Chuyên đề: Ngân hàng & Quản trị các định chế tài chính - Chuyên đề 2

1. NHTW – MỘT VIỄN CẢNH TOÀN CẦU

1.1. Hệ thống dự trữ Liên bang

1.1.1. Nguồn gốc ra đời của Hệ thống dự trữ LB:

Do người Mỹ không có lòng tin vào giới Ngân hàng và họ chống quyền lực tập trung, vì vậy họ

chống đối và chính điều này đã dẫn tới sự sụp đổ của 2 hệ thống Ngân hàng. Một vấn đề đưa ra ở đây là

không có người cho vay cuối cùng. Đến lúc này, họ cần có 1 NHTW, nhưng họ không muốn thành lập 1

NHTW duy nhất như ở Anh và Chính phủ không được can thiệp quá sâu vào công việc của NHTW. Lúc

nay, Quốc hội của Mỹ đã họp và đưa ra 1 đạo luật đó là Đạo luật về Quỹ dự trữ Liên Bang năm 1913- văn

bản tạo ra Hệ thống dự trữ Liên Bang với 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.

pdf 34 trang yennguyen 4940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề: Ngân hàng & Quản trị các định chế tài chính - Chuyên đề 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề: Ngân hàng & Quản trị các định chế tài chính - Chuyên đề 2

Chuyên đề: Ngân hàng & Quản trị các định chế tài chính - Chuyên đề 2
 1 
CHUYÊN ĐỀ 2: NGÂN HÀNG & QUẢN TRỊ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH 
1. NHTW – MỘT VIỄN CẢNH TOÀN CẦU 
1.1. Hệ thống dự trữ Liên bang 
1.1.1. Nguồn gốc ra đời của Hệ thống dự trữ LB: 
Do người Mỹ không có lòng tin vào giới Ngân hàng và họ chống quyền lực tập trung, vì vậy họ 
chống đối và chính điều này đã dẫn tới sự sụp đổ của 2 hệ thống Ngân hàng. Một vấn đề đưa ra ở đây là 
không có người cho vay cuối cùng. Đến lúc này, họ cần có 1 NHTW, nhưng họ không muốn thành lập 1 
NHTW duy nhất như ở Anh và Chính phủ không được can thiệp quá sâu vào công việc của NHTW. Lúc 
nay, Quốc hội của Mỹ đã họp và đưa ra 1 đạo luật đó là Đạo luật về Quỹ dự trữ Liên Bang năm 1913- văn 
bản tạo ra Hệ thống dự trữ Liên Bang với 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. 
1.1.2. Cấu trúc của Hệ thống dự trữ liên bang: 
1.1.2.1. Ngân hàng dự trữ LB : 
o Chiếm khoảng ¼ tổng tài sản, là NH liên bang quan trọng nhất. Hệ thống Dự trữ Liên bang 
chia nước Mỹ thành 12 khu vực, mỗi khu vữ có 1 NH dự trữ Liên bang lớn. Với 3 NH dự trữ liên 
bang lớn nhất là: NH New York, NH San Francisco, NH Chicago 3 NH này nắm trên 50% tổng 
tài sản của hệ thống dự trữ liên bang 
o NH dự trữ liên bang: là 1 tổ chức bán công (một phần là tư nhân, một phần là Chính phủ), 
thuộc sở hữu của các NH thương mại tư nhân trong khu vực là thành viên của Hệ thống Dự trữ 
Liên bang. Các NH thành viên này đã mua mua cổ phiếu của NH Dự trữ Liên bang trong khu vực( 
đây là yêu cầu để được chấp nhận là thành viên) vả mức cổ tức là 6%/ năm. 
o NH dự trữ liên bang gồm có: 
 06 Giám đốc: Do NH thành viên bầu. Giám đốc chia thành 3 loại: 
 Nhóm A: do NH thành viên bầu ra, là các nhà NH chuyên nghiệp 
 Nhóm B: do NH thành viên bầu ra, là các vị lãnh đạo hàng đầu đại diện cho ngành công 
nghiệp, công nhân, ông nghiệp hoặc người tiêu dùng. 
 Nhóm C: được hội đồng thống đốc bổ nhiệm, đại diện cho lợi ích công cộng (tức là toàn 
quốc). Họ không được phép là công chức, công nhân hoặc cổ đông của các NH. 
 Đảm bảo các giám đốc của mỗi NH dự trữ liên bang đại diện cho tất cả các thể chế tồn tại 
trong xã hội Mỹ. 
 03 người: Do hội đồng thống đốc bổ nhiệm 
 09 giám đốc này bỏ phiếu bầu ra thống đốc ngân hàng khu vực mình và phải được hội đồng 
thống đốc phê chuẩn 
 2 
 3 
o 12 NH dự trữ liên bang 
 Tham gia vào chính sách tiền tệ theo nhiều cách: 
1. “Thiết lập” lãi suất chiết khấu 
2. Họ quyết định ngân hàng nào có thể nhận được các khoản cho vay chiết khấu từ ngân 
hàng dự trữ liên bang 
3. Bầu một trong các nhà ngân hàng thương mại trong khu vực làm thành viên của Hội 
đồng cố vấn liên bang 
4. Năm trong số 12 thống đốc ngân hàng khu vức được quyền bỏ phiếu trong Ủy ban thị 
trường tự do liên bang. Trong đó có thống đốc của ngân hàng khu vực Niu Oóc và 4 thống 
đốc của các ngân hàng khu vực khác theo nguyên tắc luân phiên hàng năm 
 Thực hiện 8 chức năng: 
1. Thanh toán séc 
2. Phát hành tiền mới. Rút các đồng tiền cũ nát ra khỏi lưu thông 
3. Quản lý và thực hiện các khoản cho vay chiết khấu đối với những ngân hàng trong khu 
vực của mình 
4. Xem xét và đánh giá các vụ sáp nhập dự kiến và đơn mở rộng hoạt động của các ngân 
hàng 
5. Đóng vai trò là người liên lạc giữa cộng đồng doanh nghiệp và hệ thống dự trữ liên bang 
6. Giám sát các công ty nắm giữ ngân hàng và các ngân hàng thành viên thành lập theo 
quy chế bang 
7. Thu thập số liệu về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ở địa phương 
8. Sử dụng đội ngũ các nhà kinh tế chuyên nghiệp để nghiên cứu những đề tài liên quan 
đến chính sách tiền tệ 
1.1.2.2. Hội đồng thống đốc: 
o Cơ cấu tổ chức: 
 Gồm 7 người do tổng thống bổ nhiệm và hạ viện phê chuẩn 
 Làm việc 14 năm không tái nhiệm, 
 Là những người từ các khu vực khác nhau 
o Chủ tịch hội đồng thống đốc: 
 Được chọn trong số 7 thống đốc 
 Làm việc trong thời hạn 4 năm để tránh ưu ái địa phương 
 Khi chủ tịch mới được chọn thì cũng chính là lúc chủ tịch cũ ra khỏi hội đồng thống đốc 
o Thực thi chính sách tiền tệ 
 7 thống đốc là thành viên của FOMC và có quyền bỏ phiếu cho thực thi nghiệp vụ thị trường 
mở 
 Hội đồng đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc và kiểm soát lãi suất chiết khấu 
 Chủ tịch hội đồng tư vấn cho tổng thống về chính sách kinh tế, điều trần trước Quốc hội và 
là người phát ngôn của hệ thống dự trữ liên bang trước công chúng, đại diện cho nước Mỹ 
trong các cuộc thương lượng cấp chính phủ về các vấn đề kinh tế 
 Hội đồng có một đội ngũ các nhà kinh tế chuyên nghiệp có nhiệm vụ tiến hành các phân 
tích kinh tế mà hội đồng sử dụng để đưa ra các quyết định của mình 
1.1.2.3. Ủy ban thị trường tự do Liên bang (FOMC): FOMC gồm: 
o 7 thành viên của hội đồng thống đốc (chủ tịch hội đồng là chủ tịch FOMC) 
 4 
 Họp 8 lần/năm: đưa ra quyết định liên quan đến thực thi nghiệp vụ thị trường mở nhằm 
tác động cơ sở tiền tệ 
o Thống đốc ngân hàng dự trữ liên bang Niu Oóc . 
o Thống đốc của 4 ngân hàng dự trữ liên bang khác. 
 FOMC nhất thiết phải là tâm điểm cho quá trình hoạch định chính sách trong hệ thống 
dự trữ liên bang 
1.1.2.4. Ngân hàng thành viên ; 
o Tất cả các NH quốc gia đều là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang 
o Các NHTM theo quy chế bang không bắt buộc phải là thành viên,nhưng có thể tham gia theo 
nguyên tắc tự nguyện 
 Trước 1980 
 NH thành viên: gửi dự trữ tại NH dự trữ liên bang và không được hưởng lãi 
 NH không là thành viên: Chấp hành tỷ lệ dự trữ do bang quy định và nắm giữ dự trữ 
dưới dạng chứng khoán sinh lãi 
 Nhiều NH thành viên rời bỏ hệ thống. 
 Năm 1987: Tất cả các NH: 
 phải gửi dự trữ bắt buộc 
 có thể tiếp cận dịch vụ của NH dự trữ liên bang như chiết khấu, thanh toán séc 
 Bình đẳng như nhau 
o Fed độc lập như thế nào? 
 Fed độc lập 
 Có quyền quyết định sử dụng công cụ chính sách tiền tệ và quyết định mục tiêu của 
chính sách tiền tệ 
 5 
 Chịu ít sức ép về chính trị. Do các thành viên của Hội đồng thống đốc không những 
được bổ nhiệm cho nhiệm kì 14 năm và vì thế không thể bị sa thải; mà không được tái 
bổ nhiệm các vị thống đốc không có động cơ phải làm hài lòng chính phủ và Quốc 
hội. 
 Nguồn thu độc lập và lớn, và có quyền kiểm soát nói chung. Tổng cục kế toán và cơ 
quan kiểm toán của Chính phủ Liên bang không thể kiểm toán chính sách tiền tệ hoặc 
các chức năng thị trường chuyển hối đoái của Fed 
 Fed chịu tác động 
 Quốc hội: làm ra luật về quỹ dự trữ liên bang 
 Thay đổi sự độc lập của Fed bất cứ lúc nào 
 Để Fed có trách nhiệm hơn với hoạt động của mình 
 Tổng thống: 
 Tác động vào Quốc hội 
 Bổ nhiệm thành viên Hội đồng thống đốc và chủ tịch mới của Hội đồng thống 
đốc 
o Có nên để cho Fed độc lập? 
 Ủng hộ Fed độc lập: 
 Fed có điều kiện để quan tâm đến mục tiêu dài hạn như bảo vệ đồng $ mạnh và giá 
cả ổn định 
 Đặt Fed dưới sự kiểm soát của Quốc hội hay tổng thống có thể làm chu kỳ kinh doanh 
trở nên tồi tệ hơn do khi một cuộc bầu cử đến gần, chính sách tiền tệ mở rộng được sử 
dụng để cắt giảm thất nghiệp và lãi suất; sau cuộc bầu cử , tác động tiêu cực của chính 
sách này – lạm phát và lãi suất cao- xuất hiện và đòi hỏi phải thực hiện chính sách tiền 
tệ thu hẹp. 
 Đặt Fed dưới sự kiểm soát của Quốc hội hay tổng thống có thể sử dụng Fed để tài trợ 
cho thâm hụt ngân sách thông qua việc mua trái phiếu Kho bạc 
 Việc kiểm soát chính sách tiền tệ quá quan trọng nên không thể trao cho những người 
không đủ khả năng chuyên môn 
 Sự độc lập của Fed có thể tạo điều kiện cho nó theo đuổi các chính sách không hợp 
lòng dân nhưng vẫn phù hợp với lợi ích công chúng 
 Chống lại sự độc lập: 
 Fed độc lập sẽ do 1 nhóm người kiểm soát không chịu trách nhiệm với ai và không 
bị thay thế khi hoạt động không tốt 
 Quốc hội cũng biểu quyết cho những vấn đề dài hạn 
 Loại trừ sự chồng chéo hoặc trung hòa của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa 
 Không phải lúc nào Fed cũng sử dụng có hiệu quả quyền tự do của mình 
 Fed có thể theo đuổi quyền lợi của một số người chứ không phải của công chúng 
 Ai thích chính sách của Fed ủng hộ Fed độc lập. Ai không thích chính sách của Fed chống 
lại sự độc lập của Fed 
1.2. Lí giải hành vi của NHTW 
Có hai quan điểm lý giải về hành vi của NHTW: 
- Quan điểm thứ nhất là hành vi của NHTW phục vụ lợi ích công cộng 
- Quan điểm thứ hai là hành vi của NHTW nhằm tối đa hóa phúc lợi riêng của nó, vì vậy nó luôn 
tìm cách để làm tăng sức mạnh và địa vị của nó. Quan điểm này dự báo rằng Quỹ Dự Trữ Liên Bang 
Mỹ sẽ đấu tranh không khoan nhượng để duy trì quyền tự trị của mình. Dự báo này cũng đã được kiểm 
 6 
chứng khi Fed liên tục chống lại các nỗ lực của Quốc hội nhằm kiểm soát ngân sách của nó, và Fed đã 
rất thành công trong hoạt động vận động hành lang đối với giới ngân hàng và doanh nghiệp mỗi khi sự 
độc lập của nó bị đe dọa. Môt dự báo khác là Fed sẽ tìm cách né tránh các cuộc xung đột với các tập 
đoàn hùng mạnh, có thể đe dọa thu hẹp quyền lực và quyền tự trị của nó, bằng chứng là nó đôi khi chậm 
trễ trong việc tăng lãi suất để tránh xung đột với Quốc hội và Tổng thống và không làm minh bạch tất 
cả các hoạt động của nó. Ngoài ra, Fed còn thường xuyên theo đuổi các chiến dịch gia tăng quyền kiểm 
soát đối với các ngân hàng và kết quả là nó đã có được thẩm quyền pháp lý trong việc quy định tỷ lệ dự 
trữ bắt buộc cho tất cả các ngân hàng chứ không phải chỉ các ngân hàng thượng mại thành viên. 
1.3. Cấu trúc & sự độc lập của NHTW Châu Âu 
- Khi NHTW Châu Âu (ECB) ra đời năm 1999 thì Quỹ Dự Trữ Liên Bang Mỹ không còn là NHTW 
độc lập nhất thế giới. Tổng dân số của các nước thành viên Liên minh tiền tệ Châu Âu thì hơn Hoa Kỳ 
và GDP thì xấp xỉ Hoa Kỳ. Hiệp ước Maastricht đã tạo ra ECB và ESCB. Ngân hàng trung ương của 
mỗi quốc gia được gọi là NCB (NHTW quốc gia) có vai trò giống như ngân hàng Lander. Các quyết 
định được quyết định một cách tập trung bởi ECB và được thực hiện thông qua các NCB một cách phi 
tập trung 
- Các tổ chức thuộc Liên minh Châu Âu: ESCB gồm ECB và NHTW của 27 nước thành viên EU. 
Mặt khác Eurosystem gồm ECB và NCB của 17 nước sử dụng đồng Euro. ECB thuộc sở hữu của 17 
nước này và được thành lập ở trung tâm của ESCB và Eurosystem. ECB có tư cách pháp nhân theo luật 
quốc tế còn ESCB thì không. ESCB và Eurosystem sẽ cùng tồn tại và đến khi nào cả 27 nước thành viên 
đều sử dụng đồng Euro thì hai tổ chức này sẽ hợp nhất 
- Quá trình ra quyết định tại EMU diễn ra ở ba cấp: Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Hội đồng. 
Trong đó, Hội đồng quản trị ra quyết định, Ban điều hành chịu trách nhiệm về thực hiện hằng ngày các 
quyết định của Hội đồng quản trị và Hội đồng đóng vai trò là một cơ quan tư vấn 
- HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, BAN ĐIỀU HÀNH, HỘI ĐÔNG: 
+ Hội đồng quản trị: là cơ quan quyết định tối cao của ECB bao gồm 6 thành viên lãnh đạo và 17 
thống đốc của 17 ngân hàng trung ương quốc gia. Trách nhiệm của hội đồng quản trị là xây dựng chính 
sách tiền tệ đối với khu vực đồng Euro nhằm đáp ứng những mục tiêu chung của khu vực này. Ngoài ra 
nó ủy quyền cho NCB thay đổi lãi suất, giám sát các ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra nó còn có trách 
nhiệm hương dẫn để NCB thực hiện các quyết định đó. Hội đồng quản trị họp 2 tuần 1 lần. Trong phiên 
họp đầu tiên của tháng, các thành viên Hội đồng quản trị đáng giá các điều kiện kinh tế, tiền tệ và điều 
kiện phát triển trong EMU để đưa ra các quyết định liên quan đến các chính sách. Trong cuộc họp thứ 
hai của tháng,, Hội đồng quản trị sẽ thảo luận về các vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm của ECB và 
quá trình thực hiện chi tiết tại mỗi NCB. Hội đồng quản trị hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận chứ 
không lấy phiếu bởi vì họ lo sợ việc lấy phiếu sẽ có thể dẫn tới việc người đứng đầu các NCB sẽ thiên 
vị cho các chính sách mà có lợi cho quốc gia của họ. ECB sẽ thiết lập các chính sách lãi suất ngay sau 
khi cuộc họp kết thúc. ECB tổ chức một cuộc họp báo để công bố và các chủ tịch, phó chủ tịch của ECB 
trả lời các câu hỏi của nhà báo, điều này đòi hỏi chủ tịch, phó chủ tịch ECB phải có sự phản ứng nhanh 
nhạy. 
+ Ban điều hành: gồm chủ tịch, phó chủ tịch, và bốn thành viên khác, những người này được bổ 
nhiệm theo thõa thuận của những người đứng đầu của các quốc gia trong khu vực đồng Euro. Nhiệm vụ 
của Ban điều hành là thực hiện các chính sách tiền tệ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cho các NCB 
phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng quản trị. Ngoài ra Ban điều hành còn chịu trách nhiệm quản lý 
kinh doanh hàng ngày của ECB. 
+ Hội đồng: gồm chủ tịch, hoặc phó chủ tịch ECB, đại diện của 17 quốc gia trong khu vực đồng 
Euro và 11 quốc gia không thuộc khu vực đồng Euro. Chủ tịch hội đồng liên minh Châu Âu và thành 
 7 
viên của Ủy ban Châu Âu có thể tham dự cá cuộc họp của Hội đồng nhưng không có quyền biểu quyết. 
Hội đồng là cơ quan chuyển tiếp và sẽ giải thể khi tất cả các nước thành viên đều sử dụng đồng Euro. 
Hội đồng thực hiện việc tư vấn cho ngân hàng trung ương, thu thập thông tin thống kê và tiêu chuẩn hóa 
các hoạt động kế toán của NCB 
- Các ngân hàng trung ương quốc gia hoạt động trong Eurosystem như thế nào? Các NCB đóng 
một vai trò thiết yếu trong ESCB. Làm thế nào để ngân hàng trung ương quốc gia hoạt động phù hợp 
với hướng dẫn ECB? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu một trong những thành viên quan 
trọng nhất của ECB, đó là Deutsche Bundesbank. Lý do cho việc lựa chọn ngân hàng Bundesbank, bởi 
vì nó là ngân hàng trung ương quốc gia lớn nhất trong ECB và cũng hơn một nửa của khoản vay ngắn 
hạn liên ngân hàng do ngân hàng khu vực đồng EUR từ ngân hàng trung ương là do các ngân hàng 
Bundesbank. Nó cũng góp gần 20% vốn của ECB. Hơn nữa, ECB được mô hình hóa sau khi Deutshe 
Bundesbank một cách để đảm bảo hoàn toàn độc lập. 
- Deutsche Bundesbank: Năm 1948, các lực lượng Đồng Minh tạo ra Ngân hàng Deutscher Lander 
(BDL ) để hoạt động như các ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Liên bang Đức (West Germay 
) . Một hệ thống ngân hàng trung ương hai tầng được thành lập gồm các BDL và Lander (hoặc nhà nước 
). Ngân hàng trung ương có Chủ tịch được bổ nhiệm bởi các chính phủ Lander . Một hội đồng cao hơn 
bao gồm các thống đốc của ngân hàng trung ương Lander , một tổng thống liên bang bổ nhiệm và chủ 
tịch của BDL . Trong hệ thống ngân hàng trung ương phân cấp mạnh mẽ này, BDL được xem có nhiệm 
vụ chính trong việc tiến hành chính sách tiền tệ , phối hợp các chính sách và nhiệm vụ của các ngân 
hàng trung ương Lander và quản lý hệ thống ngoại hối của đất nước. Trong khi đó, các ngân hàng trung 
ương Lander là rất tự trị , với mỗi tiểu bang phát hành ghi chú tiền tệ , cùng với BDL . 
Năm 1957 ngân hàng Bundesbank, thay thế BDL như ngân hàng trung ương mới của Tây Đức và 
một cấu trúc mới đã được thông qua . Bundesbank , cũng có biệt danh là " Buba " đã trở thành nhà phát 
hành duy nhất của Deutsche Mark ghi chú tiền tệ và đã được yêu cầu hợp tác với các tổ chức hoạch định 
chính sách khác để đảm bảo mục tiêu và chính sách hài hòa. Hội đồng Ngân hàng Trung ương bao gồm 
mười đại diện chính quyền trung ương và mười một Lander Chủ tịch ngân hàng trung ương , được lựa 
chọn bởi chính phủ Lander . Cấu trúc này phục vụ các mục tiêu kép của chính sách phối hợp , đồng thời 
đảm bảo  ... á trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín 
dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế 
- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, các mục tiêu hoạt động của NHNN được quy định 
trong Luật có phần “ôm đồm”. Bởi lẽ, mục tiêu tối cao của NHTƯ là bảo đảm an toàn hoạt động của hệ 
thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền, những mục tiêu còn lại là hệ quả của việc đạt được các mục 
tiêu nêu trên. Chính bởi vậy, chỉ nên xác định mục tiêu của NHNN đó là “bảo đảm an toàn hoạt động của 
hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền trong nền kinh tế”.[15] Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì mục 
tiêu có rõ ràng thì NHTƯ mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của mình. Hơn nữa, như 
trên đã đề cập, việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một NHTƯ. 
Hai là, NHNN phải thực sự được độc lập trong quyết định thực thi chính sách và việc lựa chọn công cụ điều 
hành. Thống đốc phải được trao quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về 
các quyết định đó mà không cần phải thông qua Chính phủ. Đồng thời, NHNN phải được trao đầy đủ thẩm 
quyền trong việc lựa chọn các công cụ điều hành CSTT một cách linh hoạt và phù hợp nhất cũng như kiểm 
soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm phát, để có 
thể đạt được các mục tiêu CSTT mà Chính phủ hay Quốc hội đã đề ra. Điều này không những góp phần làm 
tăng tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố quan trọng làm giảm 
tính hiệu lực của chính sách. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách 
nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTƯ. 
Ba là, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm 
vụ khác như tạm ứng chi ngân sách hay tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên 
được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối theo đúng mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội 
phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có qui 
định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo hướng NHNN sẽ không cho ngân 
sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên 
thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.[16] 
Bốn là, trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính và độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ 
nhiệm và miễn nhiệm). Để thực thi tốt CSTT, NHNN cần phải thu hút được một đội ngũ đông đảo những 
chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải cạnh tranh được với các NHTM về 
môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Do đó, Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định 
sử dụng những khoản thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại 
hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi 
NHNN được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh, cục, vụ, viện 
trực thuộc. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng 
lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất. 
Ngoài ra, để nâng cao vai trò và chất lượng của sự phản biện trong việc thi hành chính sách, Thống đốc cần 
được trao quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu 
ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTƯ của các nước phát triển am hiểu về điều kiện kinh 
tế - xã hội Việt Nam. 
Năm là, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối với các mục tiêu và quyết 
định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định 
kỳ hoặc theo đề nghị của Quốc hội phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính 
sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao. 
 31 
Sáu là, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHNN với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt 
động của NHNN hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ, cụ thể: 
+ NHNN tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách kinh tế của Chính phủ và đề đạt ý kiến 
của mình về các quyết định của Chính phủ; tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến 
nhiệm vụ và thẩm quyền của NHNN. 
+ NHNN và các Bộ, ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin để theo dõi, nắm bắt 
kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế. 
Bảy là, tách bạch chức năng điều hành và quản trị. Điều hành NHNN được thực hiện bởi Ban điều hành, 
còn quản trị nên được thực hiện bởi Hội đồng quản trị (hoặc Hội đồng quản lý) NHNN. Hội đồng quản trị 
là cơ quan hoạch định chính sách trong lĩnh vực tiền tệ, làm việc theo nguyên tắc tập thể, còn Ban điều hành 
có trách nhiệm đưa các chính sách đó vào cuộc sống. Nếu NHNN được thiết kế theo mô hình quản trị này 
sẽ tạo ra được phương thức quản trị ngân hàng mang tính tổng thể, định hướng chiến lược lâu dài, tránh 
được hiện tượng thụ động, mang nặng tính hành chính và mệnh lệnh trong điều hành. Bên cạnh đó, hoạt 
động của Ban điều hành cũng phải bảo đảm tính minh bạch thông qua các hoạt động kiểm toán, kiểm soát 
nội bộ của NHNN. 
b. Trong dài hạn 
Trong tương lai dài hơn, có thể hướng tới: 
Một là, thực hiện “Chính sách lạm phát mục tiêu”. Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT 
mà theo đó, NHTƯ hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung và dài hạn về lạm phát và NHTƯ cam 
kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục 
tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Ngoài ra, người dân cũng phải được thông báo về 
khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT. 
Hai là, tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của ban lãnh đạo 
NHTƯ có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. 
Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu 
kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ không bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm 
kỳ. 
4. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam: 
Hiện nay ở Việt Nam có: 
 6 Ngân hàng thương mại nhà nước 
 1 Ngân hàng chính sách 
 35 Các ngân hàng thương mại cổ phần 
 50 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 
 4 Các ngân hàng liên doanh 
 5 Ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. 
 50 Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài 
 18 Công ty tài chính 
 12 Công ty cho thuê tài chính 
 968 Tổ chức tín dụng hợp tác 
 32 
1. Hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Ficombank và NH Việt Nam Tín Nghĩa: Ngày 01/01/2012, Ngân 
hàng Thương mại cổ phần Sài gòn (Ngân hàng hợp nhất) chính thức đi vào hoạt động sau khi hợp 
nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Đệ nhất 
(Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam Tín nghĩa. Trước khi hợp nhất, ba ngân hàng nói trên lâm vào 
tình trạng mất khả năng thanh khoản trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu do họ sử dụng nguồn vốn 
ngắn hạn cho vay trung dài hạn (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản), gặp khi thị trường biến động, 
nhất là khi nguồn vốn huy động ngắn hạn không còn dồi dào như trước nên rủi ro thanh khoản xảy 
ra. Trước tình hình này, hội đồng quản trị của ba ngân hàng đã tự nguyện sáp nhập với nhau thành 
một ngân hàng dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), và cần tới sự 
hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thông qua khoản vay tái cấp vốn. Tổng số vốn hỗ trợ liên ngân hàng 
của BIDV cho ba nhà băng (tính đến tháng 12/2012) là trên 2.400 tỷ đồng (trên tổng số tài sản được 
ba nhà băng đem ra đảm bảo là 30.000 tỷ đồng). 
Ngân hàng hợp nhất có vốn điều lệ 10.000 tỷ đồng, tổng tài sản là 150.000 tỉ đồng, và có hơn 200 
chi nhánh, phòng giao dịch. Theo thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện BIDV ký với 3 ngân hàng 
được hợp nhất, các bên tiến hành hợp tác trong các lĩnh vực: quản trị, điều hành, kiểm soát, nguồn 
vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ thương mại, thanh toán trong nước và thanh toán quốc 
tế, BIDV sẽ cấp cho FicomBank, TinNghiaBank và SCB hạn mức chung về nguồn vốn và kinh 
doanh tiền tệ, ngân hàng hợp nhất sẽ kế thừa hạn mức đó nhằm hỗ trợ chi trả cho người gửi tiền. Lộ 
trình hợp nhất được thiết kế trong đề án hợp nhất của ba ngân hàng và kéo dài trong ba năm, trong 
đó, năm đầu tiên tập trung xử lý nợ. Trong khoảng thời gian này, số tiền hỗ trợ từ BIDV cho ba ngân 
hàng hợp nhất đều là tiền vay mượn dưới dạng thế chấp bằng tài sản đảm bảm. 
Theo Ngân hàng Nhà nước, sau 1 năm tái cơ cấu, SCB đã được những tiến triển tích cực, cải thiện 
đáng kể tình trạng thanh khoản, năng lực tài chính thông qua các giải pháp tăng vốn điều lệ, gọi vốn 
của nhà đầu tư nước ngoài, củng cố giá trị tài sản đảm bảo, đẩy mạnh xử lý nợ và huy động vốn từ 
nền kinh tế của SCB tăng 35,9% trong năm 2012 và tăng 7% trong 2 tháng đầu năm 2013. Nhờ vậy, 
SCB đã bảo đảm an toàn tài sản của Nhà nước, chi trả bình thường các đối với các khoản tiền gửi 
của dân chúng và thanh toán được hầu hết các khoản nợ vay tái cấp vốn của NHNN. Hiện tại, dưới 
sự giám sát chặt chẽ của NHNN, SCB đang đẩy mạnh triển khai các giải pháp cơ cấu lại tổng thể, 
bao gồm cả cơ cấu lại các khoản tiền vay/tiền gửi của các TCTD và tổ chức tài chính nhận ủy thác 
của TCTD theo kế hoạch tái cơ cấu giai đoạn 2013-2014 và Phương án cơ cấu lại nợ thị trường 2 (thị 
trường liên NH) đã được NHNN phê duyệt. 
2. Sáp nhập Habubank vào SHB: Ngày 28/8/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội 
(Habubank) chính thức sáp nhập vào ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB). Với 
Habubank, các khoản cho vay và đầu tư trái phiếu gắn với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam 
(Vinashin) được xác định là gánh nặng lớn nhất dẫn đến những khó khăn phải tính đến sáp nhập. Tỷ 
lệ nợ xấu của Habubank trước khi sáp nhập là 23,66% (tương đương 3.729 tỷ đồng). Ngân hàng SHB 
 33 
sau khi sáp nhập Habubank sẽ có tổng tài sản gần 120.000 tỷ đồng (tương đương với quy mô của các 
nhà băng trong khối G14). Tổng vốn điều lệ sẽ gần 9.000 tỷ đồng. Sau sáp nhập, tổng số nhân viên 
của SHB sẽ đạt gần 5.000 người, bằng nhân viên của hai nhà băng cũ gộp lại. SHB sẽ tiếp quản 90 
điểm giao dịch, chi nhánh, quỹ tiết kiệm của Habubank. Sau khi sáp nhập, ngân hàng SHB mới sẽ 
có hệ số an toàn vốn CAR là 11,39%, đạt tiêu chuẩn quốc tế (CAR của Habubank trước đây chỉ hơn 
4%). 
Theo báo cáo kết quả kinh doanh 2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội lãi 1.000 
tỷ đồng trong quý IV giúp giảm số lỗ cả năm xuống còn 95 tỷ đồng. Nếu tính cả khoản lợi nhuận còn 
để lại của năm trước (122 tỷ đồng), nhà băng này vẫn lãi lũy kế 27 tỷ đồng. Năm 2011, khi chưa sáp 
nhập với Habubank, SHB lãi sau thuế hơn 1.000 tỷ đồng. So với năm 2011, lợi nhuận thuần từ hoạt 
động kinh doanh (trước khi trừ chi phí dự phòng rủi ro) của SHB giảm 59% khi chỉ đạt 460 tỷ đồng. 
Một trong những nguyên nhân khiến lợi nhuận của SHB đảo chiều so với năm 2011 là do chi phí 
hoạt động của năm 2012 lên tới 2.309 tỷ đồng (gấp 2 lần của năm 2011), chi phí dự phòng rủi ro tín 
dụng cũng tăng gấp 5 lần. Dư nợ cho vay đến hết ngày 31/12/2012 đạt gần 55.562 tỷ đồng, tăng 
trưởng tới 95%. Tuy nhiên, SHB phải trích lập DPRR cho vay khách hàng tới 1.251 tỷ đồng. Lượng 
tiền gửi của khách hàng tính đến cuối năm 2012 của SHB đạt 77.598 tỷ đồng, tăng tới 120% so với 
năm 2011. Sau khi sáp nhập Habubank, SHB phải gánh thêm những khoản lỗ và nợ xấu. Theo báo 
cáo tài chính của SHB, tính đến 31/12/2012, nợ xấu của SHB còn khoảng 4.847 tỷ đồng (tương 
đương 8,5% tổng dư nợ). 
3. Ngân hàng Đại Tín -TrustBank: Vào trung tuần tháng 9/2012, NHNN đã có văn bản chấp thuận 
về nguyên tắc cho Trust Bank triển khai phương án tái cơ cấu. Theo tiến trình này, TrustBank tập 
trung sử dụng nguồn lực từ các tập đoàn, tổ chức, cá thể kinh tế tư nhân trong nước để tái cơ cấu, mà 
không sử dụng vốn ngân sách. Hiện ngân hàng này đang gọi vốn từ cổ đông chiến lược trong nước 
với tỷ lệ cổ phần chi phối tương đối lớn, nhằm xử lý thanh khoản và cải thiện công tác quản trị rủi 
ro khi có sự tham gia của nhân tố mới. Trong ngắn hạn, TrustBank tiếp tục phát triển các sản phẩm 
dịch vụ tài chính ngân hàng truyền thống, phát huy vai trò ngân hàng “tam nông” tại khu vực trọng 
điểm ĐBSCL, dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại các trung tâm kinh tế và bước đầu triển khai nhóm sản 
phẩm, các dịch vụ phục vụ ngành vật liệu xây dựng, nhà ở bình dân. Sau khi hoàn thành tiến trình 
tái cơ cấu, hoạt động của TrustBank sẽ đảm bảo an toàn, lành mạnh và hiệu quả. 
4. Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) hợp nhất với PVFC: Western Bank, tiền thân là một 
ngân hàng từ nông thôn với vốn điều lệ ban đầu chỉ 320 tỷ đồng, đến 2011 thì lên đến 3.000 tỷ đồng. 
Do lớn quá nhanh nên cũng như nhiều ngân hàng khác, việc quản trị và kiểm soát rủi ro trở thành 
một vấn đề lớn đối với Western Bank. Bên cạnh đó, một tỷ lệ rất lớn tín dụng của nhà băng lại dành 
cho các doanh nghiệp sân sau, cổ đông nội bộ dẫn đến nhiều rủi ro cho Ngân hàng. 
Nằm trong tiến trình tái cơ cấu bắt buộc, Western Bank đã gây chú ý nhiều cho thị trường tài chính 
gần đây về việc sáp nhập với Tổng công ty cổ phần Tài chính dầu khí (PVFC). Ngày 16/3/2013, tại 
Cần Thơ, NHTMCP Phương Tây (Western Bank) Đại hội cổ đông năm 2013 đã thông qua kế hoạch 
hợp nhất với PVFC. Western Bank đã trình NHNN Đề án hợp nhất với PVFC. 
Một trong những mục đích của việc hợp nhất giữa Western Bank và PVFC được nêu ra là giải quyết 
được sự tồn tại của Western Bank; nâng cao hiệu quả, năng lực hoạt động, sức cạnh tranh cho PVFC 
và giảm được phần vốn góp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) tại PVFC. Như vậy, 
Western Bank vừa có tiền để giải quyết các món nợ, làm trong sạch tình hình tài chính của mình. 
Bên cạnh đó, với tỷ lệ sở hữu hiện tại của PVN tại PVFC là 78% có thể sẽ giảm xuống còn 48% sau 
hợp nhất. Điều này sẽ giúp PVN từng bước thực hiện lộ trình thoái vốn tại các công ty con theo quy 
định. Ngân hàng sau hợp nhất dự kiến có tổng tài sản 105.641,59 tỷ đồng, với số vốn điều lệ 9.000 
 34 
tỷ đồng sẽ được duy trì trong 3 năm 2012, 2013, 2014 và được tiếp tục tăng lên 12.000 tỷ đồng trong 
năm 2015. 
5. Ngoài ra, còn một số NH tự tái cơ cấu như NaviBank, TrustBank, TienphongBank và GP Bank. 
Theo đánh giá của các chuyên gia, tái cơ cấu ngân hàng đạt được kết quả bước đầu sau 1 năm thực 
hiện. Trong đó, đáng chú ý là an toàn hệ thống các TCTD được cải thiện rõ rệt; nguy cơ đổ vỡ hệ 
thống từng bước được đẩy lùi; tài sản của Nhà nước và nhân dân được bảo đảm an toàn; tiền gửi của 
nhân dân được chi trả bình thường, kể cả ở ngân hàng yếu kém. Các TCTD yếu kém có nguy cơ đổ 
vỡ đã được NHNN kiểm soát chặt chẽ và từng bước được xử lý bằng các giải pháp thích hợp nhờ đó 
thị trường tiền tệ dần đi vào ổn định /. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_2_ngan_hang_quan_tri_cac_dinh_che_tai_chinh.pdf