Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Ngân hàng được coi là lĩnh vực kinh doanh ít phát thải và thân thiện với môi trường. Là bên

cung cấp vốn đầu tư thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng có vai trò quan trọng, thậm

chí quyết định, đối với việc triển khai các dự án phát triển, mà trong đó nhiều loại dự án có

nguy cơ tác động xấu đến môi trường và xã hội (MT-XH) như thủy điện, khai khoáng hay

phát triển trồng cây công nghiệp. Như vậy, ngân hàng có thể gián tiếp gây ra ô nhiễm môi

trường, mất rừng, suy thoái đa dạng sinh học, thậm chí cả bất ổn xã hội. Trong bối cảnh yêu

cầu bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người ngày càng phổ biến, ngân hàng sẽ

phải đối mặt với không ít rủi ro khi các dự án vay vốn có thể bị chấm dứt, đình chỉ hoặc trì

hoãn do không đáp ứng được yêu cầu đảm bảo an toàn hoặc do các xung đột MT-XH phát

sinh, dẫn đến nguy cơ chủ đầu tư mất khả năng hoàn lại khoản vay.

Với nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiệu quả và sạch hơn, năm 2012 Chính phủ đã

ban hành Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm

2050, và Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020. Thực hiện

chiến lược này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao nhiệm vụ hoàn thiện thể chế và

tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục

vụ tăng trưởng xanh. Theo đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng

trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động tín dụng (tháng 3/2015) và

Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng

xanh đến năm 2020 (tháng 8/2015). Các chính sách này khuyến khích các tổ chức tín dụng

chủ động xây dựng chính sách quản lý rủi ro MT-XH cũng như thực hiện các giải pháp để

thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh.

Việt Nam hiện có 118 tổ chức tín dụng gồm 7 ngân hàng thương mại nhà nước, 28 ngân

hàng thương mại cổ phần, 55 ngân hàng liên doanh và nước ngoài, 27 công ty tài chính và

1 quỹ tín dụng nhân dân. Đến năm 2016 mới chỉ có 3 ngân hàng đã hoặc đang xây dựng

các chính sách nội bộ về quản lý rủi ro MT-XH. Điều này cho thấy hệ thống tổ chức tín dụng

Việt Nam chưa đạt được nhận thức chung về sự cần thiết phải áp dụng chính sách đảm bảo

an toàn MT-XH trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó, tín dụng xanh bước đầu đã được áp

dụng ở Việt Nam, tuy nhiên yêu cầu mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh đang

vấp phải nhiều cản trở như sau:

Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang trong mô hình phát triển phụ thuộc tài nguyên, vì vậy đảm

bảo sự cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường luôn là bài toán khó giải,

nhất là trong lĩnh vực năng lượng (nhiệt điện, thủy điện) hay khai khoáng.

Thứ hai, các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn đang chiếm vai trò chủ đạo với hơn 50%

thị phần; chịu sự chi phối và chỉ đạo trực tiếp từ nhà nước, nên có nhiệm vụ phải cấp tín

dụng cho một số ưu tiên đầu tư được nhà nước bảo trợ như năng lượng – là ngành hiện gây

ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và thiên nhiên.

pdf 48 trang yennguyen 9100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Chính sách môi trường trong 
hoạt động tín dụng của ngân hàng 
thương mại ở Việt Nam
Trần Thanh Thủy | Nguyễn Hồng Anh | Nguyễn Việt Dũng
Hà Nội, 2016
ANNIVERSARY
th
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng của ngân 
hàng thương mại ở Việt Nam 
Đề nghị trích dẫn: Trần Thanh Thủy, Nguyễn Hồng Anh và 
Nguyễn Việt Dũng, 2016. Chính sách môi trường trong hoạt động 
tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Trung tâm Con 
người và Thiên nhiên. Hà Nội, Việt Nam. 
Ấn phẩm này được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ John D. and 
Catherince T. MacArthur và Quỹ Đối tác các Hệ sinh thái trọng 
yếu (CEPF). Các vấn đề trình bày trong báo cáo không nhất thiết 
thể hiện quan điểm của nhà tài trợ. 
Bản quyền báo cáo thuộc Trung tâm Con người và Thiên nhiên 
(PanNature). Nội dung báo cáo có thể được sử dụng cho các 
mục đích phi thương mại, không cần xin phép nhưng cần trích 
dẫn nguồn.
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Con người và Thiên nhiên, 2016
Thiết kế và sáng tạo: admixstudio.com 
Hình ảnh minh họa trong ấn phẩm: Trung tâm Con người và 
Thiên nhiên
Mọi vấn đề liên quan đến ấn phẩm, xin vui lòng liên hệ: 
TRUNG TÂM CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN 
Phòng Nghiên cứu Chính sách 
Địa chỉ: Số 24 H2, Khu đô thị mới Yên Hòa, phường Yên Hòa, 
quận Cầu Giấy, Hà Nội
ĐT: (04) 3556 4001 – Fax: (04) 3665-8941
Email: policy@nature.org.vn 
Website: www.nature.org.vn 
Trang tin Con người và Thiên nhiên: www.thiennhien.net 
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 
Chính sách môi trường trong 
hoạt động tín dụng của ngân hàng 
thương mại ở Việt Nam
Trần Thanh Thủy | Nguyễn Hồng Anh | Nguyễn Việt Dũng
Hà Nội, 2016
Mục lục
Mục lục 2
Các từ viết tắt 3
Danh mục hình, hộp & bảng biểu 4
Lời nói đầu 5
Tóm tắt 6
Giới thiệu 8
Tổng quan chung về hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 9
Rủi ro môi trường - xã hội đối với các tổ chức tín dụng 13
Các sáng kiến quốc tế giảm thiểu rủi ro môi trường 19
Xây dựng và thực thi các chính sách môi trường ở Việt Nam 23
Phát triển chính sách đảm bảo an toàn môi trường trong hoạt động tín 
dụng: Trường hợp Sacombank
31
Thực tiễn thực hiện quản lý rủi ro môi trường tại các tổ chức tín dụng 35
Một số khó khăn về thực hiện chính sách môi trường trong hoạt động tín 
dụng ở Việt Nam
38
Kết luận và kiến nghị 41
Tài liệu tham khảo 43
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam2
Các từ viết tắt
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
ĐMC Đánh giá Môi trường Chiến lược
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DONRE Sở Tài nguyên và Môi trường
ĐTM Đánh giá Tác động Môi trường
EC Ủy ban Châu Âu
EP Nguyên tắc Xích đạo
EU Liên minh Châu Âu
EVN Tập đoàn Điện lực Việt Nam
IFC Công ty Tài chính Quốc tế
IISD Viện Phát triển Bền vững Quốc tế
MONRE Bộ Tài nguyên và Môi trường
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
TechcomBank Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam
TNMT Tài nguyên và Môi trường
UBGSTCQG Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
UBND Ủy ban Nhân dân
UNEP Chương trình Môi trường Liên Hiệp quốc
UNEPFI Chương trình Sáng kiến Tài chính Môi trường
UNGC Chương trình Hiệp ước Toàn cầu của Liên Hợp Quốc
VAMC Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam
VDB Ngân hàng Phát triển Việt Nam
VietcomBank Ngân hàng Ngoại thương
VietinBank Ngân hàng Công thương
WB Ngân hàng Thế giới
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 3
Danh mục hình, hộp & bảng biểu 
Bảng 1 - Số lượng các tổ chức tín dụng 10
Bảng 2 - Danh mục công ước, cam kết quốc tế Việt Nam đã ký kết trong 
lĩnh vực tài nguyên và môi trường 24
Bảng 3 - Danh mục các đối tượng phải thực hiện đánh giá môi trường 
chiến lược 27
Bảng 4 - Các nội dung thẩm định đối với dự án đề xuất vay vốn của Viet-
combank 37
Hình 1 - Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP 11
Hình 2 - Số liệu về dư nợ của Vietcombank đối với một số ngành tiềm ẩn 
rủi ro môi trường năm 2016 16
Hình 3 - Quy trình chung về quản lý môi trường trong cấp tín dụng 21
Hình 4 - Quy trình thẩm định tín dụng 36
Hộp 1 - Dự án xây dựng đập thủy điện trên sông Hằng (Ấn Độ) 15
Hộp 2 - Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) 17
Hộp 3 - Dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 2 18
Hộp 4 - Nguyên tắc Xích đạo 21
Hộp 5 - Chính sách môi trường của Sacombank 33
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam4
Lời nói đầu
Nhằm thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững. Chính phủ Việt 
Nam đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách và kế hoạch hành động nhằm lồng ghép 
và thực hiện các mục tiêu chiến lược về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Trong kế 
hoạch hành động của Chính phủ, các tổ chức tín dụng được xem là một thành phần quan 
trọng để hướng dòng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất thân thiện môi trường, giảm thiểu 
rủi ro và vì mục tiêu phát triển bền vững. 
Góp phần thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-
2020, tháng 03/2015, Thống đống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 
03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội 
trong hoạt động cấp tín dụng. Tháng 8/2015, Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định ban 
hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về Tăng 
trưởng xanh đến năm 2020. 
Báo cáo này được thực hiện trong hai năm, 2012 và 2016, với mục đích rà soát, tham vấn và 
phân tích các rào cản trong việc thúc đẩy tín dụng xanh và quản lý các rủi ro môi trường và 
xã hội tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Dựa trên các đánh giá, báo cáo cũng đề xuất 
các giải pháp chính sách để hỗ trợ các tổ chức tín dụng thực hiện tốt hơn mục tiêu thúc đẩy 
tín dụng xanh và quản lý tốt hơn các rủi ro môi trường – xã hội trong hoạt động cho vay 
vốn đối với các dự án phát triển. 
Qua báo cáo, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Quỹ MacArthur và Quỹ CEPF đã hỗ trợ tài 
chính cho nghiên cứu này. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Vụ Tín dụng và Viện Chiến 
lược Ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân 
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cùng nhiều ngân hàng thương mại khác đã cung cấp 
thông tin trong quá trình nghiên cứu. Hy vọng báo cáo này sẽ chia sẻ những thông tin hữu 
ích cho quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến đảm bảo an toàn 
môi trường – xã hội của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng của Việt Nam trong 
tương lai.
TRUNG TÂM CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 5
Tóm tắt
Ngân hàng được coi là lĩnh vực kinh doanh ít phát thải và thân thiện với môi trường. Là bên 
cung cấp vốn đầu tư thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng có vai trò quan trọng, thậm 
chí quyết định, đối với việc triển khai các dự án phát triển, mà trong đó nhiều loại dự án có 
nguy cơ tác động xấu đến môi trường và xã hội (MT-XH) như thủy điện, khai khoáng hay 
phát triển trồng cây công nghiệp. Như vậy, ngân hàng có thể gián tiếp gây ra ô nhiễm môi 
trường, mất rừng, suy thoái đa dạng sinh học, thậm chí cả bất ổn xã hội. Trong bối cảnh yêu 
cầu bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người ngày càng phổ biến, ngân hàng sẽ 
phải đối mặt với không ít rủi ro khi các dự án vay vốn có thể bị chấm dứt, đình chỉ hoặc trì 
hoãn do không đáp ứng được yêu cầu đảm bảo an toàn hoặc do các xung đột MT-XH phát 
sinh, dẫn đến nguy cơ chủ đầu tư mất khả năng hoàn lại khoản vay.
Với nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiệu quả và sạch hơn, năm 2012 Chính phủ đã 
ban hành Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 
2050, và Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020. Thực hiện 
chiến lược này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao nhiệm vụ hoàn thiện thể chế và 
tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục 
vụ tăng trưởng xanh. Theo đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng 
trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động tín dụng (tháng 3/2015) và 
Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng 
xanh đến năm 2020 (tháng 8/2015). Các chính sách này khuyến khích các tổ chức tín dụng 
chủ động xây dựng chính sách quản lý rủi ro MT-XH cũng như thực hiện các giải pháp để 
thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh.
Việt Nam hiện có 118 tổ chức tín dụng gồm 7 ngân hàng thương mại nhà nước, 28 ngân 
hàng thương mại cổ phần, 55 ngân hàng liên doanh và nước ngoài, 27 công ty tài chính và 
1 quỹ tín dụng nhân dân. Đến năm 2016 mới chỉ có 3 ngân hàng đã hoặc đang xây dựng 
các chính sách nội bộ về quản lý rủi ro MT-XH. Điều này cho thấy hệ thống tổ chức tín dụng 
Việt Nam chưa đạt được nhận thức chung về sự cần thiết phải áp dụng chính sách đảm bảo 
an toàn MT-XH trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó, tín dụng xanh bước đầu đã được áp 
dụng ở Việt Nam, tuy nhiên yêu cầu mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh đang 
vấp phải nhiều cản trở như sau:
Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang trong mô hình phát triển phụ thuộc tài nguyên, vì vậy đảm 
bảo sự cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường luôn là bài toán khó giải, 
nhất là trong lĩnh vực năng lượng (nhiệt điện, thủy điện) hay khai khoáng.
Thứ hai, các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn đang chiếm vai trò chủ đạo với hơn 50% 
thị phần; chịu sự chi phối và chỉ đạo trực tiếp từ nhà nước, nên có nhiệm vụ phải cấp tín 
dụng cho một số ưu tiên đầu tư được nhà nước bảo trợ như năng lượng – là ngành hiện gây 
ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và thiên nhiên.
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam6
Thứ ba, Chính phủ đã ban hành một số văn bản về thúc đẩy tín dụng xanh trong lĩnh vực tài 
chính ngân hàng, nhưng mới chỉ có tính chất định hướng, khuyến khích và chưa bắt buộc. 
Do vậy, vì mục tiêu lợi nhuận các ngân hàng hiện vẫn sẵn sàng chấp thuận cấp tín dụng cho 
các dự án mà không quan tâm đến nguy cơ, rủi ro tiêu cực đối với MT-XH.
Thứ tư, chính sách đảm bảo an toàn môi trường chưa được áp dụng bắt buộc và đồng bộ 
trong hệ thống ngân hàng. Khi một ngân hàng đặt ra nhiều yêu cầu về môi trường sẽ làm 
giảm tính cạnh tranh so với ngân hàng khác vì khách hàng có xu hướng tìm đến những 
ngân hàng với thủ tục cấp tín dụng đơn giản hơn, ít có rào cản về an toàn môi trường.
Thứ năm, do hạn chế thông tin, các ngân hàng chủ yếu dựa hoặc tham khảo quyết định của 
cơ quan có thẩm quyền về quy hoạch, ĐTM để xem xét cho vay vốn. Tuy nhiên, trên thực tế, 
các quyết định này chưa phải là căn cứ đáng tin cậy, nhiều dự án trong quy hoạch sau đó 
vẫn bị loại trừ, không cho phép thực hiện.
Thứ sáu, thực tiễn thực thi và tuân thủ chính sách, quy định môi trường ở Việt nam còn khá 
yếu; nhiều doanh nghiệp gây ô nhiễm vẫn được hoạt động và thậm chí được cấp phép mở 
rộng sản xuất; do vậy thiếu động lực để thúc đẩy cả ngân hàng và chủ dự án áp dụng các 
cơ chế đảm bảo an toàn tốt hơn.
Thứ bảy, mặc dù đã ban hành Chỉ thị 03, nhưng NHNN vẫn chưa xây dựng các hướng dẫn 
thực thi cụ thể; chưa ban hành được các cơ chế tài chính đặc thù cho dự án thân thiện môi 
trường, trong khi các dự án xanh, sử dụng công nghệ thân thiện môi trường lại đòi hỏi vốn 
đầu tư ban đầu rất lớn, thời gian thu hồi vốn rất dài.
Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với việc hướng các dòng đầu tư vào sản xuất xanh. Tuy 
nhiên, nhiệm vụ này chỉ thành công nếu có một chương trình cải tổ tổng thể và thực chất. 
Báo cáo đề xuất các giải pháp thúc đẩy tín dụng xanh cụ thể như sau: (i) Giảm thiểu sự chi 
phối của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng; (ii) Phân loại các ngành 
sản xuất và xây dựng hướng dẫn đánh giá công nghệ đối với từng ngành sản xuất để ngân 
hàng có cơ sở đối chiếu; (iii) Bản đồ hóa tất cả các quy hoạch và nghiên cứu khoanh vùng 
nhạy cảm; (iv) Tăng cường thực thi chính sách pháp luật môi trường bằng cách công khai 
thông tin và trao quyền giám sát cho cộng đồng; (v) Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro 
bằng cách công khai thông tin về các dự án đang xin vay vốn để thăm dò ý kiến dư luận; (vi) 
Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin giữa các bộ ngành và giữa các ngân hàng; (vii) Thành lập 
các quỹ hỗ trợ dự án xanh với lãi suất ưu đãi; (viii) Nâng cao năng lực cho cán bộ tín dụng 
về môi trường ; (ix) Nghiên cứu tham gia Nguyên tắc xích đạo.
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 7
Giới thiệu
Trong 30 năm qua, Việt Nam đã thực hiện mô hình tăng trưởng phụ thuộc tài nguyên với 
giá trị gia tăng thấp và nhiều hệ lụy môi trường. Với nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế theo 
hướng hiệu quả và sạch hơn, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng 
xanh từ năm 2012, trong đó ngành ngân hàng được giao nhiệm vụ hoàn thiện thể chế và 
tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục 
vụ tăng trưởng xanh. Năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 03/
CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động 
tín dụng vào tháng 3/2015, Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng nhằm thực hiện 
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 cũng chính thức được phê duyệt 
vào tháng 8/2015. Các văn bản này khuyến khích các tổ chức tín dụng thúc đẩy tăng trưởng 
xanh và chủ động xây dựng các chính sách quản lý rủi ro MT-XH trong quá trình xét duyệt, 
thẩm định cho vay vốn đầu tư, phát triển.
Ngân hàng thường được coi là lĩnh vực kinh doanh ít phát thải và thân thiện với môi trường. 
Tuy nhiên, là bên cung cấp vốn đầu tư, ngân hàng có vai trò quan trọng đối với quá trình 
thẩm định và triển khai các dự án phát triển, trong đó nhiều dự án có nguy cơ gây ra tác 
động tiêu cực và phí tổn lớn đến MT-XH như thủy điện, khai khoáng. Như vậy, ngân hàng 
có thể gián tiếp gây ra các hệ lụy MT-XH trước mắt và lâu dài nếu chủ đầu tư và các bên 
liên quan không tuân thủ và có các can thiệp thích hợp. Trong bối cảnh yêu cầu bảo vệ môi 
trường và đảm bảo quyền con người ngày càng được đề cao và giám sát chặt chẽ, ngân 
hàng do đó cũng phải đối mặt với không ít rủi ro khi dự án có thể bị chấm dứt, đình chỉ do 
các xung đột MT-XH dẫn đến việc chủ đầu tư chậm trễ hoặc mất khả năng hoàn lại khoản 
vay.
Báo cáo này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng và những khó khăn trong việc thực 
hiện Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi 
trường và xã hội trong hoạt động tín dụng với những khía cạnh cụ thể như sau: Rủi ro môi 
trường và xã hội hiện nay được nhìn nhận, đánh giá như thế nào trong quá trình xem xét 
cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại? Có những khó khăn, rào cản trong việc thực 
hiện thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt 
động tín dụng ở Việt Nam?
Dựa trên các phân tích, báo cáo cũng đề xuất các giải pháp để kiến nghị các tổ chức ngân 
hàng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ hướng dòng tài chính vào các ngành sản xuất sạch và 
quản lý tốt các rủi ro về MT-XH đối với các dự án vay vốn. Nội dung của báo cáo này tổng 
hợp kết quả rà soát, đánh giá thông qua quá trình tham vấn với các ngân hàng thương 
mại và các chuyên gia ... và môi trường trong hồ sơ xin vay vốn (xem Bảng 4). Đây là tình trạng phổ biến khi 
các ngân hàng mới chỉ dừng lại ở mức kiểm tra xem dự án xin vay vốn đã được phê duyệt 
(báo cáo) ĐTM hay chưa. Một mặt, các tổ chức tín dụng cho rằng chức năng đánh giá, thẩm 
định rủi ro môi trường thuộc về các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý môi trường; 
mặt khác các ngân hàng cho rằng cán bộ tín dụng (của họ) không có chuyên môn để có thể 
thẩm định các ảnh hưởng của dự án đến môi trường và xã hội, và trên thực tế việc đánh giá 
phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng.
Stt Nội dung thẩm định Stt Nội dung thẩm định
1 Năng lực và kinh nghiệm của khách hàng 6 Các nhà thầu thực hiện dự án
2 Quy trình công nghệ và thiết bị sản xuất 7 Thị trường tiêu thụ sản phẩm và 
dịch vụ
3 Nguyên vật liệu đầu vào và thị trường 
cung cấp
8 Các vấn đề môi trường và giải 
pháp giảm thiểu
4 Nguồn cung cấp điện, nước và nhiên liệu 9 Tổng mức đầu tư và cơ cấu nguồn 
vốn dự án
5 Nguồn cung cấp lao động 10 Hiệu quả tài chính và khả năng trả 
nợ của dự án
Bảng 4 - Các nội dung thẩm định đối với dự án đề xuất vay vốn của Vietcombank
Kết quả tham vấn các ngân hàng (năm 2012) cho thấy chưa có trường hợp dự án vay vốn 
nào phải đóng cửa do các vấn đề môi trường hoặc làm mất khả năng trả nợ của chủ dự án, 
ngoại trừ một số dự án bị chậm tiến độ giải ngân do vấn đề môi trường. Thực tiễn này cho 
thấy các ngân hàng chưa nhận thức được hoặc chưa đề cao tính cấp bách của phòng ngừa 
rủi ro MT-XH trong hoạt động tín dụng, nhất là trong bối cảnh mức độ tuân thủ quy định 
ĐTM của Luật Bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế. Rõ ràng, đây là một rào cản cần gỡ bỏ 
cho việc thực hiện Chỉ thị 03/CT-NHNN và Quyết định số 1552/QĐ-NHNN nhằm thúc đẩy 
đảm bảo an toàn MT-XH trong hoạt động ngân hàng cũng như tín dụng xanh.
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 37
MỘT SỐ KHÓ KHĂN VỀ THỰC HIỆN 
CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TRONG 
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam38
Để thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến 2020, góp phần 
thúc đẩy quá trình tăng trưởng xanh, hướng tới một nền kinh tế các-bon thấp, giảm cường 
độ phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên thiên nhiên, phát 
triển các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, Ngân hàng Nhà nước đã xác định một 
trong số các nhiệm vụ trọng tâm của ngành là “Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế về 
ngân hàng và tín dụng phù hợp với những mục tiêu tăng trưởng xanh”14. Nhiệm vụ này được 
xác định gồm có 02 nhóm hoạt động cụ thể như sau:
(a) Xây dựng định hướng phát triển ngân hàng xanh, bao gồm:
• Rà soát, bổ sung nội dung về tín dụng - ngân hàng xanh vào Chiến lược phát triển 
ngành ngân hàng đến năm 2020;
• Xây dựng đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
b) Hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp và góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 
xanh, gồm:
• Rà soát, lồng ghép các yêu cầu về bảo vệ môi trường vào các chính sách, quy định về 
hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng;
• Rà soát, nghiên cứu, xây dựng các quy định, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện 
đánh giá rủi ro MT-XH trong hoạt động cấp tín dụng.
Năm 2016, PanNature đã tiến hành tham vấn Vụ Tín dụng, Viện Chiến lược ngân hàng (thuộc 
Ngân hàng Nhà nước) và một số ngân hàng thương mại như BIDV, VietcomBank về tính khả 
thi của thực hiện ngân hàng xanh, tín dụng xanh và quản lý rủi ro MT-XH trong hoạt động 
tín dụng. Phản hồi cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần được xem xét như sau: 
Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang ở trong mô hình phát triển phụ thuộc tài nguyên, do đó việc 
tìm kiếm sự hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường luôn là bài toán 
khó, nhất là trong lĩnh vực phát triển năng lượng (nhiệt điện, thủy điện, điện gió, điện mặt 
trời,..). Thực tế cho thấy chưa có nhiều dự án thân thiện môi trường được các nhà đầu tư đề 
xuất triển khai tại Việt Nam.
Thứ hai, yêu cầu cải cách thể chế hỗ trợ thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh dễ gặp phải 
rào cản từ NHTMNN (chiếm ưu thế với hơn 50% thị phần) hơn là các NHTMCP, do NHTMNN 
chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp của nhà nước trong việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho 
một số lĩnh vực, dự án kinh tế được bảo trợ nhưng lại có nguy cơ rủi ro cao về môi trường 
như nhiệt điện, khai thác khoáng sản.
Thứ ba, Chỉ thị 03- CT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước mới chỉ dừng lại ở tính chất định 
hướng và khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động thực hiện, thiếu các hướng dẫn 
pháp lý và kỹ thuật cần thiết để các ngân hàng tuân thủ hoặc áp dụng thích ứng, trong khi 
tiếp cận tín dụng xanh là những sáng kiến mới, có tính chuẩn mực quốc tế mà hệ thống tín 
dụng ở Việt Nam chưa có nhiều trải nghiệm.
Thứ tư, mối quan tâm và năng lực của các ngân hàng thương mại về chính sách môi trường 
trong hoạt động tín dụng vẫn rất còn hạn chế. Đây là một thách thức lớn vì đảm bảo an 
toàn môi trường và xã hội gắn liền với cải cách hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng, bao 
gồm cả tuân thủ các nguyên tắc về minh bạch, giải trình trách nhiệm và sự tham gia, hợp 
tác đa bên – là những yêu cầu có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận trước mắt của các ngân 
hàng trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
14. Thể hiện tại cả Chỉ thị 03/CT-NHNN và Quyết định 1552/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 39
Thứ năm, chính sách môi trường chưa được áp dụng một cách bắt buộc và đồng bộ trong 
toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh các ngân hàng đều nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận, 
việc tuân thủ các yêu cầu cao hơn về đảm bảo an toàn môi trường được cho là có thể làm 
giảm tính cạnh tranh, vì khách hàng thường có xu hướng tìm đến những ngân hàng với thủ 
tục cấp tín dụng cởi mở và đơn giản hơn.
Thứ sáu, các cơ chế tài chính đặc thù chưa được xây dựng đối với các dự án thân thiện môi 
trường, trong khi đó, các dự án xanh và sử dụng công nghệ thân thiện môi trường thường 
yêu cầu vốn đầu tư ban đầu rất lớn, thời gian thu hồi vốn rất dài; việc đảm bảo nguồn vốn 
cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án thân thiện môi trường còn gặp nhiều khó 
khăn.
Thứ bảy, các ngân hàng hiện nay thiếu các thông tin và căn cứ tin cậy về tác động môi 
trường từ dự án để xem xét cấp tín dụng, trong khi chất lượng thực hiện ĐMC và ĐTM còn 
nhiều tồn tại và hạn chế, thậm chí chưa được xem là cơ sở tin cậy.
Thứ tám, Việt Nam đã xây dựng rất nhiều các chính sách bảo vệ môi trường nhưng hiệu quả 
thực thi các quy định pháp luật còn rất hạn chế. Nhiều dự án gây ảnh hưởng lớn đến môi 
trường vẫn được phê duyệt ĐTM, hoặc nhiều dự án không đạt các quy chuẩn môi trường 
theo yêu cầu vẫn tiếp tục được phép hoạt động và thậm chí được chấp thuận mở rộng quy 
mô sản xuất. Việc thực thi chính sách pháp luật chưa nghiêm túc tạo ra sức ỳ cho cả ngân 
hàng và chủ dự án.
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam40
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 41
Là nguồn cung cấp vốn đầu tư, các tổ chức tín dụng có vai trò rất quan trọng trong việc 
hướng dòng tiền vào các lĩnh vực sản xuất sạch, qua đó thúc đẩy tăng trưởng xanh và 
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhiệm vụ thúc đẩy tín dụng xanh sẽ 
chỉ thành công nếu được đặt trong chương trình cải tổ tổng thể và thực chất, song hành 
cùng “quyết tâm chính trị” của Chính phủ, ngành ngân hàng cũng như bộ ngành liên quan 
và chính quyền các địa phương. Trong phạm vi báo cáo này, nhóm tác giả đưa ra một số 
khuyến nghị cụ thể để thúc đẩy tăng trưởng xanh và tăng cường quản lý rủi ro môi trường 
trong hoạt động tín dụng như sau:
Thứ nhất, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước trong các hoạt động kinh doanh của ngân 
hàng trong bối cảnh ngày càng phải cải thiện hệ thống quản trị theo chuẩn mực quốc tế 
để nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngân hàng cần được trao quyền tự quyết định và tự chịu 
trách nhiệm trong việc cấp tín dụng cho dự án dựa trên kết quả đánh giá về tính hiệu quả 
của dự án và năng lực của chủ đầu tư, nhất là các NHTMNN.
Thứ hai, phân loại và xếp hạng các lĩnh vực kinh tế theo mức độ tác động môi trường; đồng 
thời xây dựng các đánh giá, hướng dẫn và khuyến nghị cụ thể về công nghệ sản xuất đối 
với từng ngành sản xuất để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng xem xét và đối chiếu khi 
xem xét cấp tín dụng. Bên cạnh đó, nghiên cứu xây dựng danh sách ngành nghề nên hạn 
chế đầu tư và cấp tín dụng. 
Thứ ba, bản đồ hóa tất cả quy hoạch khác nhau để dễ dàng xác định các điểm chồng lấn; 
nghiên cứu khoanh vùng các khu vực nhạy cảm về sinh thái hoặc xã hội (như những vùng 
gần các khu bảo tồn thiên nhiên) với đầy đủ thông tin tin cậy (dữ liệu cơ sở) để các ngân 
hàng tham chiếu khi xem xét, quyết định cho vay vốn.
Thứ tư, xây dựng những chỉ số để đo lường và định lượng tăng trưởng tín dụng xanh. Có thể 
cấp chứng chỉ xanh cho những ngân hàng đạt yêu cầu; đồng thời cần xây dựng những cơ 
chế tài chính cụ thể để khuyến khích việc xanh hóa các ngân hàng.
Thứ năm, ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách công khai thông tin về dự án xin 
vay vốn để thăm dò ý kiến của các bên liên quan. Khuyến khích, hướng dẫn ngân hàng tăng 
cường tham vấn các chuyên gia độc lập và tổ chức môi trường về tác động tiềm ẩn của các 
dự án đề xuất. Ngoài ra, nên xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng về các 
dự án.
Thứ sáu, tăng cường thực thi chính sách pháp luật bảo vệ môi trường bằng cách công khai 
thông tin và trao quyền giám sát cho người dân. Cần nâng cao chất lượng thực hiện ĐMC 
và ĐTM bằng cách tăng cường sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình thẩm định 
và phê duyệt.
Thứ bảy, xây dựng chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ tín dụng về đảm 
bảo an toàn môi trường-xã hội; hướng dẫn các ngân hàng xem xét thành lập bộ phận quản 
lý rủi ro môi trường và xã hội với các cán bộ có chuyên môn phù hợp.
Thứ tám, nghiên cứu lập quỹ để hỗ trợ các dự án sản xuất xanh với lãi suất ưu đãi. 
Thứ chín, xem xét tham gia Nguyên tắc Xích đạo; tăng cường trao đổi và học hỏi áp dụng 
các chính sách đảm bảo an toàn của các ngân hàng và định chế tài chính quốc tế khác.
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam42
Tài liệu tham khảo
ADB. (2014). Vietnam: Financial sector assessment, strategy and roadmap. Mandaluyong 
City 1550 Metro Manila, Philippines. 
Anh, T. Q. (2014). Vấn đề nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Việt Nam và giải pháp xử lý. 
Truy cập tại  de no xau o cac ngan 
hang_Trinh Quang Anh.pdf
BankTrack. (2010a). Close the Gap. Njimegen.
BankTrack. (2010b). Close the gap: Benchmarking credit policies of international banks. 
Netherlands. Truy cập tại  
gap.pdf
Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về 
thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt 
động cấp tín dụng
Europa. (2016). Environmental Liability. Truy cập tại: 
legal/liability/index.htm
EVN. (2016). Công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân. Truy cập tại 
Cong-ty-Nhiet-dien-Vinh-Tan-2-296.aspx
Hà, Q. (2015). Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tiếp tục xả khỏi đen ra môi trường. Truy cập 
tại 
moi-truong-584887.html
Hoàng, T. (2016). Chất lượng tín dụng đã được cải thiện. Truy cập tại 
thesaigontimes.vn/144464/Chat-luong-tin-dung-da-duoc-cai-thien.html
IFC. (2010). Environmental Risk Management in Lending and Investment. Truy cập tại 
IHRB. (2011). Submission to the UN Working Group on Human Rights and 
Transnational Corporations and Other Business Enterprises. Truy cập tại http://
www.ohchr.org/Documents/Issues/TransCorporations/Submissions/CivilSociety/
InstituteForHumanRightsAndBusiness.pdf
IISD. (2013). Events and initiatives that have shaped the role of the banking sector in 
sustainable development. Truy cập tại 
timeline.aspx
Kình, C. V. (2015). Nguy cơ từ nợ khủng của doanh nghiệp nhà nước. Truy cập tại http://
tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20151125/nguy-co-tu-no-khung-cua-doanh-nghiep-nha-
nuoc/1008982.html
Trung tâm Con người và Thiên nhiên 43
Loman, H. (2015). Vietnam country report. Truy cập tại https://economics.rabobank.com/
publications/2015/february/country%2Dreport%2Dvietnam/
Mandal, K., & and Venkataramani, V. (2013). Environmental and Social Risks in Project 
Financing: Evidence from India. IFMR, 24, Kothari Road, Nungambakkam, Chennai 600 
034. Truy cập tại  Centre for Development Finance, IFMR
Minh, A. (2011). Yêu cầu 4 “đại gia” thoái vốn khỏi Công ty Cổ phần Sắt Thạch Khê. Truy cập 
tại 
sat-thach-khe-2011071209014640.htm
MONRE. (2013). Kết luận Thanh tra về việc chấp hành pháp luật về khoáng sản trong hoạt 
động khai thác tại mỏ sắt Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh của Công ty cổ phần 
sắt Thạch Khê. 
Nam Bình. (2010). Sacombank với Tín dụng xanh. Www.thanhnien.com.vn.
Nicholson, B., & Zuiderhoek, T. (1993). The Lender Liability Dilemma: Fleet Factors History 
and Aftermath. South Dakota Law Review, 38, 22–51.
Phước, H. T. (2015). Giải pháp xử lý tro xỉ than từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh TânNo Title. Báo 
Bình Thuận. Truy cập tại 
than-tu-nha-may-nhiet-dien-vinh-tan-76842.html
Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh
Quyết định 403/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020
Quyết định 1552/QD-NHNN ngày 06 tháng 8 năm 2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia 
về Tăng trưởng xanh đến năm 2020
Sacombank. Khẳng định vị thế: Báo cáo thường niên 2014. Báo cáo Phát triển 
bền vững năm 2014. Truy cập tại: https://www.sacombank.com.vn/company/
BaoCaoThuongNien/2014/BCTN_2014.pdf
SBV. (2015). Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh. Retrieved from Thúc đẩy tăng trưởng tín 
dụng xanh
Thủy, T. (2011). Mỏ sắt Thạch Khê: Bất động kéo dài, tương lai mờ mịt. VietnamNet. Truy 
cập tại 
dai-tuong-lai-mo-mit.html
Thủy, T. T. (2016). Tiếp nhận và quản lý đầu tư: Các lỗ hổng và rủi ro môi trường. 
PanNature. Truy cập tại 
Tiepnhanvaquanlydautu_TranThanhThuy.pdf
Trang, N. (2013). EVN vay thêm 2.500 tỷ cho hai dự án nhiệt điện. VnEconomy. Truy 
cập tại 
dien-20130107082734720.htm
Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia (2016). Báo cáo Tổng quan thị trường tài chính 2015.
{Bibliography
Chính sách môi trường trong hoạt động tín dụng 
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam44
Trung tâm Con người và Thiên nhiên là tổ chức phi lợi nhuận hoạt động 
nhằm bảo vệ môi trường, bảo tồn sự đa dạng và phong phú của thiên nhiên, 
nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương, thông qua tìm 
kiếm, quảng bá, thực hiện các giải pháp bền vững và thân thiện môi trường. 
Địa chỉ: Số 24 H2, Khu đô thị mới Yên Hòa, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, 
Hà Nội
ĐT: 04 35564 001 | Fax: 04 3556-8941
Email: contact@nature.org.vn 
Website: www.nature.org.vn 
Trang tin Con người và Thiên nhiên: www.thiennhien.net
Báo cáo được xuất bản với sự hỗ trợ của 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_moi_truong_trong_hoat_dong_tin_dung_cua_ngan_hang.pdf