Chi ngân sách nhà nước cho giảm nghèo: Vấn đề và giải pháp

Thực trạng nghèo ở Việt Nam*

Năm 2010, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm

các nước kém phát triển và gia nhập nhóm

các nước đang phát triển có mức thu nhập

trung bình thấp theo tiêu chuẩn của Ngân

hàng Thế giới, mặc dù vậy tỷ lệ hộ nghèo

vẫn còn cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm

2010, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,2%

theo chuẩn nghèo mới1. Tỷ lệ hộ nghèo giữa

các vùng có sự chênh lệch khá lớn: Đông

Nam Bộ là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo thấp

nhất (2,3%), vùng Trung du và miền núi

phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất (29,4%)

(Bảng 1). Điện Biên là tỉnh có tỷ lệ hộ

nghèo lớn nhất cả nước, chiếm 50,9% tổng

số hộ của tỉnh; các tỉnh Lào Cai, Hà Giang,

Cao Bằng, Lai Châu đều có tỉ lệ nghèo từ

40-50%. Ba tỉnh, thành có tỷ lệ hộ nghèo

dưới 5% là Thành phố Hồ Chí Minh (0,3%),

Bình Dương (0,5%), Đồng Nai (3,7%). Cả

nước có 81 huyện thuộc 25 tỉnh có tỷ lệ hộ

nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện

nghèo theo Nghị quyết 30A/2008/NQ-CP

của Chính phủ.

pdf 6 trang yennguyen 1000
Bạn đang xem tài liệu "Chi ngân sách nhà nước cho giảm nghèo: Vấn đề và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chi ngân sách nhà nước cho giảm nghèo: Vấn đề và giải pháp

Chi ngân sách nhà nước cho giảm nghèo: Vấn đề và giải pháp
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 
CHO GIẢM NGHÈO: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 
 LÊ ANH VŨ* 
Thực trạng nghèo ở Việt Nam* 
Năm 2010, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm 
các nước kém phát triển và gia nhập nhóm 
các nước đang phát triển có mức thu nhập 
trung bình thấp theo tiêu chuẩn của Ngân 
hàng Thế giới, mặc dù vậy tỷ lệ hộ nghèo 
vẫn còn cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 
2010, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,2% 
theo chuẩn nghèo mới1. Tỷ lệ hộ nghèo giữa 
các vùng có sự chênh lệch khá lớn: Đông 
Nam Bộ là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo thấp 
nhất (2,3%), vùng Trung du và miền núi 
phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất (29,4%) 
(Bảng 1). Điện Biên là tỉnh có tỷ lệ hộ 
nghèo lớn nhất cả nước, chiếm 50,9% tổng 
số hộ của tỉnh; các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, 
Cao Bằng, Lai Châu đều có tỉ lệ nghèo từ 
40-50%. Ba tỉnh, thành có tỷ lệ hộ nghèo 
dưới 5% là Thành phố Hồ Chí Minh (0,3%), 
Bình Dương (0,5%), Đồng Nai (3,7%). Cả 
nước có 81 huyện thuộc 25 tỉnh có tỷ lệ hộ 
nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện 
nghèo theo Nghị quyết 30A/2008/NQ-CP 
của Chính phủ. 
Bảng 1: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo vùng (%) 
Vùng 2004 2006 2008 2010 
Cả nước 18,1 15,5 13,4 14,2 
Đồng bằng sông Hồng 12,7 10,0 8,6 8,3 
Trung du và miền núi phía 
Bắc 
29,4 27,5 25,1 29,4 
Bắc Trung Bộ và Duyên hải 
miền Trung 
25,3 
22,2 19,2 20,4 
Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 22,2 
Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 2,3 
Đòng bằng song Cửu Long 15,3 13,0 11,4 12,6 
Nguồn: Niên giám Thống kê 2010. Nhà xuất bản 
Thống kê - Hà Nội, 2011 
* TS. Viện Phát triển bền vững vùng Bắc Bộ 
Bảng 1 cho thấy, sự chênh lệch nghèo 
giữa các vùng vẫn tiếp tục xu hướng gia 
tăng. Năm 2004, vùng Trung du và miền núi 
phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất 
(29,4%), cao gấp 6,4 lần vùng có tỷ lệ hộ 
nghèo thấp nhất là Đông Nam Bộ (4,6%). 
Đến năm 2010, khoảng cách này đã tăng lên 
12,8 lần. Trong giai đoạn 2004 - 2010 trừ 
vùng Trung du và miền núi phía Bắc tỷ lệ hộ 
nghèo không giảm, còn các vùng khác tỷ lệ 
hộ nghèo đều có xu hướng giảm nhưng mức 
giảm khác nhau, trong đó: Đồng bằng sông 
Hồng giảm 4,1%, Bắc Trung Bộ và Duyên 
Hải miền Trung giảm 6,1%, Tây Nguyên 
giảm 8,2%, Đông Nam Bộ giảm 2,1%, Đồng 
bằng sông Cửu Long giảm 3,9%. 
Bảng 1 phản ánh bức tranh sinh động về 
phân bố nghèo đói theo vùng lãnh thổ ở nước 
ta hiện nay, trong đó tiêu điểm đáng chú ý của 
bức tranh này là người nghèo sinh sống chủ 
yếu ở các vùng điều kiện tự nhiên khó khăn 
như vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa hay hải 
đảo, bãi ngang ven biển. Đây là những vùng 
khan hiếm nguồn lực phát triển, biệt lập về 
mặt địa lý, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, 
thiên tai thường xuyên xảy ra, hệ thống kết 
cấu hạ tầng cơ sở kém phát triển, điều kiện 
tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản và thị 
trường khó khăn, vì vậy giảm nghèo khó 
khăn. Trong nhiều năm qua, các vùng này có 
tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với tốc 
độ trung bình của cả nước và đặc biệt là tăng 
trưởng kém bền vững. Điều đó đã trở thành 
lực cản kéo tốc độ giảm nghèo chững lại trong 
những năm gần đây, khiến khoảng cách chênh 
lệch giàu nghèo đều đặn dãn ra. Cùng với sự 
phân hóa thu nhập giữa các nhóm dân cư thì 
khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn - 
thành thị, giữa các vùng cũng đang có xu 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
38 
hướng gia tăng, ảnh hưởng đến phát triển bền 
vững, gây bất ổn xã hội. 
Thực trạng chi ngân sách nhà nước cho 
giảm nghèo và những vấn đề đặt ra 
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn 
định, tạo điều kiện để tăng nguồn ngân sách 
đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, xây dựng 
nền tảng vật chất để người nghèo, vùng 
nghèo vươn lên. Theo Ngân hàng Thế giới, 
GDP tăng thêm 1% kéo theo giảm 1,3% hộ 
nghèo, cao hơn nhiều so với mức trung bình 
trên thế giới. Ngân sách nhà nước đầu tư cho 
giảm nghèo nhằm vào các mục tiêu cơ bản 
như: Xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao 
thông, điện, thủy lợi, trường học...); cải 
thiện hệ thống an sinh xã hội; mang lại cơ 
hội tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, nước 
sạch; đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng 
làm việc; cung cấp các chương trình tín 
dụng vi mô cho người nghèo v.v... 
Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho 
xóa đói giảm nghèo thực hiện theo hệ thống 
định mức chi thường xuyên và chi đầu tư thống 
nhất trên phạm vi cả nước. Hệ thống định mức 
này bao hàm yếu tố nghèo nhằm hướng luồng 
ngân sách đến các vùng nghèo, người nghèo. 
Cụ thể, vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng 
xa, vùng dân tộc thiểu số được hưởng các 
chính sách ưu tiên đầu tư từ nguồn ngân sách 
nhà nước qua hệ số tính toán chi thường xuyên 
và chi đầu tư phát triển (Bảng 2). 
Bảng 2. Hệ số định mức phân bổ chi thường 
xuyên của một số lĩnh vực giai đoạn 2007 - 2010 
 Đô 
thị 
Đồng 
bằng 
Miền 
núi 
Vùng 
cao 
Chi sự nghiệp giáo dục 0,85 1,00 1,23 1,72 
Chi sự nghiệp đào tạo và 
dạy nghề 
0,90 1,00 1,30 1,80 
Chi sự nghiệp y tế 0,74 1,00 1,28 1,77 
Chi Quản lý hành chính, 
Đảng, đoàn thể 
1,09 1,00 1,44 1,74 
Chi sự nghiệp văn hoá 
thông tin 
0,91 1,00 1,38 1,92 
Chi sự nghiệp phát thanh 
truyền hình 
0,90 1,00 1,35 1,80 
Chi sự nghiệp thể dục thể 
thao 
1,42 1,00 1,15 1,56 
Chi sự nghiệp đảm bảo xã 
hội 
0,92 1,00 1,33 1,56 
Chi quốc phòng 1,00 1,00 1,10 1,34 
Chi an ninh 1,32 1,00 1,12 1,32 
Nguồn: Bộ Tài chính 
Cơ chế phân bổ ngân sách hiện nay đối 
với chi thường xuyên quy định vùng có tỷ lệ 
hộ nghèo cao sẽ có hệ số phân bổ chi thường 
xuyên cao hơn vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp 
hơn. Theo đó, các vùng khó khăn như vùng 
miền núi và vùng cao có hệ số định mức chi 
thường xuyên cao hơn vùng đồng bằng và 
đô thị, đặc biệt một số lĩnh vực có hệ số định 
mức chênh lệch gần 2 lần như văn hóa thông 
tin, y tế, giáo dục. 
Cơ chế phân bổ vốn đầu tư phát triển từ 
nguồn ngân sách nhà nước hiện hành thể 
hiện quan điểm hướng đến người nghèo. 
Một số tiêu chí chung như: diện tích tự 
nhiên, dân số, dân tộc, trình độ phát triển, số 
đơn vị hành chính... là cơ sở để tính điểm 
cho các địa phương2, số điểm là căn cứ phân 
bổ vốn đầu tư phát triển, địa phương có số 
điểm cao sẽ được đầu tư nhiều hơn. Cách 
phân bổ chi đầu tư phát triển như trên đã bao 
hàm sự ưu tiên cho vùng nghèo3, tuy nhiên 
những quy định này chưa rõ ràng, thiếu chặt 
chẽ và có nhiều điểm không sát với thực tế, 
cách tính toán phức tạp gây khó khăn cho 
các địa phương khi vận dụng vào thực tế. 
Cách phân bổ trên không loại trừ được yếu 
tố bất bình đẳng giữa các địa phương trong 
tiếp cận nguồn ngân sách. 
Giai đoạn 2001 - 2010, ngân sách nhà 
nước chi cho giảm nghèo tập trung vào 3 
chương trình trọng điểm: (i) Chương trình 
mục tiêu quốc gia về giảm nghèo (ii) 
Chương trình 135 và (iii) Chương trình giảm 
nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện 
nghèo. Theo Bộ Tài chính, ngân sách chi 
cho các chương trình mục tiêu quốc gia 
ngày càng tăng. Năm 2009, khoản chi này 
tăng gấp 9 lần so với năm 1998, chỉ tính giai 
đoạn 2006 - 2010, tổng ngân sách trung 
ương dành cho Chương trình mục tiêu quốc 
gia giảm nghèo là 1.874,5 tỷ đồng. 
Trong 5 năm (2006 - 2010) ngân sách nhà 
nước đầu tư cho Chương trình mục tiêu quốc 
gia giảm nghèo tăng 5,5 lần, cung cấp nguồn 
lực tài chính quan trọng cho giảm nghèo. 
Ngân sách chi cho Chương trình mục tiêu 
Chi ngân sách nhà nước 39 
quốc gia tập trung vào thực hiện các nhiệm 
vụ của chương trình, như: ưu đãi tín dụng, hỗ 
trợ đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu 
số, hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cơ 
sở của các xã đặc biệt khó khăn, các xã bãi 
ngang ven biển, các xã ở hải đảo, hỗ trợ sản 
xuất, đào tạo nghề cho người nghèo, xây 
dựng mô hình giảm nghèo, khuyến nông, 
khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển ngành 
nghề ở các xã nghèo, hỗ trợ nhà ở và nước 
sinh hoạt, trợ giúp pháp lý cho người nghèo, 
đào tạo bồi dường cán bộ làm công tác xoá 
đói giảm nghèo, phát triển y tế, giáo 
dục.v.v... Giai đoạn 2006 - 2010, cả nước có 
273 xã đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven 
biển, hải đảo được đầu tư cơ cở hạ tầng như 
trạm điện, trường học, công trình thuỷ lợi 
nhỏ, đường dân sinh, chợ, nước sinh hoạt với 
khoảng 2.500 công trình, bình quân đạt 9,15 
công trình/xã. Chi ngân sách nhà nước cho 
giảm nghèo đã có ảnh hưởng quan trọng đối 
với xã hội, thông qua Chương trình mục tiêu 
quốc gia giảm nghèo đã mang lại nguồn lực 
cho các vùng nghèo duy trì tốc độ tăng 
trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện 
đời sống của người nghèo. 
Hình 1. Kinh phí ngân sách Nhà nước cho 
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai 
đoạn 2006 - 2010 (tỷ đồng) 
Nguồn: Bộ Tài chính 
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm 
nghèo không áp dụng một tiêu chí chung 
cho cả chương trình mà mỗi hợp phần có 
một tiêu chí phân bổ riêng. Đối với dự án 
khuyến nông - lâm - ngư, căn cứ để phân bổ 
ngân sách là số hộ nghèo; dự án dạy nghề 
căn cứ số người nghèo trong độ tuổi lao 
động chưa qua đào tạo nghề để bố trí kinh 
phí; phân bổ ngân sách của dự án xây dựng 
kết cấu hạ tầng cơ sở căn cứ vào số xã được 
phê duyệt và mức vốn đầu tư bình quân 
hàng năm.v.v... Xây dựng hệ tiêu chí riêng 
cho từng dự án hợp phần của chương trình 
làm căn cứ phân bổ ngân sách cho các địa 
phương là cần thiết, nhưng hệ thống tiêu chí 
này dường như chưa gắn cụ thể với thực tế, 
còn hàm chứa những yếu tố bất hợp lý nên 
giá trị không cao. 
Mặc dù, các tiêu chí phân bổ ngân sách 
đã hướng nguồn ngân sách đến hộ nghèo, 
vùng nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp 
cận nguồn ngân sách, nhưng nói chung các 
tiêu chí còn quá tham vọng, dựa vào ý chí 
chủ quan là chính, chưa dựa vào nhu cầu của 
người nghèo để xây dựng tiêu chí. Chẳng 
hạn, đối với dự án khuyến nông - lâm - ngư, 
lấy số hộ nghèo làm căn cứ để phân bổ ngân 
sách là bất hợp lý, bởi vì không phải hộ 
nghèo nào cũng có nhu cầu khuyến nông - 
lâm - ngư. Hoặc, dự án dạy nghề cho người 
nghèo căn cứ vào số người nghèo trong độ 
tuổi lao động chưa qua đào tạo nghề để bố 
trí kinh phí cũng không có cơ sở vững chắc. 
Bởi vì, không phải người nghèo nào trong 
độ tuổi lao động chưa qua đào tạo cũng có 
nhu cầu học nghề và có khả năng học được 
nghề. Mặt khác, cách phân bổ ngân sách như 
trên có nguy cơ loại bỏ những người nghèo 
đã qua đào tạo nhưng muốn học nghề mới 
để đổi nghề và những người nghèo ngoài độ 
tuổi lao động có nhu cầu học nghề. Do thiếu 
hệ thống tiêu chí rõ ràng nên nguồn lực của 
chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo 
không được phân bổ tới những vùng cần 
được ưu tiên, khiến cho chủ trương thu hẹp 
dần chênh lệch nghèo đói các vùng phần nào 
bị méo mó. 
Trong 3 năm (2006 - 2008), ngân sách 
nhà nước chi cho Chương trình 135 là 
141.5
221.9
333.1
398
780
0 200 400 600 800 1000
2006
2007
2008
2009
2010
Kinh phí đã thực hiện
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
40 
7249,14 tỷ đồng, trong đó dành cho phát 
triển cơ sở hạ tầng chiếm chủ yếu (64,7%), 
hỗ trợ cải thiện đời sống (17,4%), hỗ trợ 
phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho 
người nghèo (12,0%). Tuy nhiên, Chương 
trình 135 vẫn tập trung đầu tư cho các dự án 
nhỏ xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho 
các xã, thôn đặc biệt khó khăn. (Bảng 3) 
Bảng 3. Phân bổ ngân sách nhà nước cho 
Chương trình 135-II giai đoạn 2006 - 2008 
Các dự án (DA)/chính 
sách 
Phân bổ từ trung 
ương 2006 - 2008 
(tỷ đồng) 
% 
DA phát triển SX và Kinh 
doanh 
871,43 12,0 
DA phát triển CSHT 4692,38 64,7 
DA đào tạo tăng cường 
năng lực 
292,69 4,0 
Chính sách cải thiện sinh 
kế 
1259,76 17,4 
Vận hành và bảo dưỡng 112,00 1,5 
Hỗ trợ Ban chỉ đạo 20,88 0,3 
Tổng số 7249,14 100 
Nguồn: Ban chỉ đạo Chương trình 135, Ủy ban 
Dân tộc 
Tiêu chí phân bổ ngân sách của Chương 
trình ở cấp trung ương và cấp tỉnh được 
xây dựng một cách độc lập. Ngân sách 
Trung ương phân bổ cho các xã 135 theo 
một mức thống nhất, không phân biệt vị trí 
địa lý, tỷ lệ nghèo đói cao hay thấp. Theo 
quy định, các tỉnh tự xây dựng hệ tiêu chí 
phân bổ ngân sách riêng làm cơ sở phân bổ 
ngân sách cho các xã 135 trên địa bàn tỉnh. 
Điều này tạo ra sự khác nhau về tiêu chí 
của mỗi tỉnh nhưng nhìn chung các hợp 
phần dự án ở các tỉnh có tiêu chí phân bổ 
ngân sách tương đối giống nhau. Trong khi 
dự án hỗ trợ đời sống dựa trên nhu cầu để 
phân bổ ngân sách thì dự án hỗ trợ sản 
xuất lại căn cứ số lượng người nghèo của 
xã, thôn; dự án xây dựng kết cấu hạ tầng 
cơ sở căn cứ số điểm của xã, thôn để phân 
bổ (cách tính điểm dựa vào diện tích, 
khoảng cách tới trung tâm huyện, dân số, 
dân tộc, tỷ lệ hộ nghèo.v.v...). 
Cơ chế phân bổ ngân sách của Chương 
trình 135 còn thể hiện tư tưởng bình quân 
chủ nghĩa, phân bổ ngân sách theo nguyên 
tắc cào bằng. Việc phân bổ nguồn lực không 
dựa trên nguyên tắc lấy nhu cầu của các xã, 
thôn và người nghèo làm cơ sở; chương 
trình đã bỏ qua nhiều yếu tố liên quan đến 
người nghèo, như: tỷ lệ hộ nghèo, qui mô 
dân số, tình trạng kết cấu hạ tầng cơ sở của 
các xã, thôn, chưa gắn với các mục tiêu định 
hướng của chương trình là người nghèo, 
vùng nghèo cũng như chưa gắn với kết quả 
đầu ra, với tác động cần đạt được của 
chương trình. Ngoại trừ các dự án hỗ trợ sản 
xuất, hỗ trợ đời sống hướng tới đối tượng 
hưởng lợi trực tiếp là người nghèo, còn dự 
án phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở mặc dù 
chiếm tỷ lệ lớn nguồn ngân sách nhưng 
không trực tiếp hỗ trợ người nghèo. Hơn 
nữa, do phần lớn các xã 135 rất rộng, địa 
hình phức tạp nên các dự án thường tập 
trung ở trung tâm xã nhằm giảm chi phí dẫn 
đến các thôn nghèo nhất có thể không được 
đầu tư, tạo ra sự bất bình đẳng ngay trong 
phạm vi một xã. 
Cơ cấu nguồn vốn của Chương trình 
giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 
huyện nghèo rất đa dạng, bao gồm vốn ngân 
sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, vốn tín 
dụng đầu tư, vốn ODA, vốn đóng góp cộng 
đồng trong đó vốn ngân sách nhà nước 
chiếm tỷ lệ lớn, riêng năm 2010 ngân sách 
Trung ương phân bổ cho chương trình là 
1.768 tỷ đồng. Nguồn vốn chương trình 
được phân bổ dựa theo nhu cầu của các địa 
phương, tập trung vào các mục tiêu: (i) Hỗ 
trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập 
(bao gồm cả đưa người lao động ở huyện 
nghèo đi lao động ở nước ngoài; (ii) Đào 
tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; (iii) Bổ sung 
nguồn lực con người ở các cấp quản lý và 
các tổ công tác; (iv) Đầu tư cơ sở hạ tầng ở 
cả cấp thôn/bản, xã, huyện. Chương trình 
còn hỗ trơ ̣người nghèo về nhà ở, hỗ trơ ̣gaọ 
cho hô ̣nghèo thôn, bản biên giới, hỗ trợ các 
xã, thôn xây dựng đường giao thông, công 
trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. 
Chi ngân sách nhà nước 41 
Những phân tích trên đây cho thấy, ngân 
sách nhà nước đóng vai trò quan trọng đối 
với giảm nghèo, cơ chế phân bổ ngân sách 
hiện nay đã phủ được hầu hết các đối tượng 
hưởng thụ, hỗ trợ người nghèo nâng cao 
năng lực tiếp cận các dịch vụ cơ bản, đồng 
thời cải thiện điều kiện sản xuất theo hướng 
tạo cơ hội cho người nghèo tham gia các 
hoạt động kinh tế, tăng thêm thu nhập. Tuy 
nhiên, việc phân bổ ngân sách chưa gắn chặt 
chẽ với mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội 
nên đã tạo ra bất bình đẳng giữa các địa 
phương, ảnh hưởng đến mục tiêu giảm 
nghèo bền vững. 
Đổi mới chi ngân sách nhà nước nhằm 
giảm nghèo bền vững 
Để tăng cường hiệu quả chi ngân sách 
hướng đến giảm nghèo bền vững, trong 
những năm tới cần thực hiện một số giải 
pháp sau: 
Tái cơ cấu chi ngân sách nhà nước 
hướng vào người nghèo, vùng nghèo: Cơ 
cấu chi ngân sách nhà nước cần được điều 
chỉnh giữa tỉnh giàu và tỉnh nghèo, giữa các 
xã và giữa các thôn trong phạm vi một xã. 
Điều chỉnh chi ngân sách giữa các tỉnh giàu 
và các tỉnh nghèo nhằm khắc phục tình trạng 
bất bình đẳng giữa các tỉnh do cơ chế phân 
bổ nguồn ngân sách hiện hành tạo ra, đó là: 
chi thường xuyên tập trung cho những tỉnh 
nghèo nhất nhưng chi đầu tư lại có xu hướng 
tập trung cho những tỉnh giàu nhất. Cơ chế 
phân bổ ngân sách phải đảm bảo duy trì mức 
tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng cơ 
chế phân bổ ngân sách cũng đồng thời phải 
đảm bảo để người nghèo được hưởng lợi 
nhiều từ các thành quả tăng trưởng, có nghĩa 
là tăng trưởng phải thực sự tác động đến 
giảm nghèo. Nguồn lực phân bổ tập trung 
cho các tỉnh giàu có thể đẩy nhanh tốc độ 
tăng trưởng kinh tế cao hơn nhưng cũng 
chứa đựng nguy cơ làm cho khoảng cách 
giàu nghèo giữa các tỉnh lớn hơn và giảm 
nghèo sẽ vì thế thiếu bền vững. 
Tái cơ cấu chi ngân sách nhà nước hướng 
nhiều đến mục tiêu giảm nghèo còn phải 
giải quyết một loạt vấn đề liên quan như ưu 
tiên nhiều hơn ngân sách cho các loại dịch 
vụ công nhằm tạo cơ hội lớn hơn cho người 
nghèo tiếp cận các dịch vụ này như giáo 
dục, y tế, đào tạo nghề. Phân bổ ngân sách 
cần ưu tiên cho việc cấp thẻ bảo hiểm y tế 
miễn phí cho người nghèo, người cận nghèo 
và phát triển hệ thống giáo dục, y tế ở cấp 
xã, thôn để người nghèo có cơ hội tiếp cận 
lớn hơn. Cần tăng cường nguồn kinh phí từ 
ngân sách nhà nước hỗ trợ có hiệu quả học 
sinh nghèo thông qua chính sách miễn giảm 
học phí và các chính sách hỗ trợ khác như 
hỗ trợ bữa ăn cho học sinh nghèo nhà ở xa 
trường lớp. 
Điều kiện đảm bảo thực hiện thành công 
tái cơ cấu chi ngân sách hướng đến giảm 
nghèo bền vững là giao quyền hạn nhiều hơn 
cho chính quyền địa phương trong việc cung 
cấp các dịch vụ công trên cơ sở phân cấp 
mạnh về ngân sách, tạo điều kiện cho chính 
quyền địa phương cung cấp dịch vụ xã hội tốt 
hơn. Thực tế cho thấy, Luật Ngân sách đã 
cho chính quyền cấp tỉnh có nhiều quyền hạn 
trong phân bổ ngân sách cho chính quyền các 
cấp thấp hơn. Nhưng nếu chính quyền cấp 
tỉnh không có cơ chế đảm bảo công bằng 
trong phân bổ chi ngân sách nhà nước cho 
xóa đói giảm nghèo giữa tỉnh, huyện và xã 
thì tình trạng bất bình đẳng trong phân bổ 
ngân sách vẫn chưa được cải thiện. Do đó, 
các tỉnh cần xây dựng cơ chế phân cấp ngân 
sách hợp lý giữa các cấp chính quyền trong 
tỉnh nhằm đảm bảo phân bổ ngân sách nhà 
nước hướng đến người nghèo. 
Cần tiến hành song song việc phân cấp 
ngân sách cho chính quyền địa phương các 
cấp với thực hiện có hiệu quả chế độ kiểm 
tra, giám sát bao gồm cả giám sát của cộng 
đồng, đảm bảo chi tiêu ngân sách được công 
khai, minh bạch, đúng mục đích, đối tượng. 
Chính quyền địa phương với lợi thế gần dân 
nên có khả năng cung cấp dịch vụ xã hội 
phù hợp với yêu cầu của người dân, đúng 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
42 
đối tượng thụ hưởng, tăng hiệu quả cung cấp 
các dịch vụ công, hạn chế tình trạng lãng phí 
nguồn lực nhưng năng lực của chính quyền 
địa phương còn yếu kém, do đó cần có chính 
sách hỗ trợ nâng cao năng lực cho chính 
quyền địa phương. 
Ngoài việc tiếp tục đầu tư ngân sách cho 
các ngành, các lĩnh vực có khả năng tạo 
nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người 
nghèo; để giải quyết những vấn đề bức xúc 
hiện nay cần ưu tiên phân bổ ngân sách cho 
các lĩnh vực có tác động lan tỏa rộng như 
nghiên cứu ứng dụng và triển khai, chuyển 
giao công nghệ sinh học, xây dựng quan hệ 
đối tác cho người nghèo.v.v... giúp người 
nghèo có cơ hội tham gia các chuỗi cung 
ứng toàn cầu và tăng cường vốn xã hội, vốn 
con người cho người nghèo, hướng tới giảm 
nghèo bền vững. 
Điều chỉnh cơ chế phân bổ ngân sách nhà 
nước cho ngân sách tỉnh: Như đã phân tích, 
hệ thống tiêu chí phân bổ ngân sách nhà 
nước cho chương trình giảm nghèo còn 
nhiều điểm mâu thuẫn và bất hợp lý. Một hệ 
thống tiêu chí đưa ra quá nhiều và phức tạp 
làm cho các tỉnh gặp khó khăn khi vận dụng 
vào thực tiễn, hệ thống này cũng bỏ sót 
nhiều tiêu chí quan trọng dẫn đến làm sai 
lệch mục tiêu phân bổ ngân sách nhà nước 
cho giảm nghèo. Vì vậy, cần chuẩn hóa lại 
các tiêu chí, chú trọng những tiêu chí quan 
trọng liên quan đến người nghèo, vùng 
nghèo như mức thu nhập bình quân đầu 
người, mức độ và tỷ lệ nghèo đói của các địa 
phương nhằm tăng cường ngân sách cho 
người nghèo nhất và vùng nghèo nhất. Các 
tỉnh cần thiết kế hệ thống chỉ tiêu phân bổ 
ngân sách một cách đơn giản, rõ ràng, chặt 
chẽ sát với thực tế, tránh trùng lặp và phiến 
diện, xóa bỏ cơ chế "bình quân" trong phân 
bổ ngân sách cho giảm nghèo. 
Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho 
các cơ sở cung cấp dịch vụ công 
Hiện nay, ngân sách nhà nước chi cho các 
cơ sở cung cấp dịch vụ công dựa trên các 
chỉ tiêu đầu vào, không dựa vào kết quả đầu 
ra và chất lượng của dịch vụ, do đó chất 
lượng và hiệu quả các dịch vụ không cao là 
điều dễ hiểu. Để khắc phục tình trạng này, 
cần chuyển cơ chế hỗ trợ gián tiếp thông qua 
các cơ sở cung ứng dịch vụ công sang hỗ trợ 
trực tiếp cho người nghèo. 
__________________ 
Chú thích 
1. Hộ nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân 
từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu 
đồng/người/năm) trở xuống; Hộ nghèo ở thành thị 
có mức thu nhập bình quân từ 500.000 
đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở 
xuống; Hộ cận nghèo ở nông thôn có mức thu nhập 
bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 
đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị có mức 
thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 
đồng/người/tháng. 
2,3. Ví dụ, những tỉnh có dân tộc ít người được cộng 
thêm 1 điểm/100.000 người dân tộc thiểu số, tương tự 
cứ 10% tỷ lệ hộ nghèo được tính thêm 1 điểm .v.v 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2006. Xóa 
đói, giảm nghèo theo hướng phát triển bền vững, 
Tạp chí Cộng sản, Hà Nội. 
2. Quyết định 139/2003/QĐ-TTg và Quyết định 
151/2006/QĐ-TTg về việc ban hành định mức phân 
bổ dự toán chi thường xuyên giai đoạn 2004 - 2006 
và giai đoạn 2007 - 2010. 
3. Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 
năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê 
duyệt Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã 
đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền 
núi giai đoạn 2006 - 2010. 
4. Tổng cục Thống kê, 2007. Báo cáo kết quả khảo 
sát mức sống hộ gia đình năm 2006, Hà Nội. 
5. UNDP, 2009. Rà soát tổng quan các chương trình 
dự án giảm nghèo ở Việt Nam. 
6. Việt Nam quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và 
giảm nghèo bền vững. Báo cáo chung của Chính phủ 
Việt Nam và Ngân hàng Thế giới, tháng 4/2005. 
7. Phạm Bảo Dương, 2010. Một vài suy nghĩ đổi 
mới cơ chế thực hiện chính sách giảm nghèo. Tạp 
chí Kinh tế và Dự báo, tháng 8. 

File đính kèm:

  • pdfchi_ngan_sach_nha_nuoc_cho_giam_ngheo_van_de_va_giai_phap.pdf