Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”

TÓM TẮT:

Bài viết này phân tích so sánh ngữ pháp và

ngữ nghĩa của “thôi” và “ngừng” – hai vị từ biểu

hiện sự tình kết thúc của tiếng Việt. Trong đó,

vấn đề giá trị thể của hai vị từ sẽ được quan

tâm ở mức độ cần thiết. “Thôi” và “ngừng” có

nhiều thuộc tính cú pháp-ngữ nghĩa chung,

nhưng cũng có nhiều khác biệt. Cả hai cùng

diễn đạt sự “không tiếp tục” hoặc “không tái

diễn” một hoạt động/quá trình; nhưng không

giống như “thôi” – chỉ một sự kết thúc, “ngừng”

có thể hàm ý một sự tiếp diễn sự tình đang nói

đến. Cả hai tiền giả định một sự tình đang diễn

ra. Nhưng “thôi” cũng có thể nói về một sự tình

dự định, còn “ngừng” thì không thể. “Thôi” biểu

hiện một sự tình Hoạt động hay Trạng thái; còn

“ngừng” có thể biểu hiện một sự tình Hoạt

động, Trạng thái hoặc Đoạn tính hữu đích. Cả

hai đều có thể đi trước một bổ ngữ là ngữ vị từ.

Nhưng với “thôi” thành phần bổ ngữ đó có tính

[+động] [+chủ ý], trong khi với “ngừng” lại có

tính [+động] [±chủ ý]. “Thôi” và “ngừng” cho

thấy nhiều điểm tương đồng và khác biệt.

pdf 17 trang yennguyen 5760
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”

Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 102 
Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng” 
 Nguyễn Vân Phổ 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Bài viết này phân tích so sánh ngữ pháp và 
ngữ nghĩa của “thôi” và “ngừng” – hai vị từ biểu 
hiện sự tình kết thúc của tiếng Việt. Trong đó, 
vấn đề giá trị thể của hai vị từ sẽ được quan 
tâm ở mức độ cần thiết. “Thôi” và “ngừng” có 
nhiều thuộc tính cú pháp-ngữ nghĩa chung, 
nhưng cũng có nhiều khác biệt. Cả hai cùng 
diễn đạt sự “không tiếp tục” hoặc “không tái 
diễn” một hoạt động/quá trình; nhưng không 
giống như “thôi” – chỉ một sự kết thúc, “ngừng” 
có thể hàm ý một sự tiếp diễn sự tình đang nói 
đến. Cả hai tiền giả định một sự tình đang diễn 
ra. Nhưng “thôi” cũng có thể nói về một sự tình 
dự định, còn “ngừng” thì không thể. “Thôi” biểu 
hiện một sự tình Hoạt động hay Trạng thái; còn 
“ngừng” có thể biểu hiện một sự tình Hoạt 
động, Trạng thái hoặc Đoạn tính hữu đích. Cả 
hai đều có thể đi trước một bổ ngữ là ngữ vị từ. 
Nhưng với “thôi” thành phần bổ ngữ đó có tính 
[+động] [+chủ ý], trong khi với “ngừng” lại có 
tính [+động] [±chủ ý]. “Thôi” và “ngừng” cho 
thấy nhiều điểm tương đồng và khác biệt. 
Từ khóa: thôi, ngừng, thể kết thúc 
Trong kho từ vựng tiếng Việt có nhiều đơn vị 
diễn đạt nghĩa “không tiếp tục” hay “không tiếp 
diễn” một hành động, quá trình. Trong đó, thôi và 
ngừng là hai từ thường gây khó khăn và nhầm lẫn 
cho người nước ngoài học tiếng Việt. Đây cũng là 
hai từ hầu như chưa được các tài liệu ngôn ngữ học 
quan tâm giải thích, nếu không tính đến các quyển 
từ điển đơn ngữ – vốn rất cô đọng, khó sử dụng. 
Bàn về khái niệm “kết thúc”, “không tiếp tục”, 
“không tiếp diễn” một hành động, quá trình (và 
những khái niệm có liên quan), ngôn ngữ học 
thường khảo sát dưới góc độ thể (aspectual value). 
Do mục đích ứng dụng và do khuôn khổ có hạn của 
bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích ngữ pháp 
và ngữ nghĩa của hai từ trên, trong đó thể cũng sẽ 
được bàn đến ở một mức độ cần thiết. Trong bài 
viết, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát khả năng hoạt 
động của từng từ và tiến hành so sánh chúng với 
nhau ở những nội dung có liên quan. Ngoài ra, để rõ 
hơn vấn đề đang bàn, chúng tôi cũng sẽ xét qua một 
số vị từ gần gũi với chúng: hết, dừng, ngưng, nghỉ1. 
1. Thôi 
1.1. Thôi là một vị từ đa chiều kích 
(multidimentional) xét trên ý nghĩa từ vựng và từ 
loại. 
1.1.1. Trước hết, nó là một vị từ hành động vô 
tác, có đặc điểm là thường đòi hỏi một bổ ngữ là 
ngữ vị từ theo sau. “Thôi + VP” nghĩa là thực hiện 
hành động (và cái hành động đó là) chấm dứt/không 
tiếp tục một hoạt động (= VP) đang có hoặc đang 
dự định nữa. 
Cách hiểu trên thể hiện ba đặc trưng cơ bản: (i) 
Thôi là một vị từ hành động có thuộc tính [+động] 
[+chủ ý]); (ii) Thôi một hoạt động hàm ý rằng hoạt 
1 Trong danh sách 1000 từ tiếng Việt (Đặng Thái Minh 1995. Từ 
điển tần số tiếng Việt trên máy tính) có tần số sử dụng cao nhất, 
thôi có thứ hạng 112, ngừng: 369, ngưng: 821, dừng và nghỉ 
không có mặt. Riêng hết ở thứ hạng 85; nhưng vì về bản chất nó 
không thể hiện hành động kết thúc nên chúng tôi chỉ trình bày sơ 
lược (ở mục 3) nhằm mục đích đối chiếu với thôi và ngừng. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 103 
động đang đề cập sẽ không tái diễn nữa; (iii) Có thể 
thôi một hoạt động đang diễn ra, và cũng có thể thôi 
(không thực hiện) một hoạt động còn trong dự định. 
Đặc điểm (i), thôi chia sẻ với ngừng; trong khi đặc 
điểm (ii) phân biệt với ngừng ở chỗ ngừng mang 
hàm ý rằng hoạt động có thể sẽ tái diễn sau một thời 
gian nhất định, và ở đặc điểm (iii) phân biệt với 
ngừng ở chỗ không thể dùng ngừng cho một dự 
định. 
Thông thường, sau thôi là một vị từ [+động], lý 
do là người ta chỉ có thể “thôi” một hoạt động khi 
nó bắt đầu, diễn tiến và kết thúc trên trục thời gian. 
Ví dụ: 
(1) Đến khi thằng bé khóc thét lên, họ mới 
thôi cãi nhau. 
(2) Cô quyết định thôi vẽ tranh. 
(3) ??Khi tôi vào phòng thì ông ấy đã thôi 
ngồi trên ghế.2 
(4) ??Một lúc sau, thấy mỏi, nó thôi đứng. 
(5) *Tôi thấy quyển sách đã thôi nằm trên bàn. 
(6) *Bà ấy vẫn chưa thôi dữ/đẹp/mập. 
(7) *Quả xoài này thôi ngọt/chua rồi. 
Ở (1) và (2), “cãi” và “vẽ” là vị từ hành động, 
mang tính [+động] [+chủ ý]. Trong khi đó ở (3), 
(4), “ngồi”, “đứng” là vị từ tư thế [-động] [+chủ ý], 
nên không thể kết hợp với thôi. Những vị từ biểu thị 
thuộc tính hay trạng thái thường tồn [-động] [-chủ 
ý] ở các câu (5) – (7) tuyệt nhiên không làm bổ ngữ 
cho thôi. 
1.1.2. Về cơ bản, những vị từ mang tính [-chủ ý] 
không theo sau thôi; vì thường người ta chỉ có thể 
“thôi” thực hiện một hoạt động khi hoạt động đó 
thuộc ý chí hoặc quyền kiểm soát của mình. Do 
vậy, hầu hết vị từ trạng thái và vị từ quá trình (đều 
[-chủ ý]) không làm bổ ngữ cho thôi hành động. 
Chẳng hạn, người ta không thể nói “Chiếc tàu thôi 
chìm”, “Xe buýt thôi cập bến”, “Bức tranh thôi treo 
2 Kí hiệu ? đánh dấu một câu đáng ngờ hoặc không tự nhiên, ?? 
đánh dấu một câu rất đáng ngờ, * đánh dấu một câu không chấp 
nhận được. 
trên tường”, “Chỉ vài tháng sau khi kết hôn, họ thôi 
yêu nhau”3, “Họ vẫn chưa thôi hạnh phúc”, v.v.. 
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có một số vị từ [-
chủ ý] có thể được dùng sau thôi, khi đó có sự 
chuyển đổi ngữ nghĩa. Xét các câu sau đây: 
(8) Cô ấy đã có chồng có con rồi. Anh nên thôi 
nghĩ đến cô ấy! 
(9) Em nói xem, anh phải làm gì để em thôi 
giận? 
(10) Thấy mọi người nhìn, cô gái thôi khóc. 
Tính cầu khiến (vd (8)) và tính mục đích (vd 
(9)) cho thấy hai phát ngôn trên có một sự chuyển 
nghĩa rõ rệt: người nói xem như chủ thể có thể chi 
phối hay can thiệp vào trạng thái hoặc quá trình 
hiện tồn; hay nói cách khác, người nói cho rằng chủ 
thể có thể thực hiện một hành động chấm dứt sự 
“nghĩ”, “giận”. Câu (10) là một cấu trúc trần thuật, 
nhưng quan hệ nhân quả giữa hai tiểu cú cho phép 
hiểu “cô gái” có chủ ý chấm dứt “hoạt động” 
“khóc”. Như vậy, ở các ví dụ trên, vị từ theo sau 
thôi đã mang thuộc tính [+chủ ý]. 
Cũng có khi, vị từ bổ ngữ [-chủ ý] được sử dụng 
sau thôi với màu sắc phong cách được đánh dấu rõ 
rệt. Chẳng hạn: 
(11) Mọi chuyện rồi cũng qua. Bây giờ cô ấy đã 
thôi buồn. 
(12) Mưa đã thôi rơi. 
(13) Hòa bình rồi! Máu đã thôi chảy! 
Ở (11), khác với (10), quan hệ giữa hai câu 
không làm thay đổi thuộc tính của “buồn” – nó vẫn 
là [-chủ ý]. Ở các câu sau cũng không có dấu hiệu 
nào cho thấy vị từ chuyển sang [+chủ ý]. Tuy nhiên, 
theo quan điểm của chúng tôi, đây là cách dùng 
được đánh dấu về mặt phong cách (phong cách viết 
hoặc văn chương); lý do là trong ngôn ngữ hằng 
ngày thôi không xuất hiện trong các bối cảnh tương 
tự, thay vào đó là những cách diễn đạt khác, tự 
nhiên hơn. Thử mở rộng ngữ cảnh: 
3 Ở đây “yêu” là một tình cảm – trạng thái tâm lý – chứ không 
phải là “yêu” hành động. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 104 
(14) ?Tôi rủ nó đi uống vài ly cho nó thôi buồn. 
(ss: ... nó hết buồn.) 
(15) ?Mưa đã thôi rơi rồi, chúng ta đi đi! (ss: 
Mưa đã tạnh...) 
(16) ?Băng lại đi để máu thôi chảy! (ss: ... để 
cầm máu/để máu không chảy nữa!) 
Và hầu như người ta cũng không nói “Trời thôi 
nắng rồi, đi chơi đi!”, “Bát cháo đã thôi nóng.”, 
“Đến nửa đêm, bếp lửa thôi cháy”, “Thằng bé thôi 
béo ra rồi”, v.v.. Rõ ràng, trong hoạt động nói năng 
bình thường, kết hợp thôi và vị từ [-chủ ý] là thiếu 
tự nhiên. 
Như vậy, ở chiều ngược lại, hoàn toàn có thể nói 
rằng thôi là một chỉ tố đánh dấu tính [+chủ ý] của vị 
từ theo sau. 
1.1.3. Như trên đã nói, thôi đòi hỏi vị từ theo sau 
phải mang tính [+động] [+chủ ý]. Tuy nhiên, đây 
chỉ là điều kiện cần để một vị từ có thể kết hợp với 
thôi. Nếu đi sâu vào đặc trưng thời gian thì có nhiều 
điều phải làm sáng tỏ hơn. 
Vị từ bổ ngữ theo sau thôi thường phải là vị từ 
có tính thời lượng (đoạn tính, durative), và/hoặc 
tính lặp (iterative). 
(17) Nó thôi học rồi. 
(18) Nó đã thôi làm ở nhà hàng đó. 
(19) Nó đã thôi viết thư cho nàng. 
(20) Sau lần nằm bệnh viện đó, ông ấy thôi uống 
bia. 
(21) Từ ngày vào đại học, nó thôi chơi với đám 
trẻ con hàng xóm. 
(22) Thằng bé thôi tắt đèn. 
(23) Ông ta thôi đập bàn! 
Ở các câu trên, “học”, “làm ở nhà hàng”, “viết 
thư cho nàng”, “uống bia”, “chơi với đám trẻ con” 
là những hoạt động kéo dài trên trục thời gian. Đó 
là những hoạt động thường tồn, diễn ra hằng ngày, 
hằng tuần... chứ không phải diễn ra một lần, trong 
một khoảnh khắc. Trong sự tình không có đích để 
hoạt động hướng đến; nếu không có sự tác động nào 
đó thì có vẻ như những hoạt động đó sẽ không kết 
thúc [-giới hạn] (không có giới hạn phải, right 
bound). “Thôi + VP” có nghĩa là không tiếp tục, 
không tái diễn V nữa; như vậy, có vẻ thôi đóng vai 
trò của một vị từ chuyển thái: chuyển từ trạng thái 
V sang không V. 
Ví dụ (17) có nghĩa là nó không tiếp tục việc 
học nữa mà sẽ đi làm, đi lính...; ví dụ (18) có nghĩa 
là nó sẽ làm việc ở một nơi khác; ví dụ (19): nó 
chuyển sang một việc khác thay vì viết thư hoặc nó 
từ bỏ hoàn toàn việc viết thư cho nàng; ví dụ (20) 
ông ấy từ bỏ hoàn toàn việc uống bia; ví dụ (21): nó 
có những quan hệ khác, chơi với những người khác. 
Riêng hai ví dụ (22) và (23): (22) và (23) sẽ đúng 
nếu “tắt đèn” là một trò chơi bật – tắt hoặc một loạt 
hành động của “thằng bé” và “đập bàn” là thói quen 
của “ông ta” khi nổi giận; nhưng sẽ bất khả chấp 
nếu hiểu “tắt” và “đập” là một vị từ điểm tính 
(punctual). 
Về mặt cấu trúc, thôi tác động đến cả phần vị 
ngữ phía sau chứ không riêng vị từ bổ ngữ (xem các 
ví dụ trên). Do vậy, nếu thay đổi chút ít cấu trúc 
tham tố của khung vị ngữ thì tình hình khác hẳn. So 
sánh những câu trên với các câu sau đây: 
(24) *Nó thôi học bài 3 rồi. 
(25) *Nó đã thôi làm câu hỏi đó. 
(26) *Nó đã thôi viết bức thư đó. 
(27) *Ông ấy thôi uống cốc bia anh vừa rót. 
(28) *Nghe bố gọi, nó thôi đi bộ trong công 
viên. 
Có thể thấy, về hình thức, cả bốn câu (24) – (27) 
cũng biểu hiện những sự tình đoạn tính (vì “học bài 
3”, làm câu hỏi đó”, “viết bức thư”... đòi hỏi phải có 
một thời gian nhất định), nhưng lại không được 
chấp nhận. Vấn đề nằm ở chỗ những tham tố trong 
khung vị ngữ đã làm cho sự tình mang thuộc tính 
định lượng (quantized, thuật ngữ của Krifka)4, khác 
4 Chú thích: Khái niệm lũy tích (cumulative) và định lượng 
(quantized) đã được Krifka [4] phân biệt tường minh. Có thể giải 
thích đơn giản như sau: Trong “Nam viết thư”, “thư” là một danh 
ngữ lũy tích, vì dù Nam viết năm bức thư hoặc nửa bức thư thì 
cũng là “Nam viết thư”. (Trong tiếng Anh danh ngữ lũy tích 
thường thể hiện bằng danh từ khối hoặc danh từ số nhiều không 
kèm lượng từ, mass noun hoặc bare plurals). Trong khi đó, ở 
“Nam viết ba bức thư”, “ba bức thư” là một danh ngữ định 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 105 
với thuộc tính lũy tích ở các câu (17) – (21). Những 
tham tố này có thể là những danh ngữ biểu thị đối 
thể của vị từ bổ ngữ (“bài 3”, “câu hỏi đó”, “bức 
thư đó”, “cốc bia anh vừa rót”), cũng có thể là 
những ngữ đoạn trạng huống (“nghe bố gọi”: liên 
quan đến một thời điểm cụ thể, như vậy sự tình 
được biểu thị chỉ diễn ra và chấm dứt một lần, trong 
khi “đi bộ trong công viên” là một sự tình Hành 
động (action) hoặc Tập quán (habitual))5. Hay nói 
đơn giản hơn, người ta có thể “thôi viết thư” chứ 
không thể “thôi viết một bức thư” hoặc “thôi viết 
bức thư đó”. 
Như vậy, nếu thỏa điều kiện lũy tích như vừa 
nói thì một hoạt động dù được hiểu là không có hạn 
định thời gian tự nhiên (vốn được hiểu là thói quen 
hoặc có tính lặp, các câu (a) dưới đây) hoặc có hạn 
định thời gian tự nhiên (được hiểu là xảy ra một lần 
trong một thời gian xác định – các câu (b)) thì cũng 
có thể kết hợp với thôi. 
(29) a. (Hắn rất vũ phu. Mỗi lần có rượu vào là 
hắn lôi vợ con ra đánh. Cho đến một hôm, hắn bị 
Hội phụ nữ gọi đến cảnh cáo.) Từ đó, hắn thôi đánh 
vợ. 
b. (Thằng bé ngã xuống. Bọn chúng thi nhau 
đấm đá.) Thấy có người xuất hiện, bọn chúng mới 
thôi đánh. 
(30) a. Xưa nay bà ta vẫn oang oang về con trai 
mình, nào là nó giỏi, nào là nó thông minh. Đến khi 
nó bị đuổi học bà ta mới thôi nói. 
b. Hơn nửa tiếng rồi mà bà ấy vẫn chưa thôi nói. 
(31) a. Từ lần thoát chết đó, hắn đã thôi uống. 
lượng: nhận định này chỉ đúng khi Nam đã viết đúng ba bức thư; 
viết nửa bức hoặc hai bức không phải là “viết ba bức thư”. 
5 Cũng cần nói thêm, theo Krifka, thuộc tính lũy tích hay định 
lượng được xác định trên danh ngữ và cả vị từ. Nhưng theo quan 
sát của chúng tôi, hai thuộc tính này cũng có thể hiểu ở cấp độ sự 
tình. Ở vd (28), chính ngữ đoạn trạng huống “nghe bố gọi” đòi 
hỏi hành động “đi” phải là hành động, đang diễn tiến, có thời 
lượng nhất định, diễn ra một lần rồi chấm dứt – nghĩa là một sự 
tình mang tính định lượng; nhưng “đi bộ trong công viên” có thể 
được hiểu là sự tình Hoạt động hoặc sự tình Tập quán (habitual) 
– một hoạt động thường xuyên, lặp lại – cả hai đều không có kết 
điểm (endpoint) nên không thể tương hợp với “nghe bố gọi”. 
b. Hắn cứ ngồi uống tì tì. Đến khi ông chủ quán 
ra đòi tiền, hắn mới thôi uống. 
Ở (29a) “đánh vợ” là một hoạt động thường 
xuyên, tái diễn nhiều lần trong một thời gian về lý 
thuyết là không giới hạn; ở (29b) hành động “đánh” 
thằng bé về lý thuyết là có giới hạn thời gian vật lý 
(nghĩa là không thể kéo dài đến hết đời như “đánh 
vợ”), nhưng vẫn có tính lặp (nhiều động tác “đánh”, 
nhiều người “đánh” – so sánh: *“Nó thôi đấm một 
cái”). Ở (30a), hành động “nói” tái diễn nhiều lần 
trên trục thời gian; trong khi ở (30b), “nói” là một 
hành động diễn ra một lần nhưng có độ dài thời 
gian nhất định (đoạn tính). Các trường hợp trên đều 
có vị ngữ lũy tích và đều có thể chấm dứt bằng thôi. 
Ở (31a), “uống” là một hoạt động lặp, kéo dài trong 
thời gian, gồm nhiều lần “uống” khác nhau; còn ở 
(31b), “uống” là hoạt động diễn ra một lần, nhưng 
kéo dài, với nhiều ly, nhiều chai. 
1.1.4. Thôi có thể tác động đến hoạt động đã 
hoặc đang diễn ra như vừa đề cập bên trên; nó cũng 
có thể được dùng để diễn đạt sự không thực hiện 
một hoạt động đáng lý phải diễn ra như là kết quả 
tất yếu hoặc sự tiếp nối của một dự định trước đó. 
(32) Chị định hỏi gã về vết sẹo trên mặt. Nhưng 
nhìn thấy vẻ lầm lì của gã, chị lại thôi (không hỏi). 
(33) Tôi có mang theo tài liệu, nhưng không 
thấy anh hỏi nên tôi thôi (không đưa ra). 
Thường “định hỏi” thì sẽ “hỏi”, “mang theo” thì 
sẽ “đưa”; nhưng ở hai câu này chủ thể quyết định 
làm cái việc là “không hỏi”, “không đưa”. 
Theo quan điểm của chúng tôi, ở cách dùng này, 
có lẽ nên xử lý “không + V” như là một đồng vị ngữ 
của thôi; trên hình thức, có thể phân tách thôi và 
“không + V” bằng dấu phẩy (“... chị thôi, không 
nói”, “... tôi thôi, không đưa ra”)6. 
Ở trường hợp đang bàn, “không + V” có thể 
thay bằng “không + V + nữa”. Nhưng ngữ vị từ thứ 
6 Trong sự tương quan giữa “thôi + V” và “thôi + không V”, thôi 
hành chức hoàn toàn giống như cấm (“cấm + V” và “cấm + 
không được V”), quên (“quên + V” và “quên + không V”), từ 
chối (“từ c ... chủ thể xem như được tỉnh lược). Tương 
tự, trong “Chiếc xe này sửa hết 2 triệu”, hoặc “Sửa 
chiếc xe này hết 2 triệu”, có thể xử lý “chiếc xe” là 
đối thể như trong khung tham tố cơ bản: “S sửa 
chiếc xe này hết 2 triệu” hoặc “Chiếc xe này, tôi sửa 
hết 2 triệu”. Có một điều thú vị về ý nghĩa: ở các ví 
dụ (121) – (124) ta có quan hệ có/còn – hết (hết 
tiền, tức là tiền = zero); trong khi đó ở trường hợp 
vừa nói, ta có quan hệ: có – hết – còn (sau khi hết 2 
tiếng hoặc hết 2 triệu, có thể vẫn còn thời gian hoặc 
một số tiền nào đó). Về mặt hình thức. trường hợp 
này thường được biểu thị bằng “hết + số từ + NP”. 
Khả năng kết hợp rộng rãi với danh ngữ của hết 
là một đặc trưng quan trọng phân biệt với thôi và 
ngừng (ở ngừng danh ngữ sau nó là đối tượng chịu 
tác động). Cho nên, có thể nói hầu như không có 
khả năng thay thôi, ngừng cho hết, ít nhất là trong 
các ví dụ trên. 
Hết thường đi với các vị từ trạng thái [-động] [-
chủ ý], quá trình [+động] [-chủ ý] để biểu thị sự tiêu 
biến hoặc không còn tồn tại thuộc tính, trạng thái, 
quá trình đó nữa. Đây là một đặc trưng khác của hết 
so với thôi và ngừng: thôi không đi với vị từ [-chủ 
ý] (trừ những trường hợp đã nói ở mục 1.1.2), 
ngừng chỉ có thể kết hợp với vị từ [-chủ ý] nếu đề là 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 115 
một đối thể chuyển vị hoặc là một lực (cf. mục 
2.1.4). Ví dụ: 
(126) Đến giờ nó vẫn chưa hết 
sợ/đau/buồn/đẹp/vui. 
(127) Máy hết chạy/kêu/rung rồi. 
(128) Trời hết mưa/nóng/nắng rồi. 
(129) Lau nãy giờ mà cái bàn vẫn chưa hết dơ. 
Ở (126), (129) hết tuyệt nhiên không thể thay 
bằng thôi, ngừng; ở (127) có thể thay bằng ngừng, ở 
(128) không thể thay bằng ngừng, nhưng có thể 
thay bằng thôi (có điều kiện, cf. 1.1.2). 
Hết không đi trước những vị từ thuộc tính [-chủ 
ý]; hay nói chính xác hơn, dưới tác dộng của hết, 
những vị từ thuộc tính có thể kết hợp với hết sẽ 
được tri nhận và xử lý như là những vị từ trạng thái. 
Lý do là hết luôn tiền giả định sự chuyển thái từ 
có/còn đến không còn (= hết), trong khi thuộc tính 
thì về bản chất là thường tồn. Ví dụ: 
(130) Cái cặp này da hết mềm rồi. 
(131) Da cô ấy sắp hết đen. 
Hết có thể đi với vị từ hành động, cho biết 
không còn/tiếp tục V nữa; có hai trường hợp: 
(i) Đi với một vị từ hành động biểu thị một hoạt 
động xảy ra một lần, có hạn định thời gian, thì hết 
chấm dứt một hành động, không hàm ý rằng hành 
động vừa nói có thể tiếp diễn hay không. Ở biểu 
hiện này, nếu thay bằng ngừng thì hàm ý tiếp diễn 
lộ rõ, trừ khi có những thông tin loại trừ đi kèm 
(thành phần trong ngoặc ở hai ví dụ sau đây). 
(132) Ông ấy hết nói rồi, (bây giờ đến một bà 
nào đó). 
(133) Họ hết ăn rồi, (dọn đi)! 
(134) Bố hết đọc báo rồi. (Bố sắp lên phòng đấy, 
ngủ đi!) 
Cách dùng (i) thường phụ thuộc nhiều vào ngữ 
cảnh. (Thông thường, khi chấm dứt một hoạt động 
thì đồng thời hoạt động đó cũng hoàn thành, cho 
nên xong sẽ được chọn lựa thay vì hết. Tuy nhiên, 
đây vẫn là hai vị từ có ngữ nghĩa và ngữ pháp khác 
nhau). 
(ii) Với vị từ hành động biểu thị một hoạt động 
thường xuyên, thói quen (lặp), không hạn định thời 
gian, thì hết cho biết sự chấm dứt một trạng thái. 
Khác với trường hợp (i) (có thể tái diễn hoặc 
không), một trạng thái chấm dứt thì không tái diễn 
nữa. Và cũng khác với thôi: người nói dùng thôi khi 
muốn cho biết chủ thể làm một hành động chấm 
dứt; trong khi với hết, người nói chỉ muốn miêu tả 
rằng trạng thái trước của chủ thể đã không còn nữa 
(và sau đó là trạng thái mới). 
(135) Ông ấy hết ăn chay rồi. 
(136) Từ hôm nay nó đã hết ăn đường ăn chợ. 
(137) Sau tai nạn đó, nó hết đi xe máy. 
(138) Nhà có máy giặt, từ giờ nó hết (phải) giặt 
quần áo. 
Có vẻ như cách dùng (ii) thường gặp hơn cách 
dùng (i). 
Thôi và ngừng đều biểu thị sự không tiếp tục 
một sự tình, riêng thôi còn có thể dùng cho một 
hành động chưa hiện thực (dự định). Trong khi đó, 
hết có thể dùng cho một quá trình hoặc một hành 
động với ý nghĩa rằng cái quá trình, hành động ấy 
“không còn cơ hội diễn ra nữa”, nghĩa là không còn 
cơ hội hiện thực. Ở đây, hết khác với thôi ở chỗ quá 
trình, hành động đang nói có thể là một dự định 
(chủ ý của chủ thể) mà cũng có thể là một sự tình 
diễn ra một cách tự nhiên nếu không có trở ngại nào 
đó. 
Chẳng hạn, một người có thói quen ngủ trưa, 
nhưng một hôm có khách đến bất ngờ, anh ta có thể 
nói: “Vậy là hết ngủ!”; hoặc một người có thói quen 
thức dậy sớm tập thể dục, một hôm ngủ quên, thức 
dậy trễ, anh ta có thể nói: “Đến giờ đi làm rồi! Hết 
tập được rồi!”; hoặc một đứa bé làm rơi chiếc bánh 
mới mua, có thể nói: “Hết ăn rồi!”. Ở đây “ngủ”, 
“tập” và “ăn” không phải là một dự định nên không 
thể dùng thôi (dĩ nhiên, “ngủ” không thể kết hợp 
với thôi còn vì một lý do ngữ pháp: “ngủ” là một vị 
từ quá trình chứ không phải hành động). Như vậy, 
có thể nói, ở đây hết có nét nghĩa là không có/còn 
cơ hội nữa. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 116 
Sự khác biệt về ngữ nghĩa giữa thôi, hết và 
ngừng trên vị từ hành động rất tinh tế nhưng cũng 
rất hiển nhiên đối với người bản ngữ. Thử so sánh: 
(139) Nó thôi học rồi. 
(140) Nó hết học rồi. 
(141) Nó ngừng học rồi. 
Câu (139) cho biết nó từ bỏ việc học mãi mãi 
(và bây giờ nó nằm nhà hoặc đi làm kiếm tiền). 
Trong khi đó, nếu không có thông tin hoặc tình thái 
nào đi kèm, câu (140) có thể cho biết nhiều ý nghĩa 
khác nhau, tùy ngữ cảnh hoặc bối cảnh giao tiếp mà 
người nghe sẽ nhận biết được nội dung người nói 
muốn truyền đạt: 
- nó đã kết thúc một chương trình, một môn 
học, một khóa học, một năm học hoặc một 
buổi học; sau đó nó có thể học lại hoặc tiếp 
tục học; 
- có thể hiểu tương tự (139) 
Ở câu (141), ngừng cho biết (trước đó nó học và 
bây giờ) nó không học nữa; tình trạng “ngừng học” 
sẽ kết thúc, nghĩa là sau một thời gian nào đó hành 
động đọc sẽ tiếp tục; cũng có hiểu như (139) (xem 
phân tích ở vd (91) – (93)). 
3.2. Dừng 
Về ngữ nghĩa, dừng biểu thị ý nghĩa không hoặc 
làm cho không tiếp tục vận động (chứ không phải 
hoạt động, nghĩa hẹp hơn ngừng); và kết quả là đối 
tượng đang nói sẽ ở hoặc chuyển sang trạng thái 
đứng yên (không chuyển động)(13). Như vậy, dừng 
có thể thay cho ngừng ở một số bối cảnh nhất định; 
ngược lại, ngừng có thể thay cho dừng trong mọi 
trường hợp. 
Về ngữ pháp, dừng là một vị từ hành động (nếu 
đề là tác thể) hoặc quá trình (nếu đề là đối thể). 
(142) Ông ta dừng xe/ngựa trên lưng đèo. 
(143) Xe lửa sẽ không dừng ở ga này. 
(144) Quả bóng lăn tròn, đến giữa sân thì dừng 
lại. 
13 Cf. - Hoàng Phê (CB) 1995. Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng 
và Trung tâm Từ điển học. HN-ĐN; 
và Hoàng Văn Hành (et al.) 2002. Sổ tay dùng từ tiếng Việt. Tái 
bản lần thứ 1. Nxb KHXH. HN. 
Ở (142) đề là tác thể, ở (143) là đối thể (xe lửa 
di chuyển thường được hiểu là do chịu tác động của 
người điều khiển), ở (144) là đối thể (quả bóng có 
thể chịu tác động của người đá hoặc của lực tự 
nhiên, gió chẳng hạn). 
Dừng thường kết hợp sau với một danh ngữ đối 
thể – vốn là cái thực thể được tri nhận là đang vận 
động dưới tác động của một tác thể: dừng xe, dừng 
ngựa, dừng máy, dừng chèo, dừng bánh, dừng tay, 
dừng tay, dừng chân, dừng bút, dừng đũa, dừng lời 
(danh sách hữu hạn). 
Nếu danh ngữ đối thể được chuyển vị trái làm 
đề thì sau dừng cần phó từ lại và/hoặc một từ tình 
thái đi trước và/hoặc một ngữ đoạn trạng ngữ biểu 
thị vị trí để phát ngôn hoàn chỉnh (các ngữ đoạn này 
hành chức như một complement). Ví dụ: 
(145) Xe buýt (sắp) dừng lại thì nó nhảy xuống. 
(146) Cỗ xe ngựa dừng (lại) trước một quá rượu 
tồi tàn. 
(147) Câu chuyện dừng ở đây/nửa chừng. 
Về cơ bản, dừng khó kết hợp trực tiếp với các 
loại vị từ, kể cả vị từ hành động; có lẽ do nội hàm 
của dừng hẹp: chỉ liên quan đến sự vận động 
chuyển vị. Vì vậy, hầu như không thể nói dừng 
mập, dừng đẹp, dừng lo, dừng ngồi, dừng nằm, 
dừng đứng, v.v., cũng không tự nhiên khi nói dừng 
đi, dừng chạy, dừng nhảy, dừng bắn, dừng nói, 
dừng cãi, dừng cháy, dừng nổ, dừng đá, dừng đập, 
v.v.. Nếu muốn diễn đạt những hành động và quá 
trình liên quan, người nói phải xử lý nó như là một 
sự vật/sự việc, bằng cách (i) dùng một danh ngữ 
biểu thị một thực thể gắn với hành động, quá trình 
(dùng dừng chân, dừng tay, dừng chèo, dừng bánh, 
dừng lời, dừng đũa), (ii) nếu không thì phải đặt một 
danh từ như việc, chuyện, cuộc, quá trình, hành 
động, hoạt động, v.v. làm trung tâm cho một danh 
ngữ biểu thị sự việc, ví dụ: dừng việc đọc, dừng việc 
học, dừng chuyện cãi cọ, dừng câu chuyện, dừng 
cuộc chiến, dừng hành động chém giết, v.v. (các vị 
từ Hán Việt tỏ ra có khả năng xuất hiện lớn hơn: 
dừng kinh doanh, dừng thanh tra, dừng xây dựng, 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 117 
dừng thi công, dừng dấu tranh,v.v.). Dĩ nhiên, 
ngừng là khả năng thay thế hữu ích cho dừng trong 
một phạm vi rất rộng rãi. 
3.3. Ngưng 
 Ngưng là một vị từ thường được các từ 
điển chú giải là ngừng, có thể hiểu là một biến âm 
của ngừng. Nghĩa là ngưng có thể thay cho ngừng 
trong mọi bối cảnh. 
Thật ra, khả năng xuất hiện của ngưng hạn hẹp 
hơn ngừng một cách rõ rệt khi đứng trước một danh 
ngữ. Chẳng hạn, ngưng không thể đi trước những 
danh ngữ biểu thị đối thể (chịu tác động) hoặc 
những thực thể có liên quan đến hành động, quá 
trình đang nói đến. Ví dụ: không nói ngưng xe, 
ngưng ngựa, ngưng tàu, ngưng máy, ngưng tay, 
ngưng chân, ngưng bút, v.v.. 
Hiện nay, trong tiếng Việt, đặc biệt là trên các 
phương tiện thông tin đại chúng, ngưng thường kết 
hợp với một vài danh từ: ngưng việc, ngưng công 
tác, và đặc biệt là ngưng chức. Chúng tôi cho rằng 
đây là hiện tượng cho thấy ngưng bắt đầu được cấp 
cho một nghĩa mới, phái sinh từ nghĩa ngừng có 
thời hạn: ngưng chức thì không phải là cách chức, 
từ chức; ngưng việc không phải là ngừng việc, thôi 
việc, nghỉ việc, đuổi việc; ngưng công tác không 
phải là ngừng công tác, thôi công tác, nghỉ công 
tác. Cả ba hiện có nghĩa là (bị) buộc tạm rời khỏi 
chức vụ, công việc một thời gian do sai phạm gì đó 
(trong khi ngừng được hiểu là chủ ý của chủ thể). 
 3.4. Nghỉ 
 Nghỉ là một vị từ có nghĩa “bình thường” 
nhất là tạm không hoạt động trong một thời gian để 
phục hồi sức lực hoặc để làm một việc khác – chính 
tính mục đích này phân biệt nghĩa từ vựng giữa 
nghỉ và ngừng (ngừng không có tính mục đích trừ 
khi được hiển ngôn). Cái thực thể được “nghỉ” có 
thể là chủ thể, công cụ/phương tiện hoặc một bộ 
phận có liên quan đến hoạt động. 
(148) Tôi được nghỉ ba ngày. 
(149) Cho xe/tàu/máy/ngựa nghỉ đi! 
(150) Đi xem phim để cái đầu nghỉ một chút. 
(151) Các bạn nghỉ tay/chân uống nước! 
Nghỉ là một hành động vô tác (khác với ngừng) 
nên sau nghỉ không có danh ngữ biểu thị đối thể 
chịu tác động (trừ trường hợp tay và chân là bộ 
phận thân thể). Cho nên không thể nói: nghỉ xe, 
nghỉ tàu, nghỉ máy, nghỉ bút, nghỉ ngựa (có thể nói 
nghỉ tay, nghỉ chân). 
Nghỉ có thể kết hợp với một số vị từ hành động: 
nghỉ làm, nghỉ học, nghỉ chơi (đàn), nghỉ vẽ (tranh), 
nghỉ lái (xe), nghỉ nấu ăn, v.v.. Trong trường hợp 
này, nếu không có các thành phần trạng ngữ hiển 
ngôn hoặc không có ngữ cảnh, “nghỉ + V” được 
hiểu tương tự như thôi, nghĩa là không tiếp tục (mãi 
mãi) hoạt động đang đề cập. Điều này cũng đúng 
khi sau nghỉ là danh ngữ việc, công tác (đóng vai 
trò như một tham tố cương vực, range) hoặc một 
danh ngữ biểu thị chức vụ: nghỉ chức giám đốc, 
nghỉ chức trưởng phòng (màu sắc khẩu ngữ, theo 
Từ điển Hoàng Phê). 
* * * 
Những phân tích trên cho thấy thôi và ngừng là 
hai từ có những đặc điểm có thể chia sẻ với nhau, 
và trong nhiều tình huống có thể thay thế cho nhau. 
Đó là lý do giải thích tại sao học viên nước ngoài 
thường lúng túng và nhầm lẫn khi học những từ 
này. 
Thật ra, mỗi đơn vị trong kho từ vựng, trước hết 
là các vị từ, đều có những đặc trưng nhất định về 
ngữ nghĩa và ngữ pháp; trong sử dụng, sự biến đổi 
ngữ pháp và chuyển nghĩa là một khả năng không 
phải là cá biệt. Chính những điều đó làm cho diện 
mạo của mỗi đơn vị trở nên mơ hồ, khó nắm bắt. 
Thiết nghĩ, đi sâu vào bản chất ngữ nghĩa và ngữ 
pháp của mỗi từ, mỗi cấu trúc là một trong những 
cách có hiệu quả để lập thức ngữ pháp tiếng Việt. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 118 
Syntax and semantics of “thôi” and “ngừng” 
 Nguyen Van Pho 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
The paper gives a comparative analysis of 
the syntax and semantic features of “thôi” and 
“ngừng” – two Vietnamese egressive verbs 
where their aspectual value will moderately be 
focused. Accordingly, “thôi” and “ngừng” have 
several syntac-semantic properties in common, 
but also several differences. Both “thôi” and 
“ngừng” denote “not continue” or “not recur”; 
but unlike “thôi” which implies a termination, 
“ngừng” implies a possible resumption of the 
event in question. They both presuppose the 
event which has been in progress. However, 
“”thôi” can refer to an intention, but “ngừng” 
can’t. “Thôi” manifests the event of Activity or 
State (eventual types), but “ngừng” manifests 
the event of Activity or State or 
Accomplishment. They both can be followed in 
complement clause. In case of “thôi”, the 
complement clause refers to events [+dynamic] 
[+control] while “ngừng” requires events 
[+dynamic] [±control]. Both “thôi” and “ngừng” 
show some similarities but also differences. 
That is why foreigners have trouble learning 
Vietnamese. 
Keywords: egressive, terminative, cessation, aspectual value, phasal verb, aspects of verb 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Cao Xuân Hạo (1991). Tiếng Việt, sơ thảo ngữ 
pháp chức năng - Q1. Nxb KHXH, Tp.HCM. 
[2]. Dahl O. (1994). Aspect. Trong: Asher R.E. 
(ed.), The Encyclopedia of Language and 
Linguistics, Pergamon Press. 
[3]. Huỳnh Văn Thông (2000). Mấy nhận xét về vị 
từ tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt. 
Ngôn ngữ, số 8&10, H.. 
[4]. Krifka M. (1989). Nominal reference, 
temporal constitution, and quantification in 
event semantics. Trong: R. Bartsch, J. van 
Benthem, and P. van Emde Boas (eds.). 
Semantics and contextual expressions. pp 75--
115, Foris, Dordrecht. 
[5]. Lehman C. (1994). Predicates: Aspectual 
Types. Trong: Asher R.E. (ed.). The 
Encyclopedia of Language and Linguistics, 
Pergamon Press. 
[6]. Nguyễn Đức Dân (1996). Biểu hiện và nhận 
diện thời gian trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 
3, H.. 
[7]. Nguyễn Hoàng Trung (2006). Thể trong tiếng 
Việt (so sánh với tiếng Pháp và tiếng Anh). 
Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học 
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp.HCM. 
[8]. Nguyễn Vân Phổ (2011). “Bắt đầu” và thể 
khởi phát tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 2, H.. 
[9]. Smith Carlota S. (1997). The Parameter of 
Aspect. 2nd Edition. Kluwer Academic 
Publishers, Dordrecht. 
[10]. Tunde Nagy (2006). On the Semantics of 
Aspectualizers in English. 
www.nytud.hu/cescl/proceedings/Tunde_Nagy
_CESCL.pdf 
[11]. Vendler Zeno (1957). Verbs and Times. The 
Philosophical Review. Vol.66. No.2. Cornell 
University. 

File đính kèm:

  • pdfngu_phap_ngu_nghia_cua_thoi_ngung.pdf