Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng việt

TÓM TẮT: Mạch lạc là yếu tố quan trọng quyết định chất văn bản của một văn bản. Bài viết này làm rõ

biểu hiện mang tính đặc trưng của mạch lạc trong văn bản nghị luận là mạch lạc qua quan hệ lập luận ở

một số phương diện là kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận và hiện tượng đa thanh

pdf 11 trang yennguyen 2360
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng việt

Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng việt
66 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mạch lạc là “sự nối kết có tính chất 
hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức năng, 
được trình bày trong quá trình triển khai 
một văn bản (như một truyện kể, một cuộc 
thoại, một bài nói hay bài viết...) nhằm tạo 
ra những sự kiện nối kết với nhau hơn là 
sự liên kết câu với câu” [1, tr. 297]. Mạch 
lạc trong phân tích diễn ngôn được coi 
là vấn đề cốt yếu có vai trò quyết định 
“chất văn bản của văn bản” và nó được 
thể hiện qua nhiều phương diện khác 
nhau. Trong văn bản nghị luận (VBNL), 
mạch lạc qua quan hệ lập luận được coi 
là biểu hiện mang tính đặc trưng. Bài viết 
này quan tâm đến mạch lạc trong quan hệ 
lập luận được thể hiện ở những phương 
diện nổi bật là kiểu lập luận, đặc điểm của 
các thành phần lập luận và hiện tượng đa 
thanh trong 326 VBNL.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Mạch lạc biểu hiện qua việc sử dụng 
kiểu lập luận phù hợp
2.1.1. Lập luận theo logic hình thức của 
luận cứ và kết luận
* Lập luận diễn dịch: Lập luận diễn 
dịch có 844/ 2.302 lập luận trong 326 
VBNL. Lập luận diễn dịch bao gồm cả 
tam đoạn luận.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA MẠCH LẠC TRONG QUAN HỆ 
LẬP LUẬN Ở VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT
Tống Thị Hường 
Khoa Ngữ văn - Khoa học xã hội 
Email: huongtt@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 19/8/2019
Ngày PB đánh giá: 19/9/2019
Ngày duyệt đăng: 27/9/2019
TÓM TẮT: Mạch lạc là yếu tố quan trọng quyết định chất văn bản của một văn bản. Bài viết này làm rõ 
biểu hiện mang tính đặc trưng của mạch lạc trong văn bản nghị luận là mạch lạc qua quan hệ lập luận ở 
một số phương diện là kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận và hiện tượng đa thanh. 
Từ khóa: mạch lạc, lập luận, văn bản nghị luận.
SOME CHARACTERISTICS OF COHERENCE IN REASONING RELATION
IN VIETNAMESE ARGUMENTATIVE WRITING
ABSTRACT: Coherence is an important determinant of the text’s quality. In this article, we clarify the 
coherence characteristic manifestation in argumentative writing. Through reasoning relation in some 
aspects, coherence is a kind of argument. We also discuss the characteristics of argument components 
and the polyphonic phenomena in the article.
Keywords: coherence, argument, argumentative writing.
67TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
Ví dụ 1: Tiếng Việt có những đặc sắc 
của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. 
Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là 
một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, 
thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển 
chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng 
có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ 
khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng 
của người Việt Nam và để thỏa mãn cho 
yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà 
qua các thời kì lịch sử. [6, SGK Ngữ văn 
7, tập 2, tr. 35]
Đoạn này được trích trong văn bản Sự 
giàu đẹp của tiếng Việt của tác giả Đặng 
Thai Mai. Đoạn trích có ba câu, câu (1) là 
một nhận định - r, câu (2) và (3) là luận 
cứ - p1 và p2. Cụ thể như sau:
p1: Hài hòa về mặt âm hưởng, 
thanh điệu, tế nhị, uyển chuyển 
trong cách đặt câu.
p2: Có đầy đủ khả năng để diễn đạt tư 
tưởng, tình cảm của người Việt và để
thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống 
văn hóa nước nhà.
R:Tiếng Việt là một ngôn ngữ đẹp và hay
Lập luận theo lối diễn dịch (trình tự 
kết luận - luận cứ) thường phù hợp với 
những lập luận đơn giản có các luận 
cứ đồng hướng, với mục đích diễn giải, 
phân tích, chứng minh. Thêm nữa, tam 
đoạn luận cũng phải được trình bày 
theo cách diễn dịch.
* Lập luận quy nạp: Trong ngữ liệu 
326 VBNL, có 982/2.302 lập luận quy 
nạp. Lập luận quy nạp dựa trên logic tự 
nhiên từ luận cứ đến kết luận, do đó kết 
luận rút ra mang sức thuyết phục. Vì thế, đây 
cũng là kiểu lập luận phổ biến trong VBNL.
Ví dụ 2: Kiều không biết mấy lần nhìn 
trăng nhưng cảnh trăng cũng mỗi lần một 
khác: khi rạo rực yêu đương, khi gần gụi âu 
yếm, khi bát ngát bao la, khi ám ảnh như một 
lời trách móc, khi cô đơn, khi tàn tạ, khi mong 
manh. Có thể nói thiên nhiên trong “Truyện 
Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật vẫn 
thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi 
không có mặt và luôn thấm đượm tình người. 
[7, tập I, tr. 323]
Các thành phần trong lập luận ở ví dụ 
(2) có trình tự p, q - r. Luận cứ p là Kiều 
không biết mấy lần nhìn trăng, luận cứ q: 
nhưng cảnh trăng cũng mỗi lần một khác 
(q cũng là một lập luận). Từ p và q ở câu 
đầu (hình ảnh trăng trong Truyện Kiều), 
Hoài Thanh khái quát và rút ra kết luận: 
thiên nhiên trong “Truyện Kiều” cũng là 
một nhân vật,.. . Lập luận này được hiểu 
cụ thể như sau:
p: Kiều không biết mấy lần nhìn trăng
q (r): Trăng mỗi 
lần một khác
q1: khi rạo rực yêu đương
q2: khi gần gụi âu yếm
q3: khi bát ngát bao la
q4: khi ám ảnh ... 
 q5: khi cô đơn 
 q6: khi tàn tạ
q7: khi mong manh 
R:Thiên nhiên trong"Truyện 
Kiều” cũng là một nhân vật 
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Theo mô hình trên, các thành phần của 
lập luận được hình dung cụ thể về nội dung 
và vị trí. Từ luận cứ về hình ảnh trăng 
trong “Truyện Kiều” và các biểu hiện của 
nó qua ánh mắt nàng Kiều, mà thực ra là 
qua tâm trạng Kiều (khi rạo rực yêu đương, 
khi gần gụi âu yếm, khi bát ngát bao la,...) 
mà kết luận Hoài Thanh rút ra mang sức 
thuyết phục: thiên nhiên trong “Truyện 
Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật 
vẫn thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không 
mấy khi không có mặt và luôn thấm đượm 
tình người.
Một điểm đáng chú ý trong lập luận 
quy nạp ở VBNL là sự xuất hiện của 
những lập luận mang tính tranh luận phản 
biện. Đó là kiểu lập luận mà người viết 
đưa ra luận cứ là một ý kiến, một nhận xét 
(ý kiến hay nhận xét này có lí, đã được 
chấp nhận), sau đó lại phản bác lại bằng 
cách đưa ra các luận cứ ngược hướng, 
trên cơ sở đó mà rút ra kết luận. Kiểu lập 
luận này còn được gọi là lập luận nêu 
phản đề. Lĩnh vực mà VBNL quan tâm là 
các lĩnh vực đa dạng của cuộc sống nên 
trong VBNL thường xuyên xảy ra sự tranh 
luận giữa các quan điểm, ý kiến, trường 
phái,.... Dưới đây là ví dụ về lập luận phản 
biện trong văn bản nghị luận:
Ví dụ 3: Nguyễn Mộng Tuân, một 
người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi 
Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh hây hẩy 
gác vàng, người như một ông tiên ở trong 
tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho 
nước, từ xưa chưa có bao giờ...”. Nguyễn 
Trãi không phải là một ông tiên. Nguyễn 
Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân 
đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió của 
thời đại lúc bấy giờ, thông cảm sâu xa với 
nỗi lòng dân lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy 
cho một lí tưởng cao quý. [7, tập I, tr. 125]
Trong lập luận này, kết luận được 
Phạm Văn Đồng hướng tới là: Nguyễn 
Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân 
đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió của 
thời đại lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy cho 
một lí tưởng cao quý. Để đi tới kết luận 
này, tác giả không đi theo lối thông thường 
là lấy dẫn chứng trong thơ văn và cuộc đời 
Nguyễn Trãi mà bằng cách đưa ra một ý 
kiến trái ngược. Dĩ nhiên, ý kiến này hoàn 
toàn có cơ sở, bởi đó là lời nhận xét của 
Nguyễn Mộng Tuân - một người bạn của 
Nguyễn Trãi. Nguyễn Mộng Tuân đã ca 
ngợi Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh 
hây hẩy gác vàng, người như một ông 
tiên ở trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm 
đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ...”. 
Trong ý kiến này, Nguyễn Mộng Tuân 
muốn khẳng định vẻ đẹp của Nguyễn Trãi, 
đó là thần thái, cốt cách của một ông tiên 
ở trong tòa ngọc, thoát hẳn khỏi trần thế. 
Lời nhận xét này của Nguyễn Mộng Tuân 
không phải không có lý. Nhưng Phạm 
Văn Đồng đã phản biện lại ý kiến này của 
Nguyễn Mộng Tuân về Nguyễn Trãi và 
khẳng định rằng Nguyễn Trãi không phải 
là một ông tiên mà Nguyễn Trãi là người 
đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt 
Nam, tâm hồn lộng gió của thời đại lúc bấy 
giờ, suốt đời tận tụy cho một lí tưởng cao 
quý. Thực vậy, tìm hiểu cuộc đời và thơ 
văn Nguyễn Trãi, chúng ta cũng thấy nhận 
xét của Phạm Văn Đồng về Nguyễn Trãi 
là hoàn toàn xác đáng. Nguyễn Trãi luôn 
sống với cuộc đời thực của con người, của 
nhân dân, suốt đời đau đáu một tấm lòng 
nhân nghĩa, vì dân, vì nước “Đêm ngày 
cuồn cuộn nước triều Đông». Điều đáng 
nói đến ở đây là cách lập luận mang tính 
phản biện này làm cho kết luận được nói 
tới được nổi bật hơn, rõ hơn, sâu hơn. Có 
thể hình dung lập luận này như sau:
69TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
p (là một lập luận có trật tự: p - r): 
Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của 
Nguyễn Trãi, đã ca ngợi Nguyễn Trãi như 
sau (p): “Gió thanh hây hẩy gác vàng, 
người như một ông tiên ở trong tòa ngọc, 
cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa 
chưa có bao giờ (r)...
q: Nguyễn Trãi không phải là một ông 
tiên.
R: Nguyễn Trãi là người đầu đội trời 
Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn 
lộng gió của thời đại lúc bấy giờ, suốt đời 
tận tụy cho một lí tưởng cao quý.
Từ sự phân tích các lập luận được 
tổ chức theo hướng quy nạp với trật tự 
luận cứ - kết luận, có thể thấy rằng trong 
VBNL, đối với các lập luận phức, lập luận 
có luận cứ nghịch hướng, đặc biệt là các 
lập luận mang tính phản biện thì lập luận 
quy nạp là hình thức tổ chức phù hợp nhất, 
hiệu quả nhất để kết luận rút ra mang tính 
thuyết phục. Giả sử thay đổi cách lập luận 
trong các ví dụ 2 và ví dụ 3 sang lập luận 
ngược lại là lập luận diễn dịch thì chắc 
chắn kết luận sẽ không có sự hấp dẫn, 
và kém thuyết phục hơn. * Lập luận 
phối hợp diễn dịch - quy nạp: Đây là kiểu 
lập luận phối hợp cách trình bày kết luận 
- luận cứ của diễn dịch và cách trình bày 
luận cứ - kết luận của quy nạp. Kiểu lập 
luận này giống như một tiểu văn bản với 
ba phần mở - thân - kết và có 476/ 2.302 lập 
luận. Tác giả nghị luận tổ chức các thành 
phần của lập luận theo hướng này nhằm 
mục đích một lần nữa khẳng định, kết luận 
lại nhận xét, đánh giá đã đưa ra ban đầu.
Ví dụ 4: Tiếng nói là người bảo vệ 
quý báu nhất nền độc lập của các dân 
tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải 
phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu 
người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng 
nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói 
ấy phong phú hơn để có khả năng phổ 
biến tại An Nam các học thuyết đạo đức 
và khoa học của châu Âu, việc giải phóng 
dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời 
gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ 
tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên 
khước từ niềm hi vọng giải phóng giống 
nòi. [...] Vì thế, đối với người An Nam 
chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa 
với chối từ sự tự do của mình. [6, SGK 
Ngữ văn 11, tập 2, tr. 90]
Ví dụ này trích trong văn bản Tiếng mẹ 
đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp 
bức của Võ An Ninh. Đoạn trích này là 
một lập luận, trong đó, câu (1) và (4) là kết 
luận (R), câu (2) là luận cứ (p), câu (3) là 
kết luận (r) được rút ra từ luận cứ (p). Lập 
luận trong đoạn trích được sắp xếp theo 
trình tự: Kết luận (R) - luận cứ (p -> r) - 
kết luận (R’), tức là theo mô hình phối hợp 
diễn dịch - quy nạp.
 2.1.2. Lập luận hàm ẩn
Trong VBNL, lập luận hàm ẩn được 
các tác giả nghị luận thường xuyên sử 
dụng với 951/ 2.302 lập luận. Có hai loại 
hàm ẩn là hàm ẩn luận cứ và hàm ẩn kết 
luận. Lập luận hàm ẩn luận cứ được sử 
dụng trong cả nghị luận xã hội và nghị 
luận văn học.
Lập luận hàm ẩn kết luận thường xuất 
hiện trong VBNL. Lập luận hàm ẩn kết 
luận xuất hiện khi tác giả nghị luận do ý 
nhị, không muốn áp đặt điều mình đánh 
giá (nhất là trường hợp đánh giá tiêu 
cực), không muốn gây sức ép trong việc 
kêu gọi thực hiện một hành động nào đó. 
Kiểu lập luận này khiến cho người tiếp 
nhận phải tự suy nghĩ (suy ý) để rút ra kết 
luận phù hợp. 
70 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Ví dụ 5: 
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
[6, tập 2, tr. 22]
Đoạn trích này là một tam đoạn luận. 
Tam đoạn luận này được phân tích như sau:
Đại tiền đề 
(p1)
 Trời đất tối rồi lại sáng
Tiểu tiền đề 
(p2) - ẩn
Đất nước mất tự do, 
chìm trong xương 
máu sẽ đến ngày được 
hưởng thái bình - nhờ 
lấy gốc là nhân nghĩa
Kết luận (r) Đại Việt muôn thuở 
vững bền
Trong lập luận này, đại tiền đề nêu ra 
quy luật của đất trời, của tự nhiên: kiền 
khôn bĩ rồi lại thái; nhật nguyệt hối rồi 
lại minh. Tiểu tiền đề: đất nước mất tự do, 
chìm trong xương máu sẽ đến ngày được 
hưởng thái bình là luận cứ ẩn. Tuy nhiên, 
điều cần nói đến trong lập luận này là 
nếu như đại tiền đề là quy luật logic của 
tự nhiên thì tiểu tiền đề cũng là quy luật 
nhưng đó lại là quy luật của chính nghĩa, 
của lẽ thường: đất nước mất tự do, chìm 
trong nô lệ nhưng nhờ dân tộc Đại Việt 
luôn luôn lấy nhân nghĩa làm gốc (Việc 
nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu 
phạt trước lo trừ bạo. Và Đem đại nghĩa 
để thắng hung tàn/ lấy chí nhân để thay 
cường bạo) nên dĩ nhiên Đại Việt được 
độc lập, thái bình. Kết luận được rút ra 
cũng dựa trên quy luật của cuộc sống, đó 
là quy luật đại nghĩa sẽ thắng hung tàn, 
do vậy mà: Đại Việt mãi mãi vững bền - 
Muôn thuở nền thái bình vững chắc, còn 
giặc Minh tàn bạo sẽ thất bại thảm hại, 
đó cũng là hệ quả tất yếu: chính nghĩa sẽ 
thắng phi nghĩa. Lập luận tam đoạn luận 
này chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt 
toàn bài cáo, là kết luận mà Nguyễn Trãi 
muốn công bố rộng khắp cho bốn phương 
đều biết.
2.2. Mạch lạc biểu hiện qua đặc điểm của 
các thành phần lập luận
Nghiên cứu đặc điểm của các thành 
phần lập luận, bài viết chú ý đến hình thức 
ngôn ngữ thể hiện luận cứ và kết luận theo 
cấu tạo ngữ pháp và theo mục đích nói
2.2.1. Đặc điểm của luận cứ
Về hình thức thể hiện luận cứ, xét theo 
mục đích nói, luận cứ có thể là câu tường 
thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu 
cảm thán, xét theo cấu tạo ngữ pháp, luận 
cứ có thể là thành phần câu, có thể là câu 
đơn, câu ghép, câu phức, câu đặc biệt, câu 
tỉnh lược, câu dưới bậc,... Đặc điểm này 
của luận cứ chỉ có trong văn bản nghệ 
thuật, VBNL mà không có trong văn bản 
hành chính, văn bản khoa học.
Ví dụ 6: Nguyễn Du bất mãn với chế 
độ quan liêu phong kiến, nhưng vẫn quyến 
luyến với ý thức hệ nhà nho: trung, hiếu, 
tiết, nghĩa. Mâu thuẫn giữa chữ tài chữ 
mệnh? Nguyễn Du giải quyết bằng chữ 
tâm! Vấn đề luyến ái? Cô Kiều quả đã có 
can đảm nghe lời gọi của trái tim và và bất 
chấp cả khuôn phép lễ giáo và tôn pháp 
của đạo Khổng. Nhưng tinh thần tranh đấu 
của Kiều chưa phải là ý thức tranh đấu của 
chủ nghĩa nữ quyền. Vấn đề hôn nhân? 
“Truyện Kiều” có những đoạn hùng hồn 
để tố khổ cho những người đàn bà lâm vào 
“cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng tố khổ 
chưa phải giải quyết vấn đề nữ quyền. Vấn 
71TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
đề hạnh phúc? Cảnh đoàn viên của cô 
Kiều trong đoạn “Hậu Kim Trọng” chỉ là 
tia sáng dìu dịu, hắt hiu trước bàn thờ cửa 
Phật, đâu phải là thức ăn của cõi người...
[7, tập I, tr. 350]
Ví dụ này được trích trong văn bản 
Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam 
qua nội dung “Truyện Kiều” của tác giả 
Đặng Thai Mai. Câu đầu tiên là một nhận 
định (kết luận): Nguyễn Du (...) vẫn quyến 
luyến với ý thức hệ nhà nho: trung, hiếu, 
tiết, nghĩa. Các câu tiếp theo dễ dàng nhận 
ra được đó là các luận cứ nhờ v ... thà hi sinh tất cả, chứ nhất định 
không chịu mất nước, nhất định không 
chịu làm nô lệ. “Không!” là câu đặc biệt 
phủ định có tác dụng tỏ rõ thái độ, quan 
điểm rõ ràng, dứt khoát của ta đối với thực 
dân Pháp, đồng thời hàm ý thể hiện quyết 
tâm bảo vệ độc lập chủ quyền. Dưới hình 
thức câu ghép khẳng định có cặp “thà... 
chứ”, kết luận càng được thể hiện một 
cách rõ ràng, đanh thép hơn. Hình thức 
cú pháp thể hiện kết luận ở ví dụ này rõ 
ràng có vai trò quan trọng trong việc thể 
hiện rõ nội dung và tình cảm, thái độ của 
tác giả, tạo được sự đồng lòng nhất trí 
trong hơn hai mươi triệu đồng bào ta lúc 
bấy giờ.
Có thể nói, ngôn ngữ thể hiện luận cứ 
và kết luận hết sức đa dạng xét theo cả 
mục đích nói lẫn cấu trúc cú pháp. Tùy 
theo nội dung lập luận mà tác giả lựa chọn 
hình thức của luận cứ và kết luận sao cho 
phù hợp. Hình thức thể hiện các thành 
phần của lập luận như các ví dụ dẫn trên 
đây đã thỏa mãn, đáp ứng được yêu cầu về 
đặc điểm ngôn ngữ và đặc trưng về tính 
lập luận chặt chẽ, tính truyền cảm mạnh 
mẽ của thể loại nghị luận, và như vậy các 
lập luận đó đã mạch lạc, đem lại sức hấp 
dẫn của VBNL.
2.3. Hiện tượng đa thanh trong lập luận 
ở văn bản nghị luận
Một đặc điểm nổi bật rất dễ nhận biết 
trong lập luận ở VBNL là hiện tượng đa 
thanh. Đa thanh trong lập luận ở VBNL 
thể hiện rõ quan điểm của tác giả nhằm 
mục đích tạo ấn tượng, tăng sức thuyết 
phục cho lập luận, thể hiện ở việc tác giả 
(thuyết ngôn) thường dẫn một câu nói, 
một quan điểm,... của chủ ngôn vào trong 
lập luận, lời của chủ ngôn có thể là đồng 
hướng hoặc nghịch hướng trong lập luận 
nào đó.
2.3.1. Hiện tượng đa thanh trong lập 
luận đồng hướng
Trong văn bản nghị luận, lời của chủ 
ngôn thường là những câu tục ngữ, châm 
ngôn, những chân lý đã được thừa nhận, 
những quan điểm chính trị, những câu nói 
của những nhân vật nổi tiếng, những nhận 
định về một vấn đề, một tác gia, một tác 
phẩm hay một nhân vật văn học nào đó. 
Những nhận định này của chủ ngôn chính 
là luận cứ đồng hướng với các luận cứ 
khác trong lập luận, được thuyết ngôn đưa 
vào để tăng tính xác thực cho luận cứ và 
tính thuyết phục cho kết luận. 
73TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
Trong các văn bản nghị luận xã hội, 
lập luận đa thanh thường gặp khi tác 
giả dẫn luận cứ là một câu châm ngôn, 
tục ngữ, một chân lý được thừa nhận, 
một câu chuyện về tấm gương đạo lý, 
hoặc là lời của một nhân vật nổi tiếng 
nào đó. Các văn bản như Hịch tướng sĩ, 
Bình Ngô đại cáo, Chiếu dời đô, Chiếu 
cầu hiền, Tuyên ngôn độc lập, Chuẩn bị 
hành trang vào thế kỷ mới... đều có lập 
luận đa thanh. 
Ví dụ 10: “Tất cả mọi người sinh ra 
đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ 
những quyền không ai có thể xâm phạm 
được; trong những quyền ấy, có quyền 
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu 
hạnh phúc”. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản 
“Tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của nước 
Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả 
các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình 
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, 
quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân 
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 
cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình 
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được 
tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi 
được. [8, tr. 85]
Lập luận trên là một tam đoạn luận, có 
đại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận hàm 
ẩn. Các thành phần của lập luận được hiểu 
như sau:
Đại tiền đề: Tất cả các dân tộc trên thế 
giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền 
tự do (Hai bản Tuyên ngôn của Pháp và 
Mĩ đã công nhận).
Tiểu tiền đề (hàm ẩn): Việt Nam là một 
dân tộc (một quốc gia) như tất cả các dân 
tộc (quốc gia) khác trên thế giới.
Kết luận (hàm ẩn): Việt Nam phải 
được công nhận và được hưởng quyền tự 
do, bình đẳng như các dân tộc (quốc gia) 
khác trên thế giới.
Tính đa thanh của lập luận này được thể 
hiện ở việc lựa chọn luận cứ (mà mỗi luận 
cứ lại là một lập luận). Hai luận cứ (đồng 
thời là hai lập luận) trên đều có cùng cách 
lập luận: từ luận cứ là một chân lý đã biết, 
đã được thừa nhận để rút ra kết luận. Cả 
hai luận cứ đều có (p) là lời của chủ ngôn 
(bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của 
nước Mĩ và bản Tuyên ngôn nhân quyền 
và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 
1791), được tác giả (thuyết ngôn) Hồ Chí 
Minh lựa chọn, sắp xếp hợp lý, logic, do 
đó, các kết luận trong hai lập luận trên có 
giá trị thuyết phục rất cao vì nó được rút ra 
trên cơ sở những dẫn chứng xác thực, hơn 
nữa lại là những chân lý, lẽ phải đã được 
thừa nhận. Rõ ràng, việc sử dụng luận cứ 
được viện dẫn trong ví dụ trên đã tạo được 
sự chặt chẽ, logic trong lập luận, tăng sức 
thuyết phục cho kết luận.
Các văn bản nghị luận thời trung đại 
như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, 
Chiếu dời đô, Chiếu cầu hiền,... thường mở 
đầu bằng các từ ngữ: từng/ thường nghe, 
xưa. Đây chính là cách dẫn lời chủ ngôn 
vào trong lập luận. Lời của chủ ngôn trong 
những văn bản này thường là những câu 
chuyện lịch sử, những tấm gương đạo đức, 
những câu nói của người xưa,...
Ví dụ 11: Ta thường nghe: Kỉ Tín đem 
mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do 
Vu chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu 
Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù 
cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn 
cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, 
thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế 
Sung,....[6, SGK Ngữ văn 8, tập 2, tr.55]
74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Các đoạn trích về lập luận ở các ví dụ 
trên đều dẫn lời của chủ ngôn. Lời của chủ 
ngôn trở thành những luận cứ đáng tin 
cậy, là cơ sở vững chắc cho kết luận bởi đó 
là những điều đã được thừa nhận là đúng 
và được ghi lại, được lưu truyền trong sử 
sách, trong dân gian. Và vì thế, kết luận 
rút ra dựa trên những luận cứ kiểu này sẽ 
giàu sức thuyết phục vì hợp với lẽ thường.
Trong các văn bản nghị luận văn học, 
chủ ngôn có thể là một nhà nghiên cứu, 
phê bình, một nhân vật nổi tiếng, hoặc một 
người nào đó mà không cần chỉ đích danh, 
và nhiều khi đó chính là lời của đối tượng 
được đề cập tới. Lập luận đa thanh được 
nhận biết qua sự xuất hiện của danh từ 
riêng hoặc các từ/ tổ hợp từ đứng đầu như: 
có người/ người ta/ nhiều người/có bạn/ 
nhiều bạn đọc và phê bình,... cho rằng/ 
nhận xét/ nói,... hoặc dưới con mắt/ dưới 
cái nhìn của...
Ví dụ 12: Go-rơ-ki nói: “Khi đọc 
Tôn-xtôi ta có cảm giác là các nhân vật 
có thật, có xương, có thịt... ta tưởng như 
nhìn thấy họ trước mắt ta, ta lấy tay sờ họ 
được”. Chúng ta đọc “Truyện Kiều” đều 
có chung một cảm giác ấy. Một bà cụ nông 
dân một hôm nói với tôi: “Nước Nam mình 
đẹp nhất có con Kiều. Mà khổ nhất cũng 
con Kiều. Thương nó quá”. Những nhà 
nho hoặc khinh ghét Kiều như Nguyễn 
Công Trứ, Huỳnh Thúc Kháng, hoặc yêu 
mến Kiều như Mộng Liên Đường, Chu 
Mạnh Trinh cũng đều xem Kiều là người 
có thật. Mộng Liên Đường viết: “Dẫu đời 
xa, người khuất không được mục kích tận 
nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu 
chảy đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên 
tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm 
thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. 
Còn Chu Mạnh Trinh thì có thể nói là 
không những say “Truyện Kiều”, say văn 
chương “Truyện Kiều” mà chính là say 
nàng Kiều y như say một giai nhân có 
thật. Con người ấy từ lâu đã sống trong 
lòng hàng triệu người và được quý trọng, 
được âu yếm, được yêu mến đến say mê. 
Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc đời và 
nhiều khi người ta đã quên không còn nhớ 
Kiều là người trong tiểu thuyết.[7, tập I, 
tr.320] 
Đây là một lập luận có tính đa thanh rất 
rõ. Lời của các chủ ngôn được thuyết ngôn 
(Hoài Thanh) dẫn hết sức phong phú: có lời 
của chủ ngôn trong nước (bà cụ nông dân, 
Mộng Liên Đường, Chu Mạnh Trinh), có 
lời của chủ ngôn ngoài nước (Go-rơ-ki); 
có chủ ngôn là người bình dân (bà cụ nông 
dân), có chủ ngôn là người nổi tiếng (Go-
rơ-ki, Mộng Liên Đường và Chu Mạnh 
Trinh). Lời của các chủ ngôn chính là các 
dẫn chứng xác thực, sinh động và giàu sức 
thuyết phục để thuyết ngôn hướng đến kết 
luận: Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc 
đời và nhiều khi người ta đã quên không 
còn nhớ Kiều là người trong tiểu thuyết 
bởi vì Kiều là nhân vật được xây dựng bởi 
một nghệ sĩ đại tài - Nguyễn Du. Rõ ràng, 
lập luận đa thanh khiến cho ngôn ngữ lập 
luận chặt chẽ mà vẫn sinh động, giàu cảm 
xúc; kết luận mang sức thuyết phục cao 
bởi nó được dẫn dắt bằng lý lẽ rõ ràng, 
sắc bén, logic, được chứng minh bằng dẫn 
chứng vô cùng sinh động nhưng xác đáng, 
tin cậy. 
Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý trong 
lập luận đa thanh giọng chồng giọng ở 
văn bản nghị luận văn học là trường hợp 
chủ ngôn chính là nhà văn, nhà thơ, nhân 
vật văn học được nói tới. Đây là lập luận 
đa thanh thường gặp nhất trong văn bản 
nghị luận văn học, bởi lẽ khi bàn về một 
75TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
tác gia, một tác phẩm hay vấn đề, nhân 
vật văn học nào đó thì tác giả nghị luận 
phải cảm, phải thấu hiểu từ tư tưởng, quan 
điểm sáng tác đến thành công và hạn chế 
của tác giả văn học, do đó, việc dẫn lời của 
chủ ngôn và coi đó là bằng chứng xác thực 
là một thao tác bắt buộc phải có trong văn 
bản nghị luận văn học. 
Ví dụ 13: Nhưng cái sức mạnh lớn 
nhất của thơ Tố Hữu chính là quả tim anh. 
Tố Hữu rất ít làm thơ tình. Nhưng thơ anh 
là thơ của một tình nhân. Anh đã nói các 
vấn đề bằng trái tim của một người say 
đắm. Anh nói về Bác:
“Chiều nay gió lộng nắng hanh,...
Nắng thơm rơm mới đồng quê gặt 
mùa”(...)
Anh viết về miền Nam:
“Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc,...
Một câu hò cũng đậm trong tim.
[7, tập III, tr.235]
Lập luận trong ví dụ 13 được tổ chức 
theo lối diễn dịch, kết luận nằm ở câu đầu, 
luận cứ ở các câu sau. Tính đa thanh của 
lập luận thể hiện ở chỗ các luận cứ đều 
lấy dẫn chứng trong các tác phẩm của Tố 
Hữu, nói cách khác thì phần được trích 
dẫn sau dấu hai chấm chính là lời của chủ 
ngôn. Thuyết ngôn trong lập luận kiểu này 
làm nhiệm vụ dẫn dắt lời của chủ ngôn sao 
cho hợp lý, logic để làm luận cứ tin cậy 
phục vụ cho kết luận.
2.3.2. Hiện tượng đa thanh trong lập 
luận nghịch hướng
Trong lập luận, thường xuất hiện sự 
tranh luận phản biện. Tính phản biện 
trong lập luận làm cho vấn đề bàn luận 
được nhìn đa chiều, ở nhiều góc độ, do đó 
kết luận rút ra mang tính thuyết phục hơn. 
Trong lập luận phản biện, phải có ít nhất 
hai luận cứ, trong đó một luận cứ của chủ 
ngôn, một luận cứ của thuyết ngôn. Nếu 
một lập luận có hai quan điểm trái ngược, 
xung đột nhau thì kết luận rút ra sẽ dựa 
vào luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh, và 
đó là luận cứ của thuyết ngôn. 
Ví dụ 14: Nguyên Ngọc coi “Sông 
Đà” như một cuốn tiểu thuyết và cho 
Nguyễn Tuân “đã nâng thể tùy bút, thể 
văn sở trường của anh lên một bước mới 
tạo thành như là một thứ ‘tùy bút tiểu 
thuyết”(Báo “Văn học” số 113, tr. 10). Có 
thể và có thật như vậy không?
Trước cách mạng, bên cạnh những 
tùy bút, Nguyễn Tuân cũng đã có thể viết 
truyện dài, truyện ngắn (như “Thiếu quê 
hương”, “Nhà bác Nguyễn”). Nhưng 
Nguyễn Tuân đã không thành công. Tiểu 
thuyết của anh vẫn mang nặng tính chất 
tùy bút: nhân vật không rõ nét, nhà văn 
luôn xen vào để phát biểu cảm nghĩ cá 
nhân. Sau cách mạng, không biết có phải 
do rút được kinh nghiệm cũ mà Nguyễn 
Tuân không viết tiểu thuyết không? Có thể 
sau này anh sẽ thành công trong thể tài 
đó. Nhưng cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn 
nổi bật là một nhà viết tùy bút. Và “Sông 
Đà” cũng là một tập tùy bút không hơn 
không kém. [7, tập V, tr. 149]
Trong lập luận này, thuyết ngôn (Nam 
Mộc) muốn rút ra kết luận (r): “Sông 
Đà” là một tập tùy bút. Đầu tiên, thuyết 
ngôn dẫn lời của chủ ngôn Nguyên Ngọc. 
Nhưng ngay sau đó, Nam Mộc lại đặt câu 
hỏi: Có thể và có thật như vậy không? Câu 
hỏi này có tác dụng định hướng lập luận, 
nó thể hiện sự hoài nghi về nhận xét của 
Nguyên Ngọc: “Sông Đà” như một cuốn 
tiểu thuyết - một thứ “tùy bút tiểu thuyết”. 
Nhận xét của chủ ngôn được thuyết ngôn 
dẫn ra với mục đích không phải là tìm 
76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
“đồng minh”, mà là dẫn dắt để đối chiếu 
với quan điểm của tác giả. Nam Mộc đã 
đưa ra dẫn chứng là các sáng tác trước 
cách mạng để thấy rằng Nguyễn Tuân 
không phải nhà viết tiểu thuyết, và khẳng 
định: cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn nổi 
bật là một nhà viết tùy bút và sau đó rút ra 
kết luận “Sông Đà” cũng là một tập tùy 
bút không hơn không kém. Như vậy, nhận 
xét ban đầu của Nguyên Ngọc (chủ ngôn) 
được Nam Mộc (thuyết ngôn) đưa ra để 
làm căn cứ phản bác lại, từ đó phân tích, 
chứng minh để rút ra kết luận. Rõ ràng, sử 
dụng lập luận đa thanh nghịch hướng giúp 
cho lập luận có ấn tượng và kết luận giàu 
sức thuyết phục.
Có thể nói đa thanh trong lập luận 
thường xuyên xuất hiện ở văn bản nghị 
luận, đó có thể là đa thanh lập luận đồng 
hướng hay đa thanh lập luận nghịch 
hướng. Đa thanh trong lập luận là một 
phương tiện rất “lợi hại”, có tác dụng cao 
trong các lập luận, tranh biện. Đa thanh 
trong lập luận có thể nói đã trở thành thói 
quen trong lập luận ở VBNL.
3. KẾT LUẬN
Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở 
VBNL được thể hiện rõ rệt qua các phương 
diện như kiểu lập luận, đặc điểm của các 
thành phần lập luận và tính đa thanh trong 
lập luận. Muốn cho nội dung lập luận được 
thể hiện rõ ràng mạch lạc, thuyết phục thì 
tác giả lập luận phải lựa chọn được kiểu 
lập luận sao cho phù hợp nhất. Đó là lập 
luận diễn dịch là hình thức tổ chức lập 
luận phù hợp với các lập luận chỉ có luận 
cứ đồng hướng và các tam đoạn luận; lập 
luận quy nạp phù hợp với các lập luận có 
luận cứ nghịch hướng và lập luận mang 
tính phản biện;... Đồng thời, lập luận phải 
lựa chọn được hình thức thể hiện luận cứ, 
kết luận đa dạng, sinh động mà phù hợp 
cùng với ngôn từ giàu hình ảnh và sắc 
thái biểu cảm. Bên cạnh đó, hiện tượng 
đa thanh xuất hiện thường xuyên trong lập 
luận sẽ giúp cho lập luận vừa có sự mạch 
lạc rõ ràng, thuyết phục lại vừa tạo được 
sự hấp dẫn. Có thể nói, chính mạch lạc 
trong quan hệ lập luận ở VBNL có vai trò 
quan trọng trong việc thể hiện tính truyền 
cảm mạnh mẽ và tính thuyết phục của loại 
văn bản này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (2002), Giao tiếp. Văn 
bản. Mạch lạc. Liên kết. Đoạn văn, Nxb KHXH, 
Hà Nội. 
2. Đỗ Hữu Châu (2002), Đại cương ngôn ngữ 
học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội 
3. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, 
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Hữu Đạt, (2011), Phong cách học tiếng Việt 
hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam.
5. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt 
ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Sách giáo khoa Ngữ văn (lớp 7, 8, 9, 10, 11, 
12, tập 1+2) (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Đỗ Quang Lưu (tuyển chọn và giới thiệu), 
Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc, tập 
I + II + III + IV + V + VI (2000), Nxb Hà Nội.
8. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu), 
Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh (1997), 
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Mai Quốc Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ 
biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển V (2003), 
Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày 
18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày 13/6/2017. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_cua_mach_lac_trong_quan_he_lap_luan_o_van_ba.pdf