Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Các Văn kiện Ðại hội lần thứ VII,

VIII, IX của Ðảng và nhiều Chỉ thị,

Nghị quyết Hội nghị Trung ương trong

các nhiệm kỳ nói trên đều thể hiện một

chiến lược nhất quán đối với nông

nghiệp, nông dân, nông thôn; từng bước

xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của

việc phát triển toàn diện kinh tế nông

thôn và xây dựng nông thôn mới.**

Ðại hội X của Ðảng đã nhấn mạnh:

hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề

nông nghiệp, nông dân, nông thôn có

tầm chiến lược đặc biệt quan trọng.

Nghị quyết 26-NQ/TƯ ngày 5/8/2008

của Ban Chấp hành Trung ương về

“nông nghiệp, nông dân, nông thôn” chỉ

rõ: một trong những nguyên nhân của

tình hình nền nông nghiệp và xã hội

nông thôn Việt Nam phát triển chưa

đồng bộ, không xứng với tiềm năng là

do chưa hình thành một cách có hệ

thống các quan điểm lý luận về phát

triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Quan điểm chỉ đạo này của Đảng nêu

lên tính cấp thiết trong việc phát triển

các nội dung lý luận và phương pháp

luận đối với nghiên cứu vấn đề nông

nghiệp, nông thôn và nông dân.

Đa số các nước phương Tây đã trải

qua quá trình công nghiệp hóa từ lâu.

Nền nông nghiệp và xã hội nông thôn tại

các quốc gia này đã đi vào quỹ đạo phát

triển và hiện đại hóa sâu rộng. Tình hình

đó khác xa với bối cảnh của Việt Nam,

một xã hội còn có tới gần 70% dân số

đang sống ở khu vực nông thôn. 1

Vấn đề đặt ra về mặt khoa học xã hội

là làm thế nào để quan điểm của Đảng

về “Vai trò chủ thể” của giai cấp nông

dân thực sự được nhìn nhận đúng trong

toàn xã hội và theo đó, tinh thần này

được thực hiện hiệu quả trong toàn bộ

công tác phát triển nông nghiệp và xây

dựng nông thôn mới hiện nay

pdf 10 trang yennguyen 860
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân... 
 3 
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CHỦ THỂ 
CỦA NÔNG DÂN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 
VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 
NGUYỄN XUÂN THẮNG* 
BÙI QUANG DŨNG** 
Các Văn kiện Ðại hội lần thứ VII, 
VIII, IX của Ðảng và nhiều Chỉ thị, 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương trong 
các nhiệm kỳ nói trên đều thể hiện một 
chiến lược nhất quán đối với nông 
nghiệp, nông dân, nông thôn; từng bước 
xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của 
việc phát triển toàn diện kinh tế nông 
thôn và xây dựng nông thôn mới.** 
Ðại hội X của Ðảng đã nhấn mạnh: 
hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề 
nông nghiệp, nông dân, nông thôn có 
tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. 
Nghị quyết 26-NQ/TƯ ngày 5/8/2008 
của Ban Chấp hành Trung ương về 
“nông nghiệp, nông dân, nông thôn” chỉ 
rõ: một trong những nguyên nhân của 
tình hình nền nông nghiệp và xã hội 
nông thôn Việt Nam phát triển chưa 
đồng bộ, không xứng với tiềm năng là 
do chưa hình thành một cách có hệ 
thống các quan điểm lý luận về phát 
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 
Quan điểm chỉ đạo này của Đảng nêu 
lên tính cấp thiết trong việc phát triển 
các nội dung lý luận và phương pháp 
luận đối với nghiên cứu vấn đề nông 
nghiệp, nông thôn và nông dân. 
Đa số các nước phương Tây đã trải 
qua quá trình công nghiệp hóa từ lâu. 
Nền nông nghiệp và xã hội nông thôn tại 
các quốc gia này đã đi vào quỹ đạo phát 
triển và hiện đại hóa sâu rộng. Tình hình 
đó khác xa với bối cảnh của Việt Nam, 
một xã hội còn có tới gần 70% dân số 
đang sống ở khu vực nông thôn. 1 
Vấn đề đặt ra về mặt khoa học xã hội 
là làm thế nào để quan điểm của Đảng 
về “Vai trò chủ thể” của giai cấp nông 
dân thực sự được nhìn nhận đúng trong 
toàn xã hội và theo đó, tinh thần này 
được thực hiện hiệu quả trong toàn bộ 
công tác phát triển nông nghiệp và xây 
dựng nông thôn mới hiện nay. 
1. Cách mạng vô sản và nông dân 
Vai trò của nông dân và cách mạng là 
một chủ đề quan trọng trong hàng loạt 
(*) Giáo sư, tiến sỹ, Chủ tịch Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam. 
(**) Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, nghiên cứu 
viên cao cấp, Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 4 
trước tác của các nhà kinh điển chủ 
nghĩa Mác - Lênin. Những nghiên cứu 
chủ yếu của C.Mác tập trung nhiều vào 
phân tích nền sản xuất tư bản; mặt khác, 
ông cũng dành mối quan tâm cho việc 
nghiên cứu về các xã hội nông nghiệp 
tiền tư bản. Các bài viết của C.Mác và 
Ph.Ăngghen về sự thống trị của chủ 
nghĩa thực dân Anh ở Ấn Độ, về đấu 
tranh giai cấp ở Pháp, về các quan hệ xã 
hội ở nước Nga v.v. đặt ra nhiều vấn đề 
về vai trò của nông dân trong các quá 
trình biến đổi kinh tế và các phong trào 
xã hội. 
V.I.Lênin, trong nhiều công trình 
nghiên cứu về cách mạng Nga, đã nhấn 
mạnh tới vai trò của nông dân trong bối 
cảnh một nước Nga với vô số những tàn 
tích của chế độ nông nô. Phân tích đặc 
điểm của nước Nga, V.I.Lênin lưu ý 
rằng, nhiệm vụ của Nhà nước vô sản là 
phải giải quyết tốt mối quan hệ với nông 
dân, coi đó là điểm then chốt trong 
chính sách phát triển kinh tế - chính trị. 
Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước 
vô sản với giai cấp nông dân trong phát 
triển kinh tế nông thôn sau cách mạng là 
vấn đề đặt ra một cách cấp thiết trong 
bối cảnh nước Nga lạc hậu và bị các thế 
lực tư bản quốc tế vây hãm. V.I.Lênin 
cũng cho rằng, trong bối cảnh của một 
nền kinh tế và xã hội quá độ, thì mối 
quan hệ đó không có gì khác hơn là trao 
đổi với nông dân. Các luận điểm của 
V.I.Lênin khi bàn về chế độ hợp tác xã 
chính là sự tôn trọng tính độc lập của 
nông dân, dần dần hướng họ tới một sự 
phát triển kinh tế - xã hội mới, vượt lên 
khỏi tính hạn chế của chính giai cấp 
nông dân. 
Đối với nước Cộng hòa Nhân dân 
Trung Hoa, Mao Trạch Đông là người 
đã phát hiện sớm tiềm năng chính trị của 
giai cấp nông dân. Ngay từ thời kỳ tiến 
hành cuộc điều tra nông dân ở Hồ Nam, 
Mao Trạch Đông đã nhận thấy tiềm 
năng to lớn của giai cấp này trong đấu 
tranh chính trị và quân sự tại xã hội 
Trung Quốc hiện đại. Các tác phẩm của 
Mao Trạch Đông về nông dân đã đặt cơ 
sở cho hàng loạt quyết sách quan trọng 
của Đảng Cộng sản Trung quốc, nhằm 
huy động đông đảo quần chúng nông 
dân tham gia vào các phong trào chính 
trị, quân sự. 
Nông dân và nông thôn là chủ đề 
quan trọng xuất hiện nhiều trong các 
trước tác của các nhà lãnh đạo cách 
mạng Việt Nam. Các tác phẩm của Hồ 
Chí Minh về cách mạng ở thuộc địa 
luôn đặt vấn đề nông dân và nông thôn ở 
vị trí nổi bật. Hồ Chí Minh đã phát hiện 
ra tính độc đáo của cơ cấu giai cấp và tổ 
chức làng xã ở Việt Nam. Những tư 
tưởng của Hồ Chí Minh về khối đại 
đoàn kết toàn dân, về mặt trận thống 
nhất, về vai trò của nông dân trong sự 
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ và 
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đều gắn 
liền với các phát hiện khoa học quan 
Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân... 
 5 
trọng này. Cùng với các công trình của 
Hồ Chí Minh, tác phẩm “Vấn đề dân 
cày” là một mốc quan trọng nữa về tình 
hình nông dân ở Việt Nam trước năm 
1954. Các tác giả thảo luận về tình hình 
xã hội nông thôn thời thuộc địa, về tình 
cảnh dân cày và nhấn mạnh rằng họ 
chiếm số đông trong nhân dân, là lực 
lượng hậu bị của cách mạng, cho nên 
một cuộc cải tạo xã hội lớn lao phải có 
nông dân tham gia mới có kết quả. 
Thảo luận nhiều về nông dân và xã 
hội nông thôn, nhưng khái niệm “nông 
thôn mới” mãi đến năm 1984 mới xuất 
hiện lần đầu tiên trong một bài nói 
chuyện của một nhà lãnh đạo cao cấp về 
nông nghiệp của Đảng tại Viện Xã hội 
học (Ủy ban Khoa học xã hội Việt 
Nam). Nêu bật tầm quan trọng của khu 
vực nông thôn đối với chiến lược phát 
triển kinh tế - xã hội nói chung, đồng chí 
Vũ Oanh (Trưởng Ban Nông nghiệp 
Trung ương và là tác giả bài viết) nhấn 
mạnh: nếu không nhận thức đầy đủ tầm 
quan trọng của việc xây dựng nông thôn 
mới, chúng ta sẽ không thực hiện được 
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội 
của Đảng, rằng chúng ta có khuyết điểm 
là coi nhẹ các vấn đề xã hội, và coi nhẹ 
vấn đề xã hội là chưa thấu suốt, chưa 
hiểu toàn diện mục tiêu của Đảng. Đồng 
chí dẫn lại yêu cầu của đồng chí Tổng 
Bí thư Lê Duẩn đối với khoa học xã hội, 
theo đó thì các nhà khoa học xã hội phải 
nghiên cứu làm thế nào để nhân dân lao 
động phát huy cao nhất quyền làm chủ 
tập thể; đó là mục tiêu và là động lực 
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khoa 
học xã hội phải làm tốt nhiệm vụ này, 
góp phần xây dựng các chính sách xã 
hội nhằm phát huy quyền làm chủ tập 
thể của nhân dân lao động. Nhiệm vụ 
xây dựng kinh tế và thực hiện các chính 
sách xã hội có mối liên quan chặt chẽ 
với nhau. Đánh giá cao vai trò của nông 
dân, đồng chí Vũ Oanh cho rằng, nhân 
dân lao động đã hoàn thành sự nghiệp 
giải phóng đất nước, thì nhất định sẽ 
thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng chủ 
nghĩa xã hội. 
Nông nghiệp Việt Nam trong thập 
niên 1980 được đánh dấu bằng các 
chính sách cải cách trong nông nghiệp; 
đầu tiên là Khoán 100 (Chỉ thị 100 của 
Ban Bí thư Trung ương Đảng, năm 
1981); tiếp sau đó là Khoán 10 về “đổi 
mới quản lí nông nghiệp” (Nghị quyết 
10 của Bộ Chính trị, ban hành tháng 
4/1988), quy định giao lại ruộng đất cho 
nông dân quản lí. Từ Nghị quyết Hội 
nghị Trung ương lần thứ 6 (Khóa IV) và 
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, 
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều 
chính sách kinh tế - xã hội đối với nông 
nghiệp và nông thôn, quan trọng nhất là 
chính sách khoán sản phẩm cuối cùng 
tới người lao động. Nghị quyết Đại hội 
Đảng Khóa VI (1986) và các nghị quyết 
sau đó thừa nhận nền kinh tế thị trường 
trong sản xuất nông nghiệp. Những thay 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 6 
đổi trong chính sách đất đai của Việt 
Nam góp phần đáng kể trong việc tăng 
nhanh sản lượng nông nghiệp và phát 
triển nông thôn. 
Xét về bản chất, chính sách khoán 
sản phẩm tới người lao động trong nông 
nghiệp, cũng như hàng loạt các chính 
sách khác của Đảng và Nhà nước về sau 
này (Luật Đất đai 1993, 2003), chính là 
sự giải phóng các tiềm năng kinh tế ở 
nông dân. Những thành tựu về phát triển 
kinh tế và xã hội nông thôn mấy thập kỷ 
qua, có nguồn gốc ở chính tiềm năng đã 
được khơi dậy đó, cũng như ở vai trò 
năng động, tính tích cực của giai cấp 
nông dân. Mặt khác, đó cũng là kết quả 
của quá trình đổi mới tư duy lý luận của 
Đảng về vai trò của nông dân trong cách 
mạng và trong sự nghiệp phát triển kinh 
tế - xã hội ở Việt Nam. 
2. Xã hội nông thôn Việt Nam và 
trách nhiệm xã hội của nông dân 
Các môn khoa học xã hội, khi đề cập 
tới tình hình các nước đang phát triển, 
đều không thể nào bỏ qua được vấn đề 
nông dân. Các nhà dân tộc học và nhân 
học xác định các đặc trưng của nông dân 
theo cách đối lập nó với cái gọi là 
“người nguyên thủy” và nông gia. Nông 
dân được định nghĩa là những người 
trồng trọt ở nông thôn và họ không phải 
là nông gia (chủ các nông trại). Nông 
trại là một doanh nghiệp, ở đó các sản 
phẩm của nông trại sẽ được bán ra ngoài 
thị trường với giá cao hơn; còn người 
nông dân, xét về phương diện kinh tế, là 
người quản lý nền kinh tế gia đình. 
Gia đình nông dân không đơn giản là 
một đơn vị sản xuất; nó cũng là một đơn 
vị tiêu dùng. Một mặt, nông dân tiến 
hành các hoạt động kinh tế tự túc, nhằm 
vào tiêu dùng cho bản thân và gia đình; 
mặt khác, họ được coi là những đơn vị 
sản xuất của hệ thống kinh tế nói chung. 
Những nghiên cứu về nông dân Việt 
Nam truyền thống, bên cạnh việc nhấn 
mạnh tới nền kinh tế gia đình, còn xem 
xét các đặc trưng của tổ chức làng xã. 
Giới nghiên cứu nhấn mạnh tới tính tự 
trị và về những đặc điểm của “tính dân 
chủ” tại các làng xã truyền thống. 
Ruộng công và các định chế xã hội khác 
của làng (họ hàng, hàng xóm, láng 
giềng) giữ vai trò kiểm soát xã hội và 
cũng là cơ chế bảo hiểm đối với nông 
dân. Làng vừa là cơ chế bảo hiểm và 
phúc lợi cho nông dân, vừa là một hình 
thức kiểm soát xã hội chặt chẽ. Làng 
bảo vệ người nghèo khỏi những thiếu 
thốn và ách thống trị của giới chủ đất. 
Người nông dân là thành viên của làng 
và chỉ với tính cách đó thôi, anh ta mới 
có được quyền lợi trong một xã hội 
nông nghiệp: suất ruộng công, được 
phân chia định kỳ giữa các thành viên 
của làng. 
Trên cơ sở các định chế kinh tế và xã 
hội như thế, từ lâu đã hình thành một 
truyền thống cộng đồng nông thôn vững 
chắc, một dạng tâm lý cố kết chặt chẽ 
Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân... 
 7 
trong nội bộ làng. Giới nghiên cứu nhấn 
mạnh tới tâm lý cộng đồng, coi đó là 
một trong những lý do giải thích về sức 
sống của xã hội Việt Nam; mặt khác, 
cũng nhấn mạnh là chính tình cảm cộng 
đồng này, khi bị đẩy tới cực hạn, lại có 
nguy cơ trở thành một thứ chủ nghĩa địa 
phương, trở ngại cho các nỗ lực huy 
động nông dân tham gia vào các quá 
trình tiến bộ xã hội rộng lớn hơn. 
Quan điểm về tinh thần cộng đồng 
xuất hiện trở đi trở lại trong nhiều khảo 
cứu về xã hội và nông dân Việt Nam 
thời hiện đại cũng như trong xã hội 
truyền thống trước năm 1954. Gourou 
nhận thấy xu hướng của nông dân muốn 
lập các phe nhóm, bên cạnh các tổ chức 
xã hội khác trong làng. Houtart và đồng 
nghiệp, khi nghiên cứu về một xã ở 
vùng đồng bằng sông Hồng, vẫn còn 
nhận thấy vai trò của các liên kết xã hội 
truyền thống: làng họ. Làng xóm cũ vẫn 
còn là nơi nhận diện xã hội của nông 
dân, bên cạnh các điểm sinh hoạt tập thể 
mới (xã và hợp tác xã). Scott thì nhấn 
mạnh tới tình hình là người nông dân rất 
khó hình dung ra cái thế giới xung 
quanh họ, vượt khỏi cấp độ làng. Hirkey 
trong một nghiên cứu khác, tiến hành ở 
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu 
Long, cũng lưu ý tới tình hình tương tự: 
những mối liên kết xã hội chặt chẽ ở cấp 
xóm, có thể là trở ngại cho sự phát triển 
các mối quan hệ hợp tác của nông dân ở 
một cấp độ cao hơn (thôn, ấp). Nhìn 
chung, các tác giả đều thống nhất rằng, 
sự phát triển của xã hội nông thôn và cụ 
thể hơn, sự tìm kiếm một trách nhiệm xã 
hội nơi người nông dân sẽ phải thông 
qua việc phân giải chính cái di sản tâm 
lý cộng đồng hạn chế này. 
Liên quan tới nội dung đang bàn là 
vấn đề đặc tính của nông dân Việt Nam. 
Tâm điểm trong các cuộc thảo luận là 
nhận diện bản chất xã hội của nông dân: 
anh ta là người theo chủ nghĩa cá nhân 
hay chủ nghĩa tập thể; anh ta là người có 
trách nhiệm xã hội (tuân thủ “đạo đức 
kinh tế”), hay là kẻ tính toán vị kỷ v.v.. 
Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới 
chân dung nông dân với tính cách người 
sản xuất nhỏ, tới tâm lý tiểu nông, và coi 
đó là một trở ngại đối với các nỗ lực 
phát triển xã hội nông thôn, đặc biệt là 
việc chuyển nền kinh tế nông dân lên 
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Một số 
nhà nghiên cứu khác lưu ý tới sự khác 
biệt rõ nét giữa người trung nông Nam 
Bộ năng động và thích hợp với các sáng 
kiến phát triển, với người nông dân Bắc 
Bộ sống trong các quan hệ cộng đồng 
khép kín. 
Về phía các học giả quốc tế, cuộc 
thảo luận giữa Scott và Popkin phản ánh 
những nét căn bản trong các nỗ lực 
nghiên cứu nhằm nhận diện về bản chất 
xã hội của nông dân Việt Nam. Popkin 
tranh luận về bản chất của nông dân 
thông qua việc phân tích về các hoạt 
động tương trợ và ái hữu. Tác giả này 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 8 
mô tả về người nông dân với những hợp 
đồng được quyết định dựa trên các lợi 
ích hoàn toàn cá nhân vị kỷ. Trong khi 
Scott cũng như các nhà kinh tế đạo đức 
khác nhấn mạnh tới nội dung đạo đức 
như là cơ sở của thực tiễn kinh tế và trao 
đổi xã hội của nông dân, thì Popkin lại 
nhấn mạnh tới mâu thuẫn giữa lợi ích cá 
nhân và nhóm. Popkin trình bày nông 
dân Việt Nam như những cá nhân duy lý 
gắn những lựa chọn của họ với các ưu 
tiên và giá trị nhất định. Scott quả quyết 
rằng, nông dân Việt Nam có khái niệm 
về công bằng xã hội, về quyền lợi và 
nghĩa vụ, về sự có đi có lại. Về phần 
mình, Popkin lại khẳng định sự tính toán 
chi phối hành vi của nông dân và anh ta 
hành động bởi sự xui khiến lạnh lùng 
của việc ra quyết định cá nhân và những 
tương tác chiến lược. Người nông dân 
của Popkin là một nhân vật kinh tế biết 
tính toán và ông ta lập luận rằng nên coi 
làng Việt Nam như một hiệp hội hơn là 
một cộng đồng. 
3. Biến đổi xã hội nông thôn và vai 
trò chủ thể của nông dân 
Các cuộc thảo luận về vai trò của 
nông dân trong phát triển nông thôn 
thường gắn với bối cảnh biến đổi xã hội 
và vai trò của các chính sách phát triển. 
Giới nghiên cứu hầu hết thống nhất 
rằng, chưa bao giờ người nông dân có 
cơ hội đóng vai trò động lực phát triển 
nông thôn như hiện nay dưới tác động 
của các chính sách đổi mới. 
Cũng tương tự như vậy, ngày càng có 
nhiều nghiên cứu từ phía các học giả 
quốc tế và giới nghiên cứu trong nước 
về các vấn đề của nền nông nghiệp, xu 
hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ 
nghĩa, về các tầng lớp và giai cấp xã hội. 
Biến đổi kinh tế nông thôn từ sau Đổi 
mới đã khắc họa bức chân dung mới về 
người nông dân và vai trò của tầng lớp 
này trong phát triển nông thôn. Đã xuất 
hiện nhiều công trình nghiên cứu nhằm 
nhận diện cơ cấu giai cấp xã hội của 
nông dân. Thực tiễn phát triển nền sản 
xuất hàng hóa trong nông thôn cung cấp 
vô số bằng chứng cho thấy, cần có cách 
tiếp cận về nông dân từ góc độ vai trò 
của nó đối với phát triển. Thảo luận về 
cơ cấu xã hội nông thôn, nhiều tác giả 
nhấn mạnh tới các đặc điểm kinh tế - xã 
hội của tầng lớp trung nông Nam Bộ, và 
gợi ý một cách có lý rằng, các chính 
sách phát triển cần đặc biệt lưu ý tới vai 
trò năng động của tầng lớp này. 
Các nghiên cứu giai đoạn này nhấn 
mạnh tầm quan trọng của chính sách 
phát triển nông nghiệp, nông thôn, và cổ 
xúy cho việc thừa nhận quyền tự chủ 
của các nông hộ. Nhiều học giả khuyến 
cáo về một chính sách phát triển nông 
thôn lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng 
đầu và lấy công nghiệp hóa nông thôn 
làm hướng ưu tiên trước mắt. Một chính 
sách như thế phải xuất phát từ vai trò tự 
chủ của nông hộ, từ quyền lợi thiết thân 
của hàng triệu nông dân, và từ khả năng 
Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân... 
 9 
liên kết sức mạnh to lớn của họ để phát 
triển đất nước trong những bước đi ổn 
định và vững chắc. 
Các nghiên cứu gần đây nhất cho 
thấy, tình trạng không có đất phổ biến 
trong nhóm nông dân nghèo ở cả hai 
vùng đồng bằng (ĐBSH và ĐBSCL). 
Nếu xét riêng trong nhóm nghèo nhất, tỉ 
lệ người không có ruộng là khoảng 5% 
ở ĐBSH so với 40% ở ĐBSCL. Việc gia 
tăng tình trạng không có đất trong nông 
dân khiến nhiều người quan ngại về 
những vấn đề xã hội nảy sinh. Một số 
nghiên cứu gần đây lưu ý tới quá trình 
tích tụ ruộng đất và bóng dáng một tầng 
lớp “nông dân mới”, các chủ nông trại 
với quy mô vài chục hécta đất canh tác. 
Trong nhiều xuất bản phẩm về cùng sự 
kiện, người ta gọi họ là các nông gia và 
thảo luận nhiều về các quan hệ xã hội 
tương ứng. 
Gắn liền với sự nhận diện về phân 
hóa xã hội trong cư dân nông thôn là đề 
nghị về các chính sách phát triển. Các 
khuyến nghị này xuất phát từ tình hình 
một xã hội nông thôn đã phân hóa 
thành các nhóm, tầng lớp với những 
năng lực, nhu cầu khác nhau. Vấn đề 
đặt ra là trên cơ sở một cơ cấu xã hội đã 
phân hóa, nhất là khi dân số nông thôn 
không còn thuần túy là nông dân, thì 
cần nhận diện đúng vai trò của nông 
dân và cư dân nông thôn nói chung, đối 
với phát triển nông thôn. 
Bức tranh toàn cảnh của nền nông 
nghiệp và xã hội nông thôn hiện đã có 
những tiến triển căn bản. Càng ngày 
người ta càng chứng kiến vai trò hết sức 
năng động của các doanh nghiệp nông 
thôn trong phát triển nông nghiệp. Mặt 
khác, “Doanh nghiệp hóa” nền sản xuất 
nông thôn hiện còn là một quá trình lâu 
dài, không thể một lúc thay đổi ngay 
toàn bộ vai trò chủ thể phần lớn còn 
nằm trong tay nông hộ. 
Giới nghiên cứu và giới hoạch định 
chính sách thống nhất rằng, cần phát 
huy hơn nữa hoạt động của Hội Nông 
dân trong việc giáo dục và nâng cao vai 
trò chủ thể này, nhằm mục tiêu phát 
triển bền vững nông nghiệp, nông thôn. 
4. Một vài nhận xét 
Từ những luận điểm trên, có thể rút 
ra một số nhận xét như sau: 
Nghiên cứu của các học giả quốc tế 
và trong nước đã chỉ ra mối quan hệ 
giữa cơ cấu xã hội làng xã Việt Nam, 
giữa tâm lý tiểu nông với tính hạn chế 
về trách nhiệm xã hội của nông dân. 
Mặt khác, hiện mới chỉ có những 
nghiên cứu từ góc độ Dân tộc học, Lịch 
sử, mà chưa có một nghiên cứu nào về 
trách nhiệm xã hội của người nông dân 
trong bối cảnh phát triển hiện nay, từ 
tiếp cận liên ngành: Kinh tế học phát 
triển và Xã hội học. 
Giới nghiên cứu mới đặt vấn đề nhận 
diện vai trò chủ thể của nông dân (nông 
hộ) trong sản xuất kinh doanh, nghĩa là 
từ góc độ thuần túy Kinh tế học, chứ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 10 
chưa hề nghiên cứu vai trò nông dân với 
tư cách chủ thể phát triển và xây dựng 
xã hội nông thôn, trong khi đó, đây lại là 
vấn đề quan trọng không chỉ về mặt 
thực tiễn, mà còn cả về phương diện 
chính sách phát triển. Về mặt phương 
pháp luận, cần xuất phát từ những điều 
kiện đặc thù của xã hội Việt Nam để suy 
nghĩ về các vấn đề lý luận và phương 
pháp luận nghiên cứu khoa học xã hội. 
Nhiệm vụ của khoa học xã hội là tập 
trung phân tích, đúc rút các bài học về lý 
luận liên quan tới vấn đề trách nhiệm xã 
hội của nông dân và vai trò của giai cấp 
này trong phát triển nông thôn. 
Trên thực tế, sự phát triển ý thức 
trách nhiệm xã hội và vai trò của nông 
dân gắn liền với những tác động chính 
sách; trong khi đó, hãy còn thiếu một 
phân tích có tính hệ thống về bản thân 
các chính sách này, nhằm rút ra các bài 
học cho việc phát huy trách nhiệm xã 
hội và vai trò chủ thể của nông dân hiện 
nay. Trách nhiệm xã hội của nông dân 
không phải là cái gì trừu tượng, mà gắn 
liền với các quan hệ xã hội hiện nay 
trong nền kinh tế và xã hội nông thôn. 
Chừng nào nông dân còn là người gắn 
liền với các quan hệ ruộng đất truyền 
thống (kinh tế tiểu nông) và các tập thể 
cộng đồng hạn chế, chừng đó chưa thể 
nói tới trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm 
xã hội thực sự sẽ chỉ nảy sinh trên cơ sở 
sự phát triển các quan hệ kinh tế mới. 
Nghị quyết 26-NQ/TƯ ngày 5/8/2008 
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng 
về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” 
nhấn mạnh tới vai trò chủ thể của nông 
dân trong quá trình phát triển. Có thể 
nói rằng, quan điểm về vai trò chủ thể 
của nông dân trong toàn bộ quá trình 
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, 
thực sự là điểm sáng có ý nghĩa quyết 
định trong quá trình đổi mới tư duy lý 
luận của Đảng. Văn kiện này cũng xác 
định rõ rằng công tác lãnh đạo và quản 
lý phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự 
chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông 
dân, và tập trung vào việc nâng cao 
trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của 
giai cấp nông dân, tạo điều kiện để 
nông dân tham gia đóng góp và hưởng 
lợi nhiều hơn trong quá trình công 
nghiệp hoá đất nước. 
 Một trong những nội dung quan 
trọng về mặt khoa học xã hội là góp 
phần luận giải và tìm tòi các cơ sở khoa 
học cho việc nâng cao vai trò chủ thể 
của nông dân trong phát triển nông 
nghiệp và nông thôn. Vai trò này diễn ra 
trong những điều kiện chính trị, xã hội 
nhất định và gắn liền với các điều kiện 
xã hội, trong đó họ sinh sống. Trong bối 
cảnh phát triển hiện nay của nền nông 
nghiệp và xã hội nông thôn Việt Nam, 
bên cạnh nông hộ, khái niệm vai trò chủ 
thể của nông dân cần mở rộng hơn thành 
vai trò của các doanh nghiệp nông 
Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của nông dân... 
 11 
nghiệp, xí nghiệp và công ty. Trong khi 
tiếp tục các nỗ lực yểm trợ cho vai trò 
của nông hộ, cần phải thúc đẩy sự phát 
triển nhanh vai trò chủ thể của các tổ 
chức và hình thức hợp tác kinh tế mới 
trong nông thôn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Akram-Lodhi, and A. Haroon (2005), 
"Vietnam's agriculture and mechanisms of 
social differentiation", Journal of Agrarian 
change, 5 (1). 
2. Bùi Quang Dũng và Đặng Thị Việt 
Phương (2011), "Một số vấn đề ruộng đất qua 
cuộc điều tra nông dân 2009-2010”, Tạp chí 
Khoa học xã hội, số 9. 
3. Đỗ Thái Đồng (1989), "Những vấn đề cơ 
cấu xã hội và sự phát triển ở một xã nông thôn 
Nam Bộ", Tạp chí Xã hội học, số 3. 
4. Đỗ Thái Đồng (1994), "Kinh tế hộ gia 
đình và những xu thế mới trong hợp tác hóa ở 
đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Xã hội 
học, số 2. 
5. P. Gourou (2004), Người nông dân châu 
thổ sông Hồng, Hà Nội, (bản dịch). 
6. J. Hirkey (1959), Cuộc nghiên cứu một 
cộng đồng thôn xã Việt Nam (phần xã hội học), 
Tài liệu tham khảo. 
7. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
8. F. Houtart, và G. Lemercinier (2001), Xã 
hội học về một xã ở Việt Nam, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
9. Lê Minh Ngọc (1984), "Về tầng lớp trung 
nông ở đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Xã 
hội học, số 2. 
10. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva. 
11. Mao Trạch Đông (1966), Tuyển tập, Nxb 
Nhân dân, Bắc Kinh. 
12. C.Mác - Ph. Ăngghen (1987), Bàn về 
các xã hội tiền tư bản, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
13. Nghị quyết 26-NQ/TƯ ngày 5/8/2008 
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “nông 
nghiệp, nông dân, nông thôn” . 
14. Nguyễn Công Bình (1993), "Cơ cấu xã 
hội, sự phân tầng xã hội và chính sách xã hội ở 
nông thôn Nam Bộ", Tạp chí Xã hội học, số 4. 
15. S. Popkin (1979), The rational peasant - 
the political economy of rural society in Vietnam. 
University of California Press, Berkeley. 
16. J. Scott (1976), The moral economy of 
the peasant. Rebellion and subsistence in 
Southeast Asia. Yale University Press, New 
Haven, London. 
17. Trần Hữu Quang (1982), "Nhận diện cơ 
cấu giai cấp ở nông thôn đồng bằng sông Cửu 
Long", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 4. 
18. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp 
(1959), Vấn đề dân cày. Nxb Sự thật, Hà Nội. 
19. Vũ Oanh (1984), “Những vấn đề xây 
dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp 
chí Xã hội học, số 2. 
20. Vũ Tuấn Anh (1990), "Về sự chuyển 
biến cơ cấu xã hội và định hướng giá trị ở 
nông thôn trong quá trình đổi mới kinh tế", 
Tạp chí Xã hội học, số 4. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 12 

File đính kèm:

  • pdftrach_nhiem_xa_hoi_va_vai_tro_chu_the_cua_nong_dan_trong_pha.pdf