Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động và vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Theo C. Mác, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối chủ đạo nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; thực hiện phân phối theo lao động nhằm thực hiện công bằng xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, cần giữ vững nguyên tắc phân phối theo lao động, đồng thời vận dụng, kết hợp với các hình thức phân phối khác nhằm thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội

pdf 7 trang yennguyen 620
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động và vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động và vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam hiện nay

Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động và vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam hiện nay
5321(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đặt vấn đề
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
ở Việt Nam hiện nay, phân phối là một khâu không thể thiếu 
được của quá trình tái sản xuất, là khâu quan trọng nối liền 
sản xuất và tiêu dùng. Phân phối theo lao động là nguyên 
tắc phân phối chủ đạo nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều 
vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập, đặc biệt là phân 
phối theo lao động dưới hình thức như tiền lương, tiền công, 
tiền thưởng phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường cũng 
như tác động của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã 
hội ở nước ta đang nảy sinh những vấn đề cần được luận 
giải trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, 
việc nghiên cứu quan điểm của C. Mác về phân phối theo 
lao động và việc vận dụng, phát triển nguyên tắc phân phối 
này theo quan điểm của C. Mác ở Việt Nam hiện nay là hết 
sức cần thiết.
Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động
Đương thời, C. Mác đã nghiên cứu chế độ phân phối của 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ bản chất 
của chế độ phân phối trong chủ nghĩa tư bản là bất công, vì 
nó dựa trên quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản và địa chủ 
đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở 
đó, C. Mác đã đưa ra quan điểm về phân phối theo lao động 
trong chủ nghĩa xã hội và đặt nền tảng lý luận về phân phối 
thu nhập thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, C. Mác chỉ ra rằng, sự 
phân phối không công bằng thực chất bị che đậy bởi nguyên 
Quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao động 
và vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam hiện nay
Phạm Văn Hưng*
Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Ngày nhận bài 4/7/2017; ngày chuyển phản biện 7/7/2017; ngày nhận phản biện 2/8/2017; ngày chấp nhận đăng 30/8/2017
Tóm tắt: 
Theo C. Mác, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối chủ đạo nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, 
là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; thực hiện phân phối theo lao động nhằm thực hiện công bằng 
xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, cần giữ vững nguyên 
tắc phân phối theo lao động, đồng thời vận dụng, kết hợp với các hình thức phân phối khác nhằm thực hiện công 
bằng và tiến bộ xã hội.
Từ khóa: C. Mác, công bằng, phân phối theo lao động. 
Chỉ số phân loại: 5.6
*Email: phamanhngoc2111@gmail.com
Karl Marx’s view on labor 
distribution and the issues of labor 
distribution in Vietnam today
Van Hung Pham*
Institute of Philosophy, Vietnam Academy of Social Sciences
Received 4 July 2017; accepted 30 August 2017
Abstract: 
According to Karl Marx, labor distribution is the 
principle of distributing personal consumption materials 
of socialism, as well as one of the characteristics of 
socialism. To perform labor distribution is to implement 
social justice. In the current context of socialist-oriented 
market economy of Vietnam, it is necessary to maintain 
the principle of distribution based on labor as well as to 
apply and combine with other forms of distribution to 
achieve social fairness and progress.
Keywords: Justice, Karl Marx, labor distribution.
Classification number: 5.6
5421(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
tắc “trao đổi ngang giá”. Theo đó, việc phân chia giá trị 
mới1 được sáng tạo ra dựa vào sự đóng góp của các yếu tố 
sản xuất: Một phần phân phối cho người lao động theo giá 
trị sức lao động, phần khác phân phối cho người sở hữu tư 
liệu sản xuất. Trong việc phân chia này, tiền công của người 
lao động chỉ ở mức tối thiểu, đúng như C. Mác đã phát hiện 
ra: “Tiền công là giá cả của một hàng hóa nhất định, của 
lao động” [1], nhưng ở đó, “giá cả những chi phí sinh hoạt 
và chi phí để tiếp tục duy trì giống nòi đó là tiền công. Tiền 
công được quy định như vậy gọi là tiền công tối thiểu. Tiền 
công tối thiểu này, cũng như việc chi phí sản xuất quyết định 
giá cả hàng hóa nói chung, có ý nghĩa không phải đối với 
một cá nhân riêng lẻ, mà đối với toàn thể loài người” [2].
Từ phát hiện đó, trong Tư bản, C. Mác đã bắt đầu định 
hình quan niệm về phương thức phân phối mới - phân phối 
lấy lao động làm thước đo. Ông cho rằng, trong thể liên 
hợp của những người tự do, “phương thức phân phối ấy sẽ 
thay đổi tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và 
tùy theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những 
người sản xuất. Nhằm mục đích duy nhất là để so sánh với 
nền sản xuất hàng hóa, chúng ta hãy giả định rằng, phần tư 
liệu sinh hoạt chia cho mỗi người sản xuất sẽ do thời gian 
lao động của người đó quyết định. Trong điều kiện ấy, thời 
gian lao động sẽ đóng vai trò hai mặt. Việc phân phối thời 
gian lao động theo một kế hoạch xã hội sẽ quy định một tỷ 
lệ đúng đắn giữa các chức năng lao động khác nhau và các 
nhu cầu khác nhau. Mặt khác, thời gian lao động đồng thời 
cũng dùng để đo phần tham gia của cá nhân người sản xuất 
vào lao động chung và do đó, cả cái phần tham dự của anh 
ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong 
toàn bộ sản phẩm” [3]. Như vậy, có thể thấy, quan niệm về 
phân phối theo lao động, nguyên tắc lấy lao động làm thước 
đo phân phối sản phẩm tiêu dùng đã dần được xác lập trong 
tư tưởng của C. Mác.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, khi phê phán 
quan điểm của Látxan về cái gọi là “quy luật sắt của tiền 
công” - “thu nhập không bị cắt xén của lao động”, C. Mác 
đưa ra sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội: Thu nhập tập 
thể là tổng sản phẩm xã hội. Trong tổng sản phẩm đó, phải 
khấu trừ đi: Một là, phần phải thay thế những tư liệu sản 
xuất đã tiêu dùng; hai là, một phần phụ thêm để mở rộng 
sản xuất; ba là, một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm đề phòng 
những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện tượng tự nhiên 
gây ra...
Còn lại, phần kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật 
phẩm tiêu dùng. Trước khi tiến hành phân phối cho cá nhân, 
phần này lại còn phải khấu trừ: Một là, những chi phí về 
quản lý chung không trực tiếp thuộc về sản xuất; hai là, 
những khoản dùng để cùng chung nhau thỏa mãn những 
nhu cầu, như trường học, cơ sở y tế...; ba là, quỹ cần thiết để 
nuôi những người không có khả năng lao động, tóm lại là 
những cái thuộc về việc mà ngày nay người ta gọi là cứu tế 
xã hội của nhà nước [4].
Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội đó của C. Mác 
chỉ ra rằng, quá trình phân phối được chia làm hai giai đoạn: 
Một là, phân chia tổng sản phẩm xã hội thành sáu khoản 
tất yếu phải khấu trừ và tư liệu tiêu dùng; hai là, phân phối 
tư liệu tiêu dùng còn lại cho những người lao động theo 
nguyên tắc phân phối theo lao động. Đây là sơ đồ phân phối 
khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xã hội, nhằm đảm 
bảo tái sản xuất, thỏa mãn những nhu cầu tất yếu của cá 
nhân, của xã hội và hướng đến sự tiến bộ xã hội. Ở đây, tư 
liệu tiêu dùng để phân phối theo lao động là một bộ phận 
trong tổng sản phẩm xã hội sau khi đã khấu trừ những khoản 
tất yếu. Trong sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội, thước 
đo để phân phối theo lao động là số lượng sản phẩm lao 
động trong tổng sản phẩm. Trong đó, cơ sở kinh tế của phân 
phối theo lao động là những sản phẩm còn lại sau khi đã trừ 
đi những khoản tất yếu.
C. Mác cho rằng, phân phối theo lao động là nguyên tắc 
phân phối chủ đạo trong chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu 
của chủ nghĩa cộng sản. Ông viết: "Cái xã hội mà chúng ta 
nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã 
phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một 
xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản 
chủ nghĩa, đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, 
đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ 
mà nó đã lọt lòng ra" [4]. Dựa trên giả định kinh tế hàng hóa 
đã tiêu vong, C. Mác cho rằng, phân phối theo lao động dựa 
trên điều kiện kinh tế - xã hội được phát triển ở mức độ cao. 
Trên cơ sở kinh tế - xã hội đó, chế độ công hữu được thiết 
lập trên sự phát triển cao và tập trung cao độ nền sản xuất 
xã hội và do vậy, toàn bộ xã hội là một khối liên hợp khổng 
lồ. Nhà nước quản lý trực tiếp quá trình sản xuất xã hội và 
quyết định phân phối sản phẩm tiêu dùng. 
Dựa trên cơ sở đó, C. Mác cho rằng, trong chủ nghĩa xã 
hội, người lao động làm chủ quá trình sản xuất và do đó là 
chủ thể phân phối trong chế độ phân phối theo lao động, 
còn tư liệu tiêu dùng là đối tượng bị phân phối, nên lao 
động quyết định việc phân phối tư liệu tiêu dùng. Căn cứ 
để phân phối là thời gian lao động: “Cái mà anh ta đã cống 
hiến cho xã hội là lượng lao động của cá nhân anh ta. Ví 
dụ, ngày lao động là tổng số những giờ lao động cá nhân. 
Thời gian lao động cá nhân của mỗi một người sản xuất là 
cái phần ngày lao động xã hội mà người đó đã cung cấp, cái 
phần anh ta đã tham gia trong đó” [4]. Như vậy, thời gian 
lao động trở thành đơn vị tính thù lao của người lao động. 
1Giá trị mới bao gồm: Tiền công, lợi nhuận, lợi tức và địa tô. Thu nhập 
của người lao động là tiền công; thu nhập của chủ sở hữu tư liệu sản xuất 
là lợi nhuận; địa tô là thu nhập của địa chủ dựa trên quyền chiếm hữu 
ruộng đất.
5521(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
C. Mác cho rằng, lao động cá biệt trở thành lao động xã hội 
trực tiếp ngay từ đầu, bởi vì kinh tế hàng hóa không còn tồn 
tại trong chủ nghĩa xã hội. Sự cống hiến lao động của người 
lao động có tính chất xã hội trực tiếp với tư cách là hao phí 
của tổng lao động xã hội trực tiếp. Lượng lao động có thể 
thông qua thời gian lao động để đo lường. Trong nền kinh 
tế hàng hóa, lao động cá biệt được chuyển thành lao động 
xã hội diễn ra sự chuyển đổi phức tạp. Khi kinh tế hàng hóa 
không còn, sự chuyển đổi này không diễn ra một cách phức 
tạp nữa. Công cụ để thực hiện phân phối theo lao động là 
phiếu lao động: "Anh ta nhận của xã hội một phiếu chứng 
nhận rằng anh ta đã cung cấp một số lao động là bao nhiêu 
đó (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta làm cho các 
quỹ xã hội) và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho của xã 
hội ra một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang nhau 
với một số lượng như thế" [4]. Trong nền kinh tế hàng hóa, 
tiền tệ là hình thức biểu hiện của giá trị, là phương tiện của 
phân phối, còn trong chế độ phân phối theo lao động, tiền 
tệ chuyển hóa thành giấy chứng nhận lao động do phạm trù 
giá trị đã bị tiêu vong.
Trong quan niệm của C. Mác, trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất và chế độ sở hữu phù hợp với nhau; trình độ 
đó của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ phân phối. 
Ông viết: “Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên 
tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm 
trong tay những kẻ không lao động, dưới hình thức sở hữu 
tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng chỉ là kẻ sở hữu 
những điều kiện của người sản xuất, tức là sức lao động. 
Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối như thế thì 
việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do 
đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở 
hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ 
có một sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự 
phân phối hiện nay” [4]. Trong chủ nghĩa xã hội, lực lượng 
sản xuất phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản, chế độ công 
hữu được thiết lập. Ở đó, mỗi người lao động có quyền bình 
đẳng với tư liệu sản xuất xã hội và do vậy, “không một ai 
có thể cung cấp một cái gì khác ngoài lao động của mình 
và mặt khác, vì ngoài những vật phẩm tiêu dùng cá nhân 
ra thì không còn cái gì khác có thể trở thành sở hữu của 
cá nhân được” [4]. Khi người lao động trở thành chủ thể 
của quá trình sản xuất, quan hệ thu nhập dựa trên lao động 
được xác lập. Lao động trở thành tiền đề của lợi ích kinh tế 
và là phương tiện mưu sinh cơ bản nhất. Sức lao động của 
cá nhân trở thành điều kiện thực hiện lợi ích kinh tế và thu 
nhập cá nhân của người lao động.
Dưới chủ chủ nghĩa xã hội, với chế độ phân phối theo 
lao động, trong xã hội vẫn còn tồn tại sự khác biệt về thu 
nhập. Sự khác biệt đó về thu nhập là do: Thứ nhất, “sự 
không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó, về năng 
lực lao động, coi đó là những đặc quyền tự nhiên” [4]. Thứ 
hai, do sự khác biệt giữa lượng được hưởng thực tế về sản 
phẩm tiêu dùng cá nhân với mức sống của người lao động, 
ví dụ, thù lao của lao động được chi cho cá nhân, còn đơn 
vị tiêu dùng là gia đình của cá nhân đó. Cùng một lượng lao 
động bỏ ra, người lao động sẽ thu về một lượng vật phẩm 
tiêu dùng như nhau, nhưng giữa họ vẫn có sự khác biệt về 
thu nhập trên thực tế do sự khác nhau về con cái - số lượng 
nhân khẩu phải nuôi dưỡng. Sự bất bình đẳng này là không 
thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. 
Từ đó, C. Mác đi đến kết luận: “Muốn tránh tất cả những 
thiếu sót ấy thì quyền là phải không bình đẳng, chứ không 
phải là bình đẳng” [4]. 
Trong quan niệm về chế độ phân phối theo lao động, 
C. Mác hướng đến kết quả của phân phối theo lao động là 
nhằm thực hiện công bằng trong xã hội. Ở đó, quan hệ bình 
đẳng của người lao động được thể hiện trong quan hệ phân 
phối theo lao động về tư liệu tiêu dùng. Quan hệ bình đẳng 
đó thể hiện ở chỗ, mọi thành viên trong xã hội có quan hệ 
bình đẳng. Người lao động làm chủ tư liệu sản xuất của xã 
hội vì ai cũng chỉ là một người lao động như những người 
khác. Quan hệ bình đẳng này còn thể hiện về quyền lợi lao 
động. Với tư cách chủ thể sản xuất, mọi người có năng lực 
lao động đều có quyền và nghĩa vụ tham gia lao động, phát 
huy hết năng lực lao động ở hiệu suất cao nhất, lấy việc lao 
động là nhu cầu tự thân, tự giác. Mặt khác, trao đổi lao động 
có quan hệ bình đẳng. Điều này thể hiện ở chỗ, lao động với 
lượng ngang nhau thì thu được lượng sản phẩm như nhau 
trên cơ sở “lượng lao động”. Lượng lao động nhiều hay ít 
quyết định thu nhập lao động nhiều hay ít. Trong quan niệm 
của C. Mác, phân phối theo lao động không bao hàm phân 
phối bình quân, cào bằng. Bởi vì, phân phối theo lao động 
thừa nhận sự khác biệt, sự không ngang nhau trong phân 
phối tư liệu tiêu dung giữa những người lao động với nhau. 
Do sự khác biệt đó, người lao động được khuyến khích tiếp 
tục nâng cao năng suất lao động và từ đó làm cho sản xuất 
phát triển hơn nữa. 
Như vậy, quan điểm của C. Mác về phân phối theo lao 
động có giá trị lý luận quan trọng. Giá trị này thể hiện ở chỗ: 
Thứ nhất, tư tưởng phân phối theo lao động là kết tinh trên 
cơ sở nghiên cứu lý luận và đúc kết thực tiễn xã hội từ trước 
đến thế kỷ XIX của C. Mác, được xây dựng trên cơ sở khoa 
học với những lý luận khoa học; thứ hai, C. Mác coi trình độ 
của lực lượng sản xuất quyết định chế độ sở hữu, và do đó 
quyết định quan hệ phân phối. Trong chủ nghĩa xã hội, lực 
lượng sản xuất phát triển cao, chế độ công hữu được thiết 
lập, nên chế độ phân phối tư liệu tiêu dùng cá nhân phải là 
phân phối theo lao động. Trên cơ sở đó, thực hiện chế độ 
phân phối theo lao động nhằm đảm bảo công bằng xã hội, 
bởi vì mối liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập được 
xác lập, giữa lao động và hưởng thụ phải có sự t ... h tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 
nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất và kinh doanh 
thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng tham gia, 
có phương thức tổ chức sản xuất và kinh doanh khác nhau. 
Do vậy, kết quả và thu nhập của các thành phần kinh tế này 
là khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện này, các thành phần 
kinh tế tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về 
sở hữu tư liệu sản xuất, về vốn, về trình độ chuyên môn, 
về trình độ quản lý, về quy mô sản xuất... Do đó, các thành 
phần kinh tế này khác nhau về thu nhập nên không có hình 
5721(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
thức phân phối thu nhập thuần nhất, ngược lại phải có nhiều 
hình thức phân phối khác nhau.
Trong lý luận của C. Mác về phân phối nói chung, mỗi 
quan hệ sản xuất chủ đạo của một hình thái kinh tế - xã hội 
phải có một nguyên tắc phân phối chủ đạo. Trong chủ nghĩa 
xã hội, nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên tắc 
phân phối chủ đạo. Trong điều kiện kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao động ngày càng 
được xác lập để trở thành nguyên tắc phân phối chủ đạo. Lao 
động và sự hưởng thụ của mỗi người trong độ tuổi lao động 
được phân phối theo sự đóng góp sức lao động về số lượng 
và chất lượng. Hơn nữa, nhằm từng bước thực hiện công 
bằng xã hội trong phân phối thu nhập, các hình thức phân 
phối thông qua hình thức an sinh xã hội và phúc lợi xã hội 
là tất yếu trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhằm đảm bảo 
sự bình đẳng cho những người yếu thế và dễ bị tổn thương 
trong xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch 
mức sống giữa các vùng miền, đặc biệt là sự chênh lệch giữa 
thành thị với vùng sâu, vùng xa của đất nước. Mặt khác, sự 
đóng góp các nguồn lực vào quá trình sản xuất, như tri thức, 
tài sản, tư liệu sản xuất và kinh doanh có vai trò quan trọng 
trong việc huy động các nguồn lực về vốn, kinh nghiệm 
quản lý, trí tuệ nhằm tạo ra của cải cho xã hội. Do vậy, 
những sự đóng góp này cũng là cơ sở trong việc thực hiện 
phân phối hiện nay. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam 
chủ trương tôn trọng quyền tự do kinh doanh theo pháp luật 
của mọi công dân để làm giàu cho mình và đóng góp cho xã 
hội. Mọi thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác, 
cạnh tranh một cách bình đẳng và văn minh, tạo cơ hội bình 
đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch 
vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. 
Như vậy, có thể nói, cần giữ vững nguyên tắc phân phối 
theo lao động và làm cho nguyên tắc phân phối này ngày 
càng trở thành nguyên tắc phân phối chủ đạo trong xã hội, 
đồng thời cần vận dụng sáng tạo những hình thức phân phối 
khác. Quan hệ phân phối phải bảo đảm công bằng và tạo 
động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo 
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; 
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, 
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các 
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã 
hội, phúc lợi xã hội [7]. Phân phối theo kết quả lao động và 
hiệu quả kinh tế là sự vận dụng của Đảng ta về nguyên tắc 
phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lao động, mỗi 
người lao động đều tạo ra được một lượng sản phẩm nhất 
định với một lượng đóng góp nhất định, phân phối theo lao 
động chính là sự phân phối dựa trên cơ sở sự khác nhau về 
giá trị và đóng góp mà mỗi lao động mang lại cho sản phẩm 
của họ, hay sự hao phí sức lao động. Những người có giá 
trị lao động và sự đóng góp khác nhau được phân phối khác 
nhau. Ở đây, sự đóng góp đó bao gồm cả về lao động, nguồn 
vốn và mọi sự cống hiến khác. 
Ba là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát 
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là 
tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động.
Thông thường, người ta thường ít chú ý đến nội dung 
trong sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C. Mác mà 
chỉ quan tâm đến phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân 
như thế nào. Ở đây, có thể nói, nền sản xuất phát triển mới 
tạo ra tổng sản phẩm xã hội cao và do vậy, khi trừ đi những 
chi phí tất yếu như C. Mác đã nêu, bộ phận còn lại dành cho 
tiêu dùng cá nhân mới được đảm bảo. Sản xuất phát triển, 
kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra được nhiều của cải vật chất, từ 
đó, có thể giải quyết các vấn đề xã hội bức thiết, như nâng 
cao mức sống người dân, tăng cường phúc lợi, giảm bớt 
tình trạng thất nghiệp, đảm bảo mọi người có việc làm ổn 
định... Kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nhân 
loại qua hàng nghìn năm. Nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa tư 
bản xuất hiện, kinh tế thị trường mới có sự phát triển vượt 
bậc và đạt đến trình độ cao. Ở Việt Nam hiện nay, phát triển 
kinh tế thị trường nhằm tăng năng suất lao động là yêu cầu 
tất yếu khách quan. Bởi vì, mục tiêu quan trọng nhất của 
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức 
sản xuất, nhằm động viên mọi nguồn lực để thực hiện công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất 
hiện đại cho đất nước, cải thiện đời sống nhân dân. Trên cơ 
sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng “nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh 
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị 
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù 
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh 
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản 
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh” [7]. Sự khác biệt giữa nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh 
tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở chỗ, kinh tế thị trường xác 
lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động 
nhằm phục vụ lợi ích của đông đảo người lao động. Trong 
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chế độ phân phối 
dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nhằm phục vụ nhà 
tư bản.
Tuy nhiên, phát triển phải đi liền với mục tiêu đảm bảo 
sự bền vững cho đời sống xã hội, không thể lấy phát triển 
kinh tế làm mục tiêu duy nhất mà bất chấp đánh đổi môi 
trường và công bằng xã hội. Do đó, phát triển nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu tăng 
trưởng kinh tế, tạo tiền đề vật chất để thực hiện công bằng 
xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội trở thành động lực thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, có thể nói, phát triển 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
5821(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
là nhằm phát triển bền vững và thực hiện công bằng xã hội. 
Đó là một quá trình phát triển đầy khó khăn của đất nước 
khi hướng đến sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, văn 
hóa, giáo dục bảo vệ môi trường, từ đó con người được 
phát triển một cách toàn diện.
Bốn là, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối được thị trường điều tiết, 
trong đó có sự tham gia điều hành, quản lý của Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở 
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự 
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận hành theo cơ chế thị 
trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và 
bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường 
được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có 
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững 
nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa 
đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh [6]. Nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo những quy luật 
khách quan vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật 
cung - cầu, quy luật cạnh tranh Thị trường quyết định 
giá cả và phân bổ các nguồn lực. Hơn nữa, nền kinh tế thị 
trường ở nước định hướng phát triển theo mục tiêu xã hội 
chủ nghĩa, vì vậy cần có sự quản lý điều hành của nhà nước 
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, 
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Một trong những đặc 
trưng quan trọng nhất trong định hướng xã hội chủ nghĩa 
của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là thực hiện công 
bằng xã hội. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối được thị trường điều 
tiết, song có sự tham gia điều hành, quản lý của Nhà nước. 
Ở đây, sự khác biệt về thu nhập của các cá nhân vẫn tồn tại. 
Điều đó có nghĩa là, trong phân phối không có sự cào bằng, 
bình quân chủ nghĩa. Nhà nước có chức năng phân phối và 
phân phối lại thu nhập xã hội. Sự điều tiết của Nhà nước có 
mục tiêu cơ bản đối với phân phối thu nhập cá nhân là thực 
hiện công bằng, nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách thu 
nhập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi thành viên trong xã 
hội được tiếp cận giáo dục, y tế, vốn... Nhà nước phải tận 
dụng thế mạnh của cơ chế thị trường để giải phóng sức sản 
xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đồng thời, phải kết hợp 
các công cụ, như chính sách, pháp luật, kế hoạch và thuế... 
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để đảm bảo công bằng 
xã hội trước hết Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập 
quốc dân một cách công bằng thông qua các hình thức phân 
phối đa dạng, trong đó, phân phối theo lao động cần được 
thể hiện như là hình thức phân phối chủ đạo của xã hội. 
Điều này thể hiện tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị 
trường ở Việt Nam.
Năm là, thu nhập của người lao động phải liên hệ với 
thành quả lao động và năng suất lao động, nghĩa là trong 
quan hệ phân phối, phải có sự tương ứng giữa lao động và 
thu nhập theo hướng người lao động được hưởng thành quả 
từ sự tăng trưởng năng suất lao động. 
Trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thu nhập 
của người lao động bị tách rời, không có liên quan gì với 
lượng lao động cá nhân. Mối liên hệ giữa lao động và thu 
nhập bị tách rời, bởi vì lao động với tư cách thước đo phân 
phối không tồn tại trên thực tế. Trong thời kỳ trước đổi mới 
(trước năm 1986), xuất phát từ quan điểm cho rằng chế độ 
tư hữu là nguồn gốc của mọi sự bất công, chế độ tư hữu bị 
xóa bỏ để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, 
nhưng trên thực tế, đó lại là chế độ phân phối mang tính 
bình quân, bị tách khỏi cơ sở lao động. Điều đó đã dẫn đến 
sự lười biếng, ỷ lại, làm mất đi tính tích cực của người lao 
động, không có động lực phát triển sản xuất và dẫn đến 
khủng hoảng kinh tế - xã hội vào đầu những 80 của thế kỷ 
XX.
Hiện nay, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam có nền kinh tế 
duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đời sống nhân dân từng bước 
được cải thiện và tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho 
đất nước. Tuy nhiên, mức lương tối thiểu của Việt Nam vẫn 
thuộc nhóm có mức lương tối thiểu thấp nhất trong khu vực 
ASEAN, chỉ cao hơn so với Lào, Campuchia và Myanmar. 
Chế độ lương thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của đời sống 
xã hội dẫn đến người lao động không có động lực phát triển. 
Những nước có năng suất lao động cao thường là những 
nước có mức lương cho người lao động cao. Năng suất lao 
động và mức lương cho người lao động có quan hệ tỷ lệ 
thuận với nhau. Khi chế độ trả lương, thưởng ở mỗi vị trí 
cho người lao động tương xứng với công sức hay thời gian 
lao động mà họ bỏ ra thì đó sẽ là động lực giúp người lao 
động làm việc. Và ngược lại thì người lao động sẽ có ít 
động lực phấn đấu hơn. Sự chênh lệch về tiền lương giữa 
các nước ASEAN phản ánh những sự khác biệt về năng suất 
lao động [8]. Như vậy, để đảm bảo mức lương tăng, đáp ứng 
với nhu cầu sinh hoạt cơ bản cho đông đảo người lao động, 
Việt Nam cần phải thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật 
vào trong sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Mặt khác, 
chúng ta cũng cần chú trọng nâng cao trình độ, kỹ năng cho 
người lao động, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. 
Trong bối cảnh đó, các chính sách điều chỉnh tiền lương của 
Việt Nam cần được cải thiện theo hướng đảm bảo vừa thúc 
đẩy sự phát triển sản xuất, vừa giúp người lao động hưởng 
thành quả từ tăng trưởng năng suất lao động.
Kết luận
Ở Việt Nam hiện nay, vận dụng, phát triển quan điểm 
của C. Mác về phân phối theo lao động phải phù hợp với 
quan hệ sản xuất ở nước ta. Mặt khác, hiện nay, ở nước ta, 
5921(10) 10.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
trình độ người lao động ở nhiều mức độ khác nhau. Trình 
độ đó của người lao động thể hiện ở các hình thức lao động 
như lao động trí óc, lao động chân tay, lao động giản đơn, 
lao động có trình độ cao... Chính sự khác biệt này tạo nên 
kết quả, hiệu suất lao động có sự khác nhau. Trong hoàn 
cảnh nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển, năng suất lao 
động chưa cao; lao động chỉ là phương tiện sinh sống, chưa 
trở thành nhu cầu, niềm say mê của mỗi người; trong hoàn 
cảnh này, phân phối theo lao động có vai trò thúc đẩy người 
lao động tích cực hơn, qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển. 
Phân phối theo lao động phải căn cứ vào số lượng, chất 
lượng, hiệu quả, mức đóng góp lao động của mỗi người và 
giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích vật chất với động 
viên tinh thần cho người lao động thì phân phối theo lao 
động mới phát huy tác dụng thúc đẩy sản xuất xã hội phát 
triển. Để thực hiện tốt những yêu cầu này, chúng ta cần 
phải đổi mới cơ chế quản lý, điều hành kinh tế, xã hội theo 
hướng hiện đại, hiệu quả, công bằng, minh bạch; đồng thời 
trong phân phối cần tránh rơi vào chủ nghĩa bình quân, cào 
bằng. Hơn nữa, Nhà nước không để sự chênh lệch quá mức 
khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chú trọng 
đến chính sách tiền lương, thưởng, phúc lợi và an sinh xã 
hội... nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người dân; tiếp 
tục chú trọng đầu tư nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, 
chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực 
hiện tốt phân phối theo lao động ở nước ta hiện nay sẽ mang 
lại nhiều tác dụng to lớn, góp phần tạo sự công bằng trong 
xã hội, khuyến khích người lao động tích cực, không ngừng 
nâng cao trình độ, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, tr.544, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội 1993.
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 6, tr.551, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội 1993.
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, tr.124-125, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội 1993.
[4] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 19, tr.31-37, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội 1995.
[5] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 2, tr.36-37, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội 1993.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ XI, tr.34-74, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết Hội nghị Trung 
ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa, 
quyet-hoi-nghi-trung-uong-5-khoa-xii-ve-hoan-thien-the-che-kinh-te-
thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-440462.html.
[8] Nguyễn Anh Bắc (2015), “Năng suất lao động ở Việt Nam hiện 
nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 5(90), tr.26-27.

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_c_mac_ve_phan_phoi_theo_lao_dong_va_van_de_pha.pdf