nguyễn Thiện Giáp, đó là “hành động ngôn từ được thực hiện ở 
những phát ngôn có quan hệ gián tiếp giữa một chức năng và một cấu trúc” [5,55], phân biệt 
với hành động ngôn từ trực tiếp (khi có quan hệ trực tiếp giữa một chức năng và một cấu 
trúc). 
Cấu trúc điều kiện là một trong những cấu trúc mà ngữ nghĩa và ngữ pháp của nó tỏ ra 
thích hợp trong việc thực hiện hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Trong hội thoại, thông qua ngữ 
cảnh và tình huống giao tiếp, một phát ngôn điều kiện trần thuật hoặc một phát ngôn điều 
kiện nghi vấn có thể được chuyển đổi thành một hành vi gián tiếp mà ở đó hành vi “cố hữu” 
của nó đã bị chuyển đổi sang một hành vi khác. 
– Câu điều kiện trần thuật chuyển sang hành vi gián tiếp từ chối: 
(Đây là câu trả lời của một cô gái trong tình huống bạn trai của một cô gái ngỏ lời mời cô 
đi chơi). 
(1) Nếu ba mẹ em biết thì sẽ đánh em chết mất. 
 Qua thông báo trên, cô gái thực hiện hành vi gián tiếp là từ chối lời mời của người yêu. 
– Câu điều kiện nghi vấn chuyển sang hành vi gián tiếp cảnh báo: 
(Đây cũng là câu trả lời của một cô gái trong tình huống bạn trai của cô ngỏ lời mời cô đi 
chơi) 
(2) Nhỡ ba mẹ em biết thì sao? 
Câu trên mang dạng thức câu hỏi nhưng hoàn toàn không chờ đợi một câu trả lời ở người 
nghe; khi phát ngôn câu này, người nói chỉ thực hiện hành vi gián tiếp là cảnh báo một khả 
năng xấu có thể xảy ra, và từ đó can ngăn người nghe đừng nên rủ cô đi chơi. 
Mọi phát ngôn luôn tiềm tàng khả năng chuyển đổi hành vi gián tiếp này sang hành vi gián 
tiếp khác, tùy vào ngữ huống và điều kiện hội thoại nhất định chứ không đóng khung trong 
một sự tương ứng 1-1 giữa cấu trúc và chức năng, nói theo Nguyễn Thiện Giáp. Vì thế muốn 
biết một câu cụ thể có những hành vi ngôn ngữ gián tiếp nào và hành vi nào là chính yếu 
trong câu, nhất thiết phải căn cứ vào ngữ cảnh mà câu xuất hiện, nói cách khác, “tình huống 
không chỉ là nơi cho lời nói tồn tại và hoạt động, mà còn là yếu tố tác động trở lại lời nói, 
khiến cho các hàm ý xuất hiện tùy theo những điều kiện của nó” [6,111]. 
Một tình huống (T) tác động đến nhân vật (A) để (A) phát ra lời nói (X) có hành vi gián 
tiếp (N), nhưng nếu một tình huống (T’) tác động đến nhân vật (A) để (A) phát ra lời nói (X) 
thì (X) trong tình huống này có thể sẽ mang hành vi gián tiếp (N’) chứ không phải là (N) nữa. 
Chẳng hạn: 
(3) (Tình huống1: A nói, nhưng B không nghe được. Sau đó B bộc lộ) 
B: Anh nói chầm chậm một chút thì tôi mới nghe được. 
1
 Bài đã đăng ở tạp san Khoa học xã hội & nhân văn, số 24-2003, Trường Đại học KHXH&NV 
Tp.HCM. 
 2 
 (Tình huống 2: A nói, B không nghe được nên ngắt lời A và nói) 
B: Anh nói chầm chậm một chút thì tôi mới nghe được. 
Hai nhân vật trong cùng một quan hệ, nhưng rõ ràng chúng mang hai hành vi ngôn ngữ 
gián tiếp khác nhau. Ở tình huống 1, phát ngôn của B biểu hiện một hành vi gián tiếp trách 
cứ: Tại A nói nhanh nên B không nghe được. Ở tình huống 2, phát ngôn của B biểu hiện hành 
vi yêu cầu: Anh làm ơn nói chậm lại một chút. 
(4) (Tình huống 1: Một người bị ai đó làm hư xe. Bạn anh ta nói) 
Nếu như người khác thì người ta bắt đền rồi. 
 (Tình huống 2: Một người làm hư xe ai đó. Bạn anh ta cũng nói) 
Nếu như người khác thì người ta bắt đền rồi. 
Ở tình huống 1, phát ngôn của người bạn thực hiện một hành vi gián tiếp khuyên anh ta 
nên yêu cầu bồi thường, vì trong những trường hợp tương tự người ta thường làm như thế. Ở 
tình huống 2, phát ngôn của người bạn thực hiện một hành vi gián tiếp đánh giá tầm mức của 
sự việc và cũng gián tiếp cho rằng anh ta may mắn lắm nên không bị bắt đền, vì trong những 
trường hợp tương tự người ta đều yêu cầu bồi thường. 
Trong phần sau, chúng tôi sơ bộ trình bày một số hành vi ngôn ngữ gián tiếp được thực 
hiện qua một số cấu trúc điều kiện thường thấy trong tiếng Việt. Vì vấn đề rất rộng và phức 
tạp, chúng tôi chỉ đề cập những cấu trúc điều kiện ở dạng trần thuật được người nói sử dụng 
như những biểu thức có sức tái hiện cao. 
Danh sách này chắc chắn chưa đầy đủ nhưng cũng phản ánh phần nào các đặc điểm dụng 
học của cấu trúc này. 
1. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp của cấu trúc GIÁ/GIÁ MÀ 
1.1. Hành vi gián tiếp yêu cầu, đề nghị 
Trong một phát ngôn có chứa GIÁ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI thường biểu thị một mong muốn, 
một ước mơ của người nói. Ví dụ: 
(5) Giá có ai giúp mình một tay thì đỡ biết mấy! 
Người nói cho rằng mình sẽ “đỡ biết mấy” trong trường hợp “có ai giúp mình một tay”, mà 
trường hợp này rõ ràng là không có thực mà chỉ là mơ ước của người nói, vì có GIÁ đánh 
dấu. Nhưng trong những tình huống nhất định, phát ngôn trên có thể tạo ra một hiệu lực tại 
lời gián tiếp tương đương với một lời yêu cầu hoặc đề nghị. Thử hình dung phát ngôn đó là 
của một cô gái đang rất bận rộn và trước mặt cô ta là một đồng nghiệp đang rảnh rỗi; chắc 
hẳn câu đó không thể là lời bày tỏ một mong ước “thông thường”. Trong điều kiện “bình 
thường”, người nghe sẽ lập tức nhận ra rằng hành vi bày tỏ chỉ là một hành vi thứ yếu, còn 
điều chủ yếu mà người nói muốn thực hiện chính là hành vi đề nghị (được giúp đỡ). Người 
nghe, với cùng một tri thức về ngôn ngữ và văn hóa với cô gái, sẽ dễ dàng lĩnh hội được cái 
điều chủ yếu ấy thông qua một quá trình suy lý diễn ra rất nhanh trong đầu. 
 Một lời nói “mơ ước” tưởng như là bâng quơ như: 
(6) Giá mà có ai mang cho mình một tách cà phê thì hay quá! 
cũng có hiệu lực khiến người đối thoại phải mang đến một tách cà phê thực sự. Dĩ nhiên, giữa 
người nói và người nghe phải có một quan hệ nhất định chứ không thể là hai người xa lạ, và 
người nói cũng phải tin chắc rằng người nghe có khả năng mang cà phê đến cho mình. Nghĩa 
là một hành vi ngôn ngữ gián tiếp chỉ có thể thực hiện trong sự ràng buộc có tính quyết định 
của tình huống. 
 3 
 1.2. Hành vi gián tiếp phủ nhận, bác bỏ 
 Cũng thông qua một câu điều kiện phản sự thật với GIÁ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI, người nói 
có thể gián tiếp phủ nhận hoặc bác bỏ ý kiến của người đối thoại. Ví dụ: 
(7) A: Ông giám đốc của chị năng động ghê nhỉ! 
B: Giá mà được như chị nói thì công ty của tôi đã là một công ty hàng đầu. 
Phát ngôn của A nhằm nhận định một thuộc tính của “ông giám đốc”; lời đáp của B không 
trực tiếp bác bỏ nhận định ấy mà chỉ nêu lên một giả định phản sự thật – nghĩa là không có 
thực (-ông giám đốc năng động-công ty hàng đầu). Chính sự có mặt của giá đã gián tiếp phản 
bác nhận định của A, trong khi đó B lại ít chịu trách nhiệm về lời chê bai của mình vì hoàn 
toàn không có một hiển ngôn nào cho thấy B đã đánh giá thấp ông giám đốc. Cấu trúc giả 
định này tỏ ra đắc dụng cho những trường hợp người nói không tiện hoặc không muốn bác bỏ 
trực tiếp nhằm tránh xúc phạm thể diện người đối thoại. Tất nhiên, xét cấu trúc toàn câu thì 
không thể bỏ qua sự có mặt của các yếu tố tình thái, trong trường hợp này là đã. Tuy nhiên, 
câu trên hoàn toàn có thể tỉnh lược thành phần đứng sau mà hiệu lực gián tiếp vẫn không suy 
giảm: 
 B: Giá mà được như chị nói.... 
2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp của cấu trúc NHỠ/LỠ...THÌ... 
 NHỠ/LỠ đánh dấu một khả năng xấu có thể có để từ đó trình bày cái sự tình hệ quả của 
nó. Với ngữ nghĩa của NHỠ/LỠ như thế, người ta thường sử dụng cấu trúc NHỠ/LỠ...THÌ... 
để thực hiện hành vi từ chối gián tiếp. Ví dụ: 
(8) Nhỡ ba mẹ nhìn thấy chúng mình đi chơi với nhau thì chết. 
Trước lời mời, bày tỏ sự lo lắng để rồi từ chối quả là đã làm nhẹ lòng người đưa ra lời mời. 
Nhưng trong tình huống khác, một cấu trúc tương tự sẽ được lĩnh hội như là một lời cầu xin, 
nhờ cậy: 
(9) Nhỡ ba mẹ nhìn thấy chị đi chơi với anh ấy thì chị chết. 
Khi nói với cậu em trai như thế, cô chị đã thực hiện hành vi gián tiếp cầu xin của mình (xin 
cậu em giữ bí mật, chẳng hạn) mà không cần thiết phải thêm một cấu trúc cầu khiến nào 
khác. 
 Cấu trúc NHỠ/LỠ...THÌ... đặc biệt có thể dùng ở dạng bỏ lửng hoặc nghi vấn để bày tỏ, từ 
chối hoặc cảnh báo, tùy nội dung câu. Ví dụ: 
(10) a. Đi với anh, nhỡ bố mẹ nhìn thấy.... 
b. Đi với anh thế này, nhỡ bố mẹ nhìn thấy.... 
Câu (a) nếu được nói khi đáp lại lời mời của bạn thì đó là một hành vi từ chối; nếu được nói 
khi đã nhận lời thì đó là hành vi bày tỏ tâm trạng, thái độ. Trong khi câu (b) lại chỉ có thể 
được nói khi đang đi chơi, do vậy nó chỉ có thể là hành vi bày tỏ. 
 Theo quan sát của chúng tôi, các cấu trúc như vừa đề cập được sử dụng để thực hiện một 
hành vi ngôn ngữ đặc biệt mà toàn bộ sức nặng của nó dường như đặt trên từ nhỡ/lỡ. Câu (b) 
hoàn toàn có thể có dạng: 
b’. Đi với anh thế này, nhỡ.... 
mà hiệu lực không hề suy suyển. 
3. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp của cấu trúc NẾU...THÌ... 
3.1. Hành vi gián tiếp khẳng định hoặc phủ định, bác bỏ 
 4 
Với câu hỏi tuyển lựa “có...không?”, “có phải...không?”, người ta sẽ nhận được một câu 
trả lời hoặc khẳng định/xác nhận “có”/”phải” hoặc một câu trả lời phủ định “không”/”không 
phải”. Tuy nhiên, trong hội thoại, các hành vi tại lời như hành vi trần thuật, hành vi hỏi cũng 
có thể trở thành lời đáp cho các câu hỏi tuyển lựa. Cấu trúc điều kiện NẾU...THÌ... có khả 
năng được sử dụng như một hành vi ngôn ngữ gián tiếp như thế. Thí dụ: 
(11) A: Đây có phải là phòng giải quyết khiếu nại không? 
B: Nếu cậu muốn vào Đảng thì mới lên chỗ này. 
Bằng cách nêu lên giả thiết “cậu muốn vào Đảng” mà người nói thừa biết không phải là mục 
đích của người hỏi, người nói gián tiếp thông báo chức năng của cái nơi đang được đề cập, và 
từ đó gián tiếp phủ định “đây không phải là phòng giải quyết khiếu nại”. Hành động phủ định 
gián tiếp đó sở dĩ thực hiện được là vì người nói tin chắc người hỏi có cùng một hiểu biết với 
mình rằng văn phòng Đảng không phải là nơi giải quyết khiếu nại. (Và tất nhiên, trong hội 
thoại, chỉ với điều kiện nhất định thì người đáp mới có thể đưa ra những phát ngôn không 
nhằm trực tiếp vào câu hỏi như thế). 
 Ta cũng có thể gặp những câu giả thiết “cường điệu” nhằm khẳng định “có” cái sự tình mà 
người hỏi đang chất vấn. Trong tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu có một cặp thoại như 
sau: 
(12) Nữ: Anh có yêu tôi thật không? 
Nam: Nếu được chết lúc này dưới chân em tôi cũng không ngần ngại. 
 Hành vi bày tỏ của người nam đã gián tiếp trả lời khẳng định cho câu hỏi, vì có một logic 
“không ngần ngại chết dưới chân em”  “thật sự yêu em” mà hai người tham gia đối thoại 
cùng chia sẻ. 
 Trong cấu trúc điều kiện, ở bộ phận sau thì có thể có tác tố tình thái phải biểu thị tính bắt 
buộc của sự tình mà vị từ sau nó diễn đạt, ta có biểu thức hành vi ngôn ngữ gián tiếp phủ 
nhận, bác bỏ: NẾU...THÌ... PHẢI...(CHỨ). 
(13) A: Chú vẽ hoa gì mà có màu đỏ vậy chú? 
B: Hoa lau đấy! 
B: Nếu hoa lau thì phải có màu trắng! 
Cả người nói và người nghe đều biết quan hệ “tất yếu” (phải) giữa “hoa lau” và “màu trắng”, 
cho nên sẽ không thể hiểu phát ngôn trên như là một hành vi nhận định, trần thuật đơn thuần. 
Người nói nêu ra quan hệ hiển nhiên ấy là để gián tiếp phủ nhận hay phản bác phát biểu “đây 
là hoa lau”. (xem vd (68)) 
 Trường hợp vừa nói, về “cơ chế”, hoàn toàn giống như trường hợp sau đây: 
(14) (Rõ ràng là cậu Chín không ốm. Cậu đã bịa ra cớ ấy để gọi tôi lên Matxcơva. Không 
lẽ bên nhà có tin đột xuất). Nếu có, hẳn mẹ tôi đã đánh điện thẳng cho tôi. 
Câu (13) giống (14) ở chỗ cả hai đều thể hiện quá trình suy luận: 
[(nếu) X (thì) phải/hẳn Y] [không Y thì (chắc chắn) không X] 
như vậy chính tính hiện thực của Y (nghĩa là tình huống) sẽ quyết định ý nghĩa của phát 
ngôn: “không có màu trắng”, “mẹ tôi không gọi điện”  “không phải hoa lau”, “không có tin 
nhà”. Và đó chính là cái “cơ chế” thực hiện hành vi ngôn ngữ gián tiếp (phản bác, phủ nhận) 
của những cấu trúc như thế. 
 5 
 Cấu trúc NẾU...THÌ...LÀM GÌ! cũng có khả năng tạo ra hiệu lực tại lời gián tiếp tương tự. 
Ví dụ: 
(15) A: Thầy nhảy sông tự vận rồi. 
B: Nếu thầy tự vận thì thầy cởi áo làm gì! 
Câu nói trên dựa vào kinh nghiệm: những người tự vận thực sự thì không bao giờ cởi áo 
trước khi tự vận. Xuất phát từ điều bình thường mang tính quy luật đó, hành vi gián tiếp có 
hiệu lực phản bác (hoặc nghi ngờ) ý kiến cho rằng “thầy tự vận”. 
 Trong tiếng Việt có một lối dùng thú vị: người nói sử dụng nhận định của người đối thoại 
(X) làm tiền đề cho một suy luận mà hệ quả (Y) sẽ hiển nhiên sai. Như thế tiền đề (X) bị bác 
bỏ, nghĩa là nhận định của người đối thoại bị bác bỏ. Ví dụ: 
(16) A: Phim này hay. 
B: Nếu phim này hay thì tất cả phim trên thế giới đều là tuyệt tác. 
Rõ ràng không phải “tất cả phim trên thế giới đều là tuyệt tác” nên “phim này không hay”! 
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp kiểu này thường chọn sự tình thể hiện ở bộ phận sau THÌ (hệ 
quả) là một điều gì đó hiển nhiên vô lý hoặc khó chấp nhận đối với suy nghĩ thông thường, có 
như thế quá trình suy diễn mới không bị tổn hại. Chẳng hạn, thêm một vài ví dụ: 
(17) a. Nếu ông ta làm giám đốc được thì tôi làm thủ tướng cũng được. 
b. Nếu cô ta được chọn làm người mẫu thì tôi thành hoa hậu mất! 
Cũng với logic trên, trong tiếng Việt, hành vi ngôn ngữ gián tiếp khẳng định, cam kết 
(phát ngôn của nình) hoặc phủ nhận, bác bỏ (phát ngôn của người đối thoại) có thể được thực 
hiện thông qua một lời thề, lời nguyền, khoác hình thức cấu trúc giả định. (Về mặt logic, kiểu 
câu này được Nguyễn Đức Dân phân tích trong sách “Logic, ngữ nghĩa, cú pháp”, Nxb 
ĐH&THCN, 1987, tr.198). Chẳng hạn: 
(18) a. Nếu tôi nói sai thì trời đánh thánh vật tôi. 
b. Em xin anh, em mất con tôm thật, em mà có gán cho ai thì em chết nhăn răng. 
Bởi vì không xảy ra sự kiện “trời đánh thánh vật” hay “chết nhăn răng” nên “tôi không nói 
sai”, “em chẳng gán cho ai chuyện đó cả”. Tức là hiệu lực ngôn ngữ gián tiếp đã được thực 
hiện. 
 3.2. Hành vi gián tiếp khích bác, mời mọc 
Hãy so sánh hai câu sau: 
(19) a. Anh quay trở lại đi! 
b. Nếu anh sợ thì quay trở lại đi. 
Câu (a) khác câu (b) ở chỗ nó chỉ thuần túy là một lời đề nghị hoặc yêu cầu. Câu (b) có 
thêm nếu, giả định rằng người nghe có thể đang sợ hãi một điều gì đó: người nói cũng đưa ra 
một đề nghị (như câu (a)) nhưng đề nghị đó chỉ ứng dụng cho trường hợp giả định “nếu anh 
sợ” là hiện thực. Tuy nhiên, trong tình huống cần mạo hiểm để làm một việc gì đó, câu (b) có 
hiệu lực gián tiếp là khích bác người nghe, khiến người nghe không thể “quay trở lại”, vì 
“quay trở lại” có nghĩa là “anh sợ”. Và việc “không quay trở lại” chính là ý muốn của người 
nói. Tương tự như câu (c) sau đây: 
 c. Nếu không làm được thì để đó tôi làm cho. 
 6 
Người nói đưa ra một đề nghị mà thực chất không hề là điều mà anh ta muốn, cái anh ta 
muốn thực sự là người nghe phải “làm”, hiệu lực gián tiếp của phát ngôn sẽ phát huy tác 
dụng gần như không có ngoại lệ trong những tình huống tương tự. 
Xét các câu sau: 
(20) a. Nếu anh đói bụng thì có bánh bích quy trong tủ lạnh đó. 
b. Nếu anh mệt thì dưới đây có phòng matxa. 
Quả thật, cấu trúc thông báo của hai câu trên là hoàn toàn hình thức, vì thông báo rằng “có 
bánh quy trong tủ lạnh”, “có phòng matxa” trong khách sạn trong khi người đối thoại đang 
đói, đang mệt, nếu không phải là mời mọc thì là gì? Ở cấu trúc này, các tác tố đánh dấu điều 
kiện, hệ quả tỏ ra khó giải thích nếu không lĩnh hội được hành vi ngôn ngữ gián tiếp của cả 
câu. 
3.3. Hành vi gián tiếp khuyên nhủ, can ngăn với “Nếu tôi là anh,...” 
Đứng trước một câu hỏi khó trả lời, hoặc câu trả lời dễ tạo ra nguy cơ (tinh thần) cao về 
trách nhiệm, người đáp sẽ chọn giải pháp là tự đặt mình vào hoàn cảnh tương tự để rồi đưa ra 
giải pháp của chính mình. Qua hành vi bày tỏ trực tiếp đó, phát ngôn sẽ có hiệu lực khuyên 
nhủ hoặc can ngăn (can ngăn chỉ là một dạng khuyên nhủ không nên...). Nhưng “tôi là tôi”, 
“tôi không thể là anh”, đó là một điều hiển nhiên; do vậy khi chọn cấu trúc giả định để bộc lộ 
ý kiến, người nói chỉ đưa ra một trường hợp cụ thể phi thực tế. Chính cái “cơ chế” đó làm 
giảm nhẹ trách nhiệm của người nói. So sánh: 
(21) a. Tôi khuyên anh mua căn nhà đó. 
b. Nếu tôi là anh, tôi sẽ mua căn nhà đó. 
Hai câu trên có điểm giống nhau vì đều biểu hiện lời khuyên. Câu (a) là một lời khuyên trực 
tiếp, là một câu ngôn hành; câu (b) cũng là một lời khuyên nhưng là hệ quả rút ra từ cấu trúc 
mệnh đề của câu nói và cả tình huống, nghĩa là một hành động ngôn từ gián tiếp. Trong 
trường hợp “tôi có tiền” hoặc tôi có điều kiện như anh (“tôi là anh”), tôi sẽ mua căn nhà đó, 
nghĩa là người nói đã thiết lập một tiền đề: theo tôi, đó là căn nhà đáng mua. Khi người nói tự 
đặt mình vào tình huống như thế, người nghe sẽ rút ra kết luận: mình có điều kiện để mua, thế 
thì tại sao mình không mua? Dĩ nhiên, trong trường hợp này cái kết luận “nên mua” là kết 
luận của người nghe chứ không phải của người nói. (Trong một số tình huống nhất định, cái 
trường hợp cụ thể được nêu ra có thể rơi vào một nhân vật khác, chẳng hạn: “nếu là anh 
Nam”, “nếu tôi là người có thu nhập thấp” v.v.). 
3.4. Hành vi gián tiếp cảnh báo, hăm dọa, răn đe 
Xét hai phát ngôn sau: 
(22) a. Nếu mày làm thế nữa tao sẽ đánh chết. 
b. Nếu mày nói dối thì đừng có trách. 
Trong câu (a) người nói thông báo một khả năng xấu sẽ xảy ra cho người nghe, trong trường 
hợp người nghe vẫn / tiếp tục “làm thế”. Câu (b) cũng tương tự, có điều khác là khả năng xấu 
đó không được diễn đạt cụ thể mà chỉ là một hàm ý: người ta trách ai đó khi ai đó làm điều 
gây hại cho mình; “đừng có trách” hàm ý rằng tôi sẽ gây hại cho anh trong trường hợp anh 
nói dối. Hai câu trên đều có hiệu lực gián tiếp là răn đe (a), và hăm dọa (b). 
 Đôi khi ý định cảnh báo, răn đe, hăm dọa được thực hiện thông qua một quan hệ phức tạp 
hơn rất nhiều giữa người nói và người nghe. Chẳng hạn đoạn đối thoại sau: 
(23) – Thế nào Hương? 
 7 
– Anh ấy chả có việc gì ở đây, để anh ấy đi thôi. 
Vẫn tưởng chỉ là nỗi giận dỗi của Hương khiến cô xử sự như thế. Chị quyết định: 
– Kệ mày, tao giữ nó lại đã, có chuyện. 
– Nếu chị định đuổi em đi thì tùy chị. 
Nhân vật Hương đưa ra “tối hậu thư” như thế là dựa vào một quan hệ mà cả hai người 
(Hương và chị) đều chấp nhận: “chị” quyết không đuổi Hương, cho nên Hương đã đặt “chị” 
trước sự chọn lựa: hoặc “để anh ấy đi thôi” hoặc làm theo ý “chị” (“giữ nó lại”), và làm theo 
ý “chị” thì cũng cầm bằng “chị đuổi em”. Cuối cùng, hành vi gián tiếp mà Hương vừa thực 
hiện chính là dọa “chị” là sẽ bỏ đi nếu “anh ấy” ở lại. 
3.5. Hành vi gián tiếp giải thích, biện minh, cảm ơn 
Người nói có thể thực hiện hành vi gián tiếp là biện minh cho một hành động quá khứ, vì 
hành động đó nếu không diễn ra (giả định phản sự thật) thì hậu quả sẽ còn xấu hơn. Ví dụ: 
(24) A: Tại sao làm ẩu vậy? 
B: Nếu không thế thì không kịp giờ. 
Ở đây, người nói mặc nhiên thừa nhận sự “làm ẩu” của mình nhưng biện minh nó bằng một 
nhận định cho rằng điều đó là cần thiết (vì không muốn trễ giờ). Điều thú vị là đảo ngược 
quan hệ tiền đề – hệ quả của câu trên thì hiệu lực gián tiếp vẫn được bảo toàn: 
 C: Nếu không sợ trễ giờ thì tôi đã chẳng làm thế. 
Một ví dụ khác: 
(25) A: Mẹ không mua áo à? 
B: Nếu rẻ thì mẹ đã mua rồi. 
Logic như sau: [“rẻ” “mua”], [không rẻ không mua], tình huống thực tế cho biết rằng 
mẹ không mua áo như vậy có nghĩa là áo không rẻ. Và đó chính là lý do làm cơ sở tạo thành 
hành vi gián tiếp biện minh, giải thích. 
Cấu trúc điều kiện NẾU...THÌ... có khả năng được sử dụng nhằm thực hiện nhiều hành vi 
ngôn ngữ khác nữa. Chẳng hạn, nó có thể thực hiện hành vi cảm ơn qua hiển ngôn là cho biết 
một sự không hay có thể xảy ra trong quá khứ nhưng đã không xảy ra, nhờ một điều kiện nào 
đấy: 
(26) a. Nếu không có anh thì tôi bị bọn mafia cắt cổ rồi. 
b. Nếu không có số tiền này, thật tôi không biết làm sao. 
Nói lên điều kiện giúp mình thoát hiểm có liên quan đến người đối thoại, người nói đã gián 
tiếp cảm ơn người đối thoại, kể cả trong trường hợp sự “giúp đỡ” của người đó là ngẫu nhiên. 
4. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp của cấu trúc điều kiện phi giả định 
Ngữ nghĩa chủ yếu của các câu điều kiện phi giả định là biểu hiện một sự thật mang tính 
hiển nhiên, môt hệ quả mang tính logic, những sự kiện có tính quy luật được lặp đi lặp lại 
nhiều lần. Trong hội thoại, không ít trường hợp người nói phát ngôn một điều có nội dung 
hiển nhiên đến mức nếu hiểu đó là một hành vi trần thuật hay truyền đạt thì phát ngôn đó trở 
nên thiếu tính thông tin. Trong những trường hợp đó hành vi ngôn ngữ gián tiếp chính là lý 
do chủ yếu và duy nhất mà người tham gia hội thoại hướng đến (Gần với hiện tượng trùng 
ngôn – tautologic, xem thêm [1,120]). 
Ví dụ, trước một tập thể mất đoàn kết, người lãnh đạo nói: 
(27) Có đoàn kết mới có sức mạnh. 
 8 
Việc gì người lãnh đạo phải đưa ra một nhận định hiển nhiên như vậy nếu không phải là 
muốn khẳng định lại mối quan hệ giữa “đoàn kết” và “sức mạnh”, để từ đó gián tiếp khuyên 
nhủ mọi người không nên chia rẽ? 
Cũng như khi người bà nói với cháu: 
(28) a. Ra nắng thì sẽ bị cảm đấy. 
b. Lười biếng thì sẽ không bao giờ thành công đâu. 
thì đó không phải chỉ đơn thuần là một hành vi truyền đạt mà (khi truyền đạt như thế) còn là 
hành vi khuyên răn “đừng ra nắng”, “đừng lười biếng”. 
 Ngoài ra, dưới hình thức phi giả định, cấu trúc điều kiện còn đắc dụng khi người nói 
muốn tránh áp đặt ý muốn của mình lên người đối thoại. Chẳng hạn, khi phải trả lời bạn mình 
về việc có nên kết hôn với cô gái nào đó không thì thay vì nói: 
(29) a. Anh không nên kết hôn với cô ấy vì cô ấy là người hướng ngoại. 
người ta có thể nói: 
b. Phụ nữ mà hướng ngoại thì khó mà mang hạnh phúc đến cho chồng lắm. 
Cấu trúc phi giả định đúc kết một quy luật có tính khái quát như thế được dùng để can ngăn 
một cách gián tiếp mà người đối thoại nhận ra theo chuỗi suy luận: “nếu một phụ nữ mà 
hướng ngoại...”, “cô ấy là một phụ nữ hướng ngoại”, “cô ấy không mang lại hạnh phúc” 
“không nên lấy cô ấy”. Có một điều cần chú ý là người nói không hề cho rằng cô gái ấy là 
một người hướng ngoại, nhưng giữa hai người đã có một tiền đề ngầm ẩn là cô gái ấy là một 
phụ nữ hướng ngoại (tình huống giao tiếp: đang nói về chủ đề “cô ấy”, và ngữ pháp của câu: 
“phụ nữ” là một danh từ bất định) cho nên người nghe đương nhiên nhận ra hàm ý của phát 
ngôn, dẫn đến suy luận như trên. Trong khi đó, người nói cũng không vi phạm quy tắc ứng 
xử (áp đặt ý muốn cho người nghe), hành vi gián tiếp dùng với cấu trúc điều kiện giúp giữ thể 
diện cho người đối thoại. 
 Thật ra, khả năng hình thành hành vi gián tiếp như vừa nói không chỉ thể hiện ở loại câu 
điều kiện phi giả định mà còn có thể bắt gặp ở loại câu khác. Điều cốt lõi là bộ phận sau thì 
(hệ quả) diễn đạt một kết quả xấu trong điều kiện đã nêu ra trước đó. Ví dụ: 
(30) a. Nếu ngày mai học sinh nào không đến thì sẽ bị phạt. 
b. Nếu anh không đến thì ông ta không tha cho anh đâu. 
Tuy nhiên, hành vi ngôn ngữ gián tiếp tỏ ra thích hợp và phổ dụng ở loại câu phi giả định 
hơn, do tính chất hiển nhiên trong quan hệ nghĩa giữa tiền đề và hệ quả. 
* 
* * 
KẾT LUẬN 
 Nói đến hành vi ngôn ngữ gián tiếp nghĩa là nói đến sử dụng ngôn ngữ trong một tình 
huống giao tiếp cụ thể. Khi một cấu trúc mang chức năng được khuôn mẫu hóa hoặc cố định 
hóa thì cũng đồng thời mất đi tính chất gián tiếp của nó, nói theo Cao Xuân Hạo thì chỉ có lực 
ngôn trung trực tiếp. Trong tiếng Việt, có nhiều mô thức nhằm thể hiện hành vi gián tiếp 
được sử dụng lặp đi lặp lại như là những kết cấu khung ổn định. Tuy nhiên, những kết cấu 
này vẫn nhờ vào tình huống mà bộc lộ hiệu lực gián tiếp của nó, cho nên không thể xem là có 
nghĩa “nguyên văn”. 
 9 
Qua những ghi nhận ban đầu về các hành vi gián tiếp có thể có của câu điều kiện như trên, 
ta có thể thấy các hành vi gián tiếp của câu điều kiện gần như bao quát các hành vi ngôn ngữ, 
đặc biệt tập trung nhiều ở các lớp hành vi ứng xử (cảm ơn, khen ngợi, phê phán, trách móc, 
thách thức) và ở hành vi bày tỏ (khẳng định, phủ định, bác bỏ, trả lời, giải thích). 
Các nhận xét mà chúng tôi đã nêu lên trong bài viết này chỉ là những suy nghĩ bước đầu về 
khía cạnh ngữ dụng học của câu điều kiện. Vì các cơ chế chọn lọc và lĩnh hội hành vi ngôn 
ngữ gián tiếp hiện nay vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo cho nên vẫn còn 
nhiều vấn đề còn cần phải tìm hiểu thêm, chẳng hạn như một phát ngôn có thể có nhiều “lớp” 
hành vi ngôn ngữ gián tiếp đồng thời hay không, quá trình lĩnh hội hiệu lực gián tiếp của 
những phát ngôn có nhiều “lớp” hành vi gián tiếp như thế diễn ra như thế nào v.v.. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH: 
1. Cao Xuân Hạo. 1991. Tiếng Việt- Sơ thảo ngữ pháp chức năng, T1, NXB Khoa học xã 
hội. 
2. Cao Xuân Hạo. 1999. Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB Giáo dục 
3. Đỗ Hữu Châu. 2001. Đại cương ngôn ngữ học, T2, NXB Giáo dục. 
4. Nguyễn Đức Dân. 1980. Ngữ dụng học, NXB Giáo dục. 
5. Nguyễn Thiện Giáp. 2000. Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG Hà Nội. 
6. Nguyễn Thị Việt Thanh. 1999. Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, NXB Giáo dục. 
7. Searle John R. 1975. Indirect Speech Acts, trong Philosophy of Language, A.P. Martinich 
(ed.), Oxford University Press, 1996. 
8. Searle John R. 1979. A Taxonomy of Illocutionary Acts, trong Philosophy of Language, 
A.P. Martinich (ed.), Oxford University Press, 1996. 
9. Tôn Nữ Mỹ Nhật, Bước đầu tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa trong hành vi yêu 
cầu của người Việt, Ngôn ngữ, 1999, số 8 
INDIRECT SPEECH ACTS IN VIETNAMESE CONDITIONALS 
Conditional sentences are a type of special structure, at least logical. Their essential 
meaning is based on relationship between protasis and consequent. Whenever there is an 
utterance of conditional, in a particular context or speech situation, we have an indirect 
speech act. This phenomenon can be explained via the deducing from protasis to consequent 
and communicative situation. 
In this paper, we have introduced some of indirect speech acts made by conditional 
structures. However, because of the paper’s limited length, we have only mentioned 
structures that are marked by conditional operators such as GIÁ (MÀ); NHỠ (LỠ)...THÌ; 
NẾU...THÌ. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_hanh_vi_ngon_ngu_gian_tiep_trong_mot_so_cau_truc_di.pdf