Một cái nhìn đối sánh về ngôn ngữ trong phú tiếng Việt

Tóm tắt

Bằng việc sử dụng các phương pháp như: thống kê – phân loại, so sánh – đối chiếu và phân tích –

tổng hợp, bài viết đã đi sâu phân tích và chỉ ra sự khác nhau về ngôn ngữ giữa phú cổ và phú mới tiếng

Việt. Sự khác nhau đó thể hiện rất rõ ở ba yếu tố: câu, nhịp và từ ngữ sử dụng. Mỗi yếu tố có sự khác

nhau riêng, giá trị nghệ thuật riêng nhưng tất cả đều chứng minh sự phát triển của ngôn ngữ phú nói

riêng cũng như ngôn ngữ văn học nói chung.

pdf 5 trang yennguyen 4360
Bạn đang xem tài liệu "Một cái nhìn đối sánh về ngôn ngữ trong phú tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một cái nhìn đối sánh về ngôn ngữ trong phú tiếng Việt

Một cái nhìn đối sánh về ngôn ngữ trong phú tiếng Việt
50
Soá 9, thaùng 6/2013 50
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
MỘT CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH VỀ NGÔN NGỮ TRONG PHÚ TIẾNG VIỆT
ThS. Trần Hoàng Anh*
Tóm tắt 
Bằng việc sử dụng các phương pháp như: thống kê – phân loại, so sánh – đối chiếu và phân tích – 
tổng hợp, bài viết đã đi sâu phân tích và chỉ ra sự khác nhau về ngôn ngữ giữa phú cổ và phú mới tiếng 
Việt. Sự khác nhau đó thể hiện rất rõ ở ba yếu tố: câu, nhịp và từ ngữ sử dụng. Mỗi yếu tố có sự khác 
nhau riêng, giá trị nghệ thuật riêng nhưng tất cả đều chứng minh sự phát triển của ngôn ngữ phú nói 
riêng cũng như ngôn ngữ văn học nói chung. 
Từ khóa: phú, phú tiếng Việt, phú mới, phú cổ, ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, văn học.
Abstract
By using methods such as statistics - classifying, comparison and analysis - synthesis, this article 
was deeply analyzed and explained the difference of language used in new and ancient Vietnamese 
poem. These differences are clearly mentioned in three elements: sentences, rhyme and word used. 
Though each element has its own differences, artistic values, they all demonstrate the development of 
poem in particular and literature in general.
Key words: poem, Vietnamese poem, new poem, ancient poem, language, literary language, literature.
*Trường Đại học Đồng Tháp
1. Mở đầu
 Tìm hiểu phú tiếng Việt trong sự đối sánh là 
cần thiết. Phú vốn là một thể loại được du nhập 
từ Trung Quốc, được viết bằng hai ngôn ngữ 
tiếng Hán và tiếng Việt. Một cái nhìn đối sánh 
về phú khi được viết bằng hai ngôn ngữ cũng là 
cần thiết. Việc này, đã được rất nhiều nhà nghiên 
cứu quan tâm tìm hiểu và bước đầu có những 
thành công. Nhưng sẽ cần thiết hơn nếu chúng ta 
có được sự đối sánh ngay trong phú tiếng Việt. 
Bởi lẽ, tiếng Hán dẫu sao cũng có sự cách biệt 
đối với người Việt chúng ta, mặc dù trong tiếng 
Việt có từ 60 – 70% từ Hán – Việt. Chữ Hán ở 
Việt Nam là một ngoại ngữ, hơn nữa là một tử 
ngữ. Còn tiếng Việt là thứ ngôn ngữ mà người 
Việt Nam sử dụng trong giao tiếp, sinh hoạt 
hàng ngày; khi được sử dụng trong phú chắc 
chắn nó sẽ mang những đặc trưng văn hóa cũng 
như ngôn ngữ dân tộc. Chúng tôi cho rằng nhìn 
phú tiếng Việt trong sự đối sánh về các yếu tố 
ngôn ngữ ở từng giai đoạn phát triển khác nhau 
sẽ làm sáng tỏ thêm được nhiều điều, không chỉ 
về bản thân đối tượng cũng như sự phát triển của 
nó mà còn thấy được sự phát triển của ngôn ngữ 
văn học dân tộc.
2. Nội dung
 Hiện đang có những quan điểm khác nhau 
trong cách phân kỳ văn học Việt Nam. Theo 
quan điểm của chúng tôi, phú tiếng Việt có hai 
giai đoạn phát triển. Phú cổ thuộc phạm trù văn 
học trung đại (mốc thời gian là trước thế kỷ XX), 
còn thuộc phạm trù văn học cận, hiện đại là phú 
mới (thế kỷ XX trở về sau). Điều chúng tôi quan 
tâm ở đây không phải là sự phân chia rạch ròi 
hai giai đoạn phát triển này, mà là đối sánh để 
thấy được sự khác nhau về các yếu tố ngôn ngữ 
ở từng giai đoạn phát triển của phú tiếng Việt.
Về tư liệu khảo sát, chúng tôi chọn cuốn Phú 
Việt Nam cổ và kim do Phong Châu và Nguyễn 
Văn Phú tuyển (1960), NXB Văn hóa, Hà Nội 
để khảo sát. Trong cuốn này, chúng tôi cũng chỉ 
chọn những bài phú tiếng Việt có tác giả. Đây 
là tuyển tập những bài phú được phiên âm ra 
quốc ngữ khá sớm. Cuốn sách tập hợp được một 
số lượng tác phẩm phong phú của nhiều tác giả, 
nhiều thời kỳ. Có cả phú chữ Nôm được phiên 
âm ra quốc ngữ và phú viết bằng chữ quốc ngữ; 
có cả phú cổ và phú kim, có cả phú khuyết danh 
và không khuyết danh. Theo nghiên cứu bước 
đầu của chúng tôi, hai giai đoạn phát triển này có 
sự khác nhau những yếu tố ngôn ngữ sau:
2.1. Về phương diện câu
Đại bộ phận phú tiếng Việt viết theo thể phú 
Đường luật nên chúng ta chỉ tìm hiểu các loại 
câu của tiểu loại này. Trong phú Đường luật có 
các loại câu như: câu tứ tự, câu bát tự, câu song 
quan, câu cách cú, câu gối hạc. Theo khảo sát 
của chúng tôi thì trong 39 bài phú tiếng Việt làm 
51
Soá 9, thaùng 6/2013 51
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
theo thể phú Đường luật (có tác giả) in trong 
cuốn Phú Việt Nam cổ và kim (sđd) có tất cả 
1247 cặp câu. Số lượng sử dụng như sau: Câu 
tứ tự: 204 cặp câu (chiếm tỷ lệ 16,3%); Câu bát 
tự: 111 cặp câu (chiếm tỷ lệ 8,9%); Câu song 
quan: 252 cặp câu (chiếm tỷ lệ 20,2%); Câu cách 
cú: 537 cặp câu (chiếm tỷ lệ 43,1%); Câu gối 
hạc: 143 cặp câu (chiếm tỷ lệ 11,5%). Các loại 
câu này, tần số sử dụng trong phú cổ và phú mới 
hòan toàn khác nhau: 
 Loại phú Phú cổ (24 
bài)
Phú mới (15 
bài)Loại câu
Tứ tự 142 cặp câu 
(16,9%)
62 cặp câu 
(15,2%)
Bát tự 83 cặp câu 
(9,9%)
28 cặp câu 
(6,9%)
Song quan 192 cặp câu 
(22,9%)
60 cặp câu 
(14,7%)
Cách cú 365 cặp câu 
(43,5%)
172 cặp câu 
(42,1%)
Gối hạc 57 cặp câu 
(6,8%)
86 cặp câu 
(21,1%)
Tổng cộng 839 cặp câu 
(100%)
408 cặp câu 
(100%)
Nhìn vào bảng số liệu, chúng ta thấy các loại 
câu ngắn như tứ tự, bát tự, song quan trong phú 
mới đều giảm nhiều về tần số sử dụng so với phú 
cổ. Trong tổng số 204 cặp câu tứ tự, 111 cặp câu 
bát tự và 252 cặp câu song quan thì phú cổ chiếm 
phần chủ yếu.
 Ngược lại, ở loại câu dài, đặc biệt là câu gối 
hạc, trong phú mới tần số sử dụng lại tăng nhanh, 
từ 6,8% trong phú cổ tăng lên 21,1% trong phú 
mới. Tất cả có 143 cặp câu gối hạc thì có tới 
86 cặp câu thuộc về phú mới, chiếm tỷ lệ hơn 
60,1%. Một con số thống kê nữa cũng cho ta 
thấy trong phú mới tỷ lệ sử dụng câu dài rất cao. 
Trong số 15 bài phú mới thì có 10 bài sử dụng 
những câu dài để kết thúc tác phẩm.
Việc sử dụng câu dài phổ biến trong phú mới 
thể hiện xu thế văn xuôi hóa tác phẩm phú nhưng 
đồng thời cũng khẳng định sự phát triển của thể 
tài này. Câu dài tạo cho người đọc cảm giác văn 
xuôi rất lớn, đành rằng trong phú tính chất thơ 
vẫn được các yếu tố như vần, đối, nhịp duy trì 
đều đặn. Theo chúng tôi, trong phú cổ tính chất 
quy phạm dẫu sao cũng ảnh hưởng rất lớn đến 
các tác giả là những sĩ tử được đào luyện cho thi 
cử. Còn trong phú mới mặc dù cũng có những tác 
giả được đào luyện trên con đường cử tử nhưng 
mục đích “học thi làm quan” không còn là vấn 
đề quan trọng hàng đầu nữa. Chính vì điều này 
mà cách viết của họ phóng khoáng hơn, có nhiều 
những phá cách, phá luật. Tuy nhiên, điều đó lại 
mang đến cho tác phẩm phú những nét độc đáo, 
tạo nên những thành công về nghệ thuật.
2.2. Về nhịp
Nhịp tạo nên tính chất thi ca trong phú. Theo 
Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, nhịp của thơ 
ca ta là lẻ trước, chẵn sau, còn nhịp của thơ ca 
Trung Quốc là chẵn trước, lẻ sau [5, tr.151]. Đối 
với phú, một thể tài mô phỏng của Trung Quốc 
thì cách ngắt nhịp chẵn là tương hợp với các kiểu 
câu của thể tài. Phú có hai loại câu là tứ tự (mỗi 
vế bốn chữ) và bát tự (mỗi vế tám chữ chia làm 
hai đoạn, mỗi đoạn bốn chữ). Ngữ đoạn gồm bốn 
chữ và sáu chữ cũng phổ biến trong phú (người 
xưa gọi là câu tứ lục). Ngoài ra, các loại câu khác 
như cách cú, gối hạc cũng có thể dùng ngữ đoạn 
bốn chữ, sáu chữ. Sự tương hợp đó tạo cho nhịp 
của phú, đặc biệt là phú cổ rất gần với nhịp của 
thơ ca Trung Quốc, bởi vì cách ngắt nhịp thường 
tương xứng với các ngữ đoạn trong câu. Ví dụ:
- Vua thánh,/ tôi hiền;
 Nước yên,/ nhà thuận. 
 (Cung trung bảo huấn – Bùi Vịnh)
 - Chậu thau rửa mặt,/ tầm váo tầm vênh;
Điếu sứ long đờm,/ cóc ca cóc cách.
 (Thầy đồ ngông phú – Nguyễn Khuyến)
 - Cổ bàn nhỏ to,/ chi sá kể
 Quần áo dài vắn,/ há đâu cần.
 (Tù xuân phú – Nguyễn Xuân Từ) 
- Tản Lĩnh cao tày Thái Đại,/ rạng vẻ 
thần minh;
 Nhĩ Hà sâu sánh Giang Hoài,/ nối dòng 
vương tá.
(Bài phú Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất – 
Phạm Văn Nghị)
Trong phú mới, cách ngắt nhịp đa dạng hơn. 
Bên cạnh kiểu ngắt nhịp chẵn trước theo phú 
Trung Quốc thì cách ngắt nhịp lẻ cũng rất phổ 
biến. Ví dụ:
52
Soá 9, thaùng 6/2013 52
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
- Sóng cạnh tranh,/ lai láng dưới hòan cầu,/ 
người muốn nọ,/ kẻ muốn kia,/ không ai giống 
đâu,/ sống một nết,/ chết một tật;
 Đường giao thiệp,/ mở mang trên đại lục,/ 
khôn cũng nhiều,/ dại cũng lắm,/ trông đó thì 
biết,/ người ba đấng,/ của ba loài.
(Phú cải lương – Nguyễn Thượng Hiền)
- Đói cho sạch,/ rách cho thơm,/ há như ai 
đục nước béo cò,/ chẳng nghĩ con cái mình,/ 
nặng tay rìu búa;
 Ăn có nhai,/ nói có nghĩ,/ chớ toan sự mù trời 
bắt két,/ gặp khi thời vận thế,/ lên mặt cân đai.
(Phú cải lương – Nguyễn Thượng Hiền)
Theo chúng tôi, ảnh hưởng của thành ngữ, 
tục ngữ đối với nhịp của phú rất lớn. Các tác 
giả phú mới sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục 
ngữ tiếng Việt mà nhịp trong những thể loại này 
Việt thì đa dạng và linh hoạt vô cùng. Trong một 
thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt có thể có nhiều loại 
nhịp. Có những câu do thói quen của từng người 
hay tuỳ theo nhu cầu nhấn mạnh ý khi sử dụng 
mà sự ngắt nhịp có thể thay đổi. Cùng một thành 
ngữ, tục ngữ nhưng các tác giả phú có thể sử 
dụng dưới nhiều dạng khác nhau. Ví dụ:
- Đổ về cậy thế cậy trần, trí chưa trạch dân 
ba voi không một xáo.
(Tâm huyết phú- độc vận “bạo”- Phan Bội Châu)
- Xin đừng giương mắt trông nhau, lắm sĩ 
không ai đóng cửa chùa, phong hội ấy, nước non 
này, cũng phải lo toan cho hết sức;
Thôi đừng già mồm nói khoác, mười voi 
không được một bát xáo, chí khí to, công việc 
lớn, sao cho chắc chắn được như lời.
(Phú cải lương- Nguyễn Thượng Hiền) 
Hay câu tục ngữ: “gió chiều nào, che chiều 
ấy”, tác giả sử dụng có thể thêm vào một chữ để 
vừa đủ đối lại vừa nhấn mạnh thêm ý nghĩa: 
Chẳng biết gió chiều nào phải che chiều 
ấy, còn tại hạ phải lạc thiên an mạnh, chở ngất 
ngưỡng tịch cư ninh thể mà vụ danh;
Đã hay phấn giồi mặt đâu để giồi chân, may 
đắc thời mà trí chúa trạch dân, đừng ngoa ngoắt 
giai cảnh hứng tình mà liễu cục.
(Thế tục phú - Trần Văn Nghĩa)
Như vậy, nếu trong phú cổ cách ngắt nhịp 
chẵn hoặc chẵn trước, lẻ sau là chủ yếu; thì trong 
phú mới, với ảnh hưởng của bộ phận văn vần dân 
gian (thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt), nhịp trở nên 
đa dạng và linh hoạt hơn. Điều này, góp một phần 
nhỏ làm nên tính dân tộc đậm đà trong phú mới.
2.3. Về từ ngữ
Cách dùng từ ngữ trong phú bao giờ cũng 
chọn lọc công phu, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn 
phát triển có sự khác nhau. Nếu như trong phú 
cổ, từ thế kỷ XIII, ở buổi đầu khi mới hình thành, 
ngôn ngữ của phú còn rất cổ, có nhiều tiếng đến 
nay không dùng nữa.Ví dụ:
-Thửa mắc:
 Trời sinh chúa thánh. Đất có tôi lành.
(Đại đồng phong cảnh phú- Nguyễn Hàng)
- Trắp bánh xe là bởi tội Lý Tư, nào ai đem 
nhứt tiếu khuynh thành mà dượng Võ gọi vong 
Tần cho đáng;
 Giơ roi ngựa ấy nức danh Châu hậu, lấy ai 
đủ thập tuần trị quốc mà thầy Nho rằng trợ Kiệt 
nên tin.
(Tần cung nữ oán Bái công- Đặng Trần Thường)
Nội dung lời văn phú cổ rất nhiều điển tích, 
điển cố. Theo thống kê của chúng tôi, trong 25 
bài phú cổ có tới 266 điển cố, điển tích (trong khi 
đó ở 15 bài phú mới chỉ có hai điển tích - thuộc 
bài Tỉnh quốc dân phú của Phan Bội Châu). Bình 
quân mỗi bài phú cổ sử dụng tới hơn 11 điển tích, 
điển cố. Trong đó, có những bài dày đặc điển tích, 
điển cố như: Lượng như long phú (Nguyễn Tắc 
Dĩnh): 25; Cung trung bảo huấn (Bùi Vịnh): 15; 
Trương Lương Hầu phú (Nguyễn Hữu Chỉnh): 
49; Tụng Tây Hồ phú (Nguyễn Huy Lượng): 43; 
Hàn Vương Tôn phú (Đặng Trần Thường): 37; 
Tần cung nữ oán Bái công (Đặng Trần Thường): 
18. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi lẽ đối với người 
thời trung đại “giỏi văn chương cũng là hay chữ. 
Hay chữ là nhớ nhiều, nhớ kinh điển, nhớ điển 
tích, nhớ nhiều thơ văn xưa và khi viết có thể 
nhanh chóng nhớ ra và viết đúng chỗ những 
cái đó vào bài của mình. Chép nguyên văn của 
người xưa không bị coi là thiếu sáng tạo hay ăn 
cắp văn như ta hiểu ngày nay mà ngược lại được 
đánh giá cao vì uyên bác, vì nhớ giai, vì hay chữ” 
[4, tr.39]. Chúng ta thử đọc một đoạn trong bài 
53
Soá 9, thaùng 6/2013 53
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Cung trung bảo huấn của Bùi Vịnh sẽ hình dung 
được mật độ điển cố, điển tích trong phú cổ:
Ly Sơn cười một phút, Bao Tự kia lầm hết 
chư hầu;
Vị Thuỷ tắm đòi phen, Dương phi nọ độc hòa 
thiên hạ.
Cung Quán Giai, lang Hưởng tiệp, Tây Thi 
chỉn ấy thê loàn;
Thang đậu khấu, quê ôn nhu, Triệu thị thật là 
nước họa.
Bên cạnh đó, trong phú cổ, lớp từ Hán – Việt 
được các tác giả sử dụng rất nhiều. Có những 
đoạn tác giả sử dụng chủ yếu từ Hán – Việt:
Tạo hóa công nên, phép hoằng quy đã lập;
Cung vi giáo để, văn bảo huấn chép ra.
Vừa thuở:
Vận mở Đường Ngu,
Đạo truyền Thuấn Vũ.
Thương sinh, bốn bể chiêu an
Hoàng cực, chín lần áo dũ.
Thôi văn, đốc vũ, việc ngoại đình đều sửa sang;
Cõi hóa,nguồn nhân, tôi nội đài xá ư dạy nhủ.
(Cung trung bảo huấn – Bùi Vịnh)
Ngay các tiêu đề tác phẩm của phú cổ cũng 
mang đậm dấu ấn của Hán ngữ: Lượng như long 
phú, Phụng thành xuân sắc phú, Khổng Tử mộng 
Chu Công phú, Bắc sở tự tình phú, Tần cung nữ 
oán Bái công, Tài tử đa cùng phú, Hàn nho phong 
vị phú. Trong khi đó, phú mới sử dụng chủ yếu 
từ thuần Việt cũng như cấu trúc ngữ pháp tiếng 
Việt để đặt tên tác phẩm, mặc dù phú là thể tài có 
nguồn gốc từ Trung Quốc. Chẳng hạn: Phú chúc 
tết Ngô Chí Sĩ, Phú kể tội Mỹ Diệm, Phú Miền 
Nam bất khuất, Nhắn gửi họ Ngô.
Với việc sử dụng rất nhiều từ cổ, nhiều điển 
tích, điển cố và lớp từ Hán – Việt đã tạo cho phú 
cổ sắc thái trang trọng, cổ kính, tao nhã, uyên 
bác đậm chất “Trung Hoa”. Chúng ta nên nhớ 
rằng tâm lý sáng tạo văn học phổ biến thời trung 
đại là làm sao cho hợp cách chứ không hướng 
đến phá cách. Ở Việt Nam thời ấy “vô tốn Trung 
Hoa”, “bất dị Trung Hoa” được xem là dấu hiệu 
của chất lượng. 
Còn trong phú mới, lớp từ ngữ mà các tác 
giả sử dụng đã hòan toàn đổi mới. Từ đầu thế kỷ 
XX đến nay thì ngôn ngữ bình dân lại càng trở 
nên sâu sắc và phong phú trong các bài phú và 
văn tế. Thực ra, lối nói bình dân đã manh nha và 
được Nguyễn Hàng sử dụng trong phú từ thế kỷ 
XVI với những tiếng đệm tài tình và sinh động. 
Những tiếng tượng thanh, tượng hình như: chua 
lòm, lạt thếch, hẩm hiu, xốc xếch, phì phèo, lách 
cách pha lẫn những tiếng lấy ở chữ Hán đã được 
Việt hóa như: 
Áo bao quản song bài chân bịch.
hoặc:
Thỏ lặn, ác tà, cơ thường, biến dịch. 
 (Tịch cư ninh thể phú – Nguyễn Hàng) 
Từ đầu thế kỷ XX trở về sau, ảnh hưởng của 
thành ngữ, tục ngữ, ca dao, ngôn ngữ bình dân 
của nhân dân lao động ngày càng chiếm phần 
quan trọng trong phú. Trong 40 bài phú tiếng 
Việt (có tác giả) in trong cuốn Phú Việt Nam 
cổ và kim [2], chúng tôi đã thống kê được 420 
lượt sử dụng thành ngữ, tục ngữ, Trong đó, phú 
cổ: 164 lượt/25 bài chiếm tỷ lệ 39%; phú mới: 
265 lượt/15 bài chiếm tỷ lệ 61%. Như vậy, bình 
quân một bài phú cổ có 6,6 lượt sử dụng thành 
ngữ, tục ngữ; trong khi đó một bài phú mới có 
tới 17,1 lượt sử dụng. Đặc biệt, trong phú mới có 
những bài sử dụng dày đặc thành ngữ, tục ngữ: 
Tỉnh quốc dân phú (Phan Bội Châu): 64, Phú cải 
lương (Nguyễn Thượng Hiền): 64. Điều này có 
nguyên do của nó. Trong suốt quá trình lớn mạnh 
của văn học quốc âm, tục ngữ cùng với thành 
ngữ, ca dao ngày càng gắn với văn học nhiều 
hơn, không những có ảnh hưởng lớn đến thơ mà 
đến cả loại văn xuôi Nôm có nhịp điệu như phú 
Nôm. Giải thích về hiện tượng này, Phong Châu 
và Nguyễn Văn Phú đã viết: “Ta không lạ gì hiện 
tượng đó. Khi chế độ phong kiến ngày càng suy 
tàn, giai cấp phong kiến càng đi vào con đường 
bế tắc, thì tiếng nói văn chương của nó dần dần 
nhường bước cho tiếng nói văn chương của nhân 
dân lao động, là ca dao, tục ngữ” [2, tr.62 - 63]. 
Chúng tôi cho rằng, ngoài những lý do mà các 
nhà nghiên cứu đã đưa ra giải thích ở trên, còn 
có lý do về sự phát triển của ngôn ngữ văn học, 
trong đó có sự phát triển của ngôn ngữ phú. Từ 
chỗ mang tính sách vở, quan phương, ngôn ngữ 
văn học phát triển đến chỗ gần gũi hơn với nhân 
dân lao động, nghệ thuật hơn và cũng dễ đi vào 
lòng người hơn.
54
Soá 9, thaùng 6/2013 54
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Việc sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ tạo 
cho phú mới không những giàu nhịp điệu, hình 
ảnh, âm thanh, màu sắc mà còn nói lên được cuộc 
sống thực của con người, của xã hội. Điều này 
tạo cho phú tiếng Việt có những nét riêng mang 
tính dân tộc, khác xa với phú chữ Hán cũng như 
phú Trung Quốc. 
3. Kết luận
Giữa phú cổ và phú mới có sự khác nhau rất 
rõ ở ba yếu tố: câu, nhịp và từ ngữ sử dụng. Nếu 
như khác nhau về câu khẳng định sự phát triển 
của phú theo xu thế văn xuôi hóa bằng việc sử 
dụng những câu dài, khác nhau về nhịp làm nên 
tính dân tộc đậm nét trong phú thì khác nhau về 
từ ngữ sử dụng thể hiện sự kết hợp tài tình giữa 
hai loại ngôn ngữ bình dân và bác học, tạo nên 
những thành công trong nghệ thuật của phú tiếng 
Việt. Đó là bước tiến mới của ngôn ngữ phú cũng 
như ngôn ngữ văn học nói chung. 
Tài liệu tham khảo
Trần Hoàng Anh. 2012. Ảnh hưởng của thành ngữ - tục ngữ trong phú tiếng Việt. Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Trà Vinh. số 5. 
Phong Châu, Nguyễn Văn Phú. 1960. Phú Việt Nam cổ và kim. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội.
Cao Huy Đỉnh. 1976. Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam. KHXH. Hà Nội.
Trần Đình Hượu. 1999. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội.
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức. 1971. Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại). Nhà xuất bản 
KHXH. Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfmot_cai_nhin_doi_sanh_ve_ngon_ngu_trong_phu_tieng_viet.pdf