Cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam trong bối cảnh gia nhập hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

Tóm tắt: Nghiên cứu này phân tích tình hình thương mại của ngành dệt may của Việt Nam trong bối cảnh

gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bằng việc sử dụng các chỉ số thương mại và

tính toán cơ cấu xuất, nhập khẩu các nhóm sản phẩm của ngành, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng TPP là thị

trường chính của hàng dệt may Việt Nam, nhưng mức độ tập trung thương mại chỉ ở một vài thành viên

TPP như Mỹ, Nhật Bản, Canada. Lợi thế cạnh tranh của ngành chỉ biểu hiện ở 2 nhóm sản phẩm cuối cùng

(quần áo và hàng dệt may phụ trợ) trong 14 nhóm sản phẩm phân theo mã HS (The Harmonized System)

của ngành. Như vậy, Việt Nam có cơ hội gia tăng xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực TPP. Tuy nhiên,

cơ hội này chỉ được tận dụng tối đa khi mà Việt Nam đảm bảo được quy tắc xuất xứ sản phẩm. Điều đó có

nghĩa là Việt Nam cần phải tăng cường năng lực sản xuất đầu vào hoặc thay đối cơ cấu nhập khẩu của

ngành nhằm thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng của ngành dệt may.

pdf 12 trang yennguyen 3820
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam trong bối cảnh gia nhập hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam trong bối cảnh gia nhập hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

Cơ hội và thách thức của dệt may Việt Nam trong bối cảnh gia nhập hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
 Tạp chí Khoa học – Đại học Huế 
ISSN 2588–1205 
Tập 126, Số 5A, 2017, Tr. 173–184 
* Liên hệ: hoanphan@hce.edu.vn 
Nhận bài: 05–12–2016; Hoàn thành phản biện: 13–02–2017; Ngày nhận đăng: 26–4–2017 
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA DỆT MAY VIỆT NAM 
TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN 
THÁI BÌNH DƯƠNG 
Phan Thanh Hoàn* 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế, 99 Hồ Đắc Di, Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam 
Tóm tắt: Nghiên cứu này phân tích tình hình thương mại của ngành dệt may của Việt Nam trong bối cảnh 
gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bằng việc sử dụng các chỉ số thương mại và 
tính toán cơ cấu xuất, nhập khẩu các nhóm sản phẩm của ngành, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng TPP là thị 
trường chính của hàng dệt may Việt Nam, nhưng mức độ tập trung thương mại chỉ ở một vài thành viên 
TPP như Mỹ, Nhật Bản, Canada. Lợi thế cạnh tranh của ngành chỉ biểu hiện ở 2 nhóm sản phẩm cuối cùng 
(quần áo và hàng dệt may phụ trợ) trong 14 nhóm sản phẩm phân theo mã HS (The Harmonized System) 
của ngành. Như vậy, Việt Nam có cơ hội gia tăng xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực TPP. Tuy nhiên, 
cơ hội này chỉ được tận dụng tối đa khi mà Việt Nam đảm bảo được quy tắc xuất xứ sản phẩm. Điều đó có 
nghĩa là Việt Nam cần phải tăng cường năng lực sản xuất đầu vào hoặc thay đối cơ cấu nhập khẩu của 
ngành nhằm thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng của ngành dệt may. 
Từ khóa: dệt may, TPP, xuất khẩu, Việt Nam, lợi thế cạnh tranh 
1 Đặt vấn đề 
Trong một loạt Hiệp định thương mại tự do – (Free-Trade Agreement- FTA) thế hệ mới 
mà Việt Nam tham gia đàm phán đã và đang được hoàn tất, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) và Hiệp định FTA Việt Nam – EU (EVFTA) được kỳ vọng sẽ tạo ra làn sóng hội 
nhập lần thứ hai mạnh mẽ hơn đối với nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, những ngành hàng chủ 
lực của Việt Nam, nhất là dệt may được kỳ vọng sẽ là những ngành hàng được hưởng lợi nhiều 
nhất. 
Thống kê của Hiệp hội Dệt May Việt Nam năm 2015 cho thấy ngành dệt may Việt Nam 
đang đóng góp 10 % giá trị sản xuất công nghiệp [3]. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 5 
năm 2011–2015 đạt 14,77 %/năm, đưa dệt may trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu cao thứ 
hai và đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, duy trì được vị trí 5 
nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong 
năm 2015 đạt khoảng hơn 29 tỷ USD, tăng hơn 10 % so với năm 2014. Dệt may đã trở thành 
ngành tạo công ăn việc làm cho 5 % lao động công nghiệp, với hơn 2,5 triệu lao động tại 5.000 
doanh nghiệp (DN) lớn nhỏ. 
Dệt may là ngành được quan tâm nhiều nhất trong TPP, khi mà 12 nước thành viên đã 
đồng ý dành chương riêng cho ngành công nghiệp vốn được đánh giá là có vai trò rất quan 
trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường của các nước TPP. TPP cũng đặt ra yêu cầu 
cụ thể về quy tắc xuất xứ, tức là các DN phải sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP, nhằm thúc đẩy 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
174 
việc thiết lập các chuỗi cung ứng và đầu tư vào lĩnh vực này. Theo đó, các nhà xuất khẩu chỉ 
cần chứng minh được nguồn gốc xuất xứ hàng hóa thì sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan. 
Các nước tham gia TPP là đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là Mỹ và 
Nhật Bản. Có đến 40 % giá trị hàng hóa của Việt Nam được xuất sang 11 nước trong TPP, trong 
đó những mặt hàng quần áo, dệt may và giày chiếm đến 31 % tổng giá trị. Việc Mỹ rút khỏi TPP 
hoặc trong kịch bản xấu hơn là không có TPP đòi hỏi các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh gay 
gắt hơn bởi không có sự hỗ trợ của việc cắt giảm thuế. Tuy nhiên, Mỹ và Nhật Bản vẫn là hai thị 
trường chính của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Do đó, kết quả của tình huống trên cũng 
không có nghĩa là ngành dệt may đi vào suy giảm. 
Vì vậy, việc phân tích cơ hội và thách thức của ngành dệt may trong bối cảnh hội nhập 
TPP có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra hàm ý về chính sách nhằm khai thác tối ưu cơ hội 
xuất khẩu sang thị trường TPP, góp phần thúc đẩy ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới. 
2 Phương pháp nghiên cứu 
Để phân tích thực trạng và cơ hội của ngành dệt may Việt Nam trong TPP, nghiên cứu 
này tập trung phân tích xuất khẩu dệt may theo các nhóm mã ngành HS và đánh giá cơ hội xuất 
khẩu dựa vào các chỉ số thương mại (Trade Indicators) đó là: chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện 
(Revealed Comparative Advantage – RCA) nhằm đánh giá lợi thế so sánh của các nhóm hàng dệt 
may; chỉ số thương mại nội ngành (Intra Industry Trade – IIT) nhằm phân tích hiện trạng thương 
mại trong cùng ngành dệt may giữa Việt Nam với các nước TPP; và chỉ số tập trung thương mại 
(Trade Intensity Index – TII) nhằm xác định mức độ tập trung xuất khẩu của Việt Nam vào các thị 
trường TPP so với mức trung bình của thế giới [2], [7]. Trên cơ sở những phân tích đó, nghiên 
cứu sẽ đưa ra các hàm ý chính sách giúp Việt Nam nắm bắt các cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu 
dệt may sang thị trường TPP tiềm năng. 
Chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện của một sản phẩm được đo bằng tỷ trọng xuất khẩu của 
sản phẩm đó trong xuất khẩu của quốc gia so với tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm đó trong 
xuất khẩu của thế giới, và được tính toán theo công thức 
 (
⁄ ) (
⁄ ) 
trong đó xij và xwj là giá trị kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm j của quốc gia i và thế giới; Xit và 
Xwt là tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia i và thế giới. Nếu RCA lớn hơn 1 thì quốc gia I 
được coi là có lợi thế so sánh về sản phẩm j so với thế giới. Ngược lại, nếu RCA nhỏ hơn 1 biểu 
thị bất lợi (không có lợi thế so sánh) của quốc gia I về sản phẩm j. 
Chỉ số thương mại nội ngành được sử dụng để phân tích cơ cấu xuất, nhập khẩu của một 
ngành trong một thời điểm nhất định. ITT trong nghiên cứu này là chỉ số G-L [4] được tính toán 
theo công thức 
| |
( )
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3A, 2017 
175 
trong đó Xijk là giá trị xuất khẩu của sản phẩm i từ quốc gia j sang quốc gia k; Mijk là giá trị nhập 
khẩu sản phẩm i của quốc gia j từ quốc gia k. IIT có giá trị từ 0 đến 1. IIT càng lớn biểu thị mức 
độ thương mại nội ngành giữa hai quốc gia càng cao và ngược lại. 
Chỉ số tập trung thương mại được dùng để xác định mức độ tập trung thương mại của 
một quốc gia đối với một thị trường cụ thể. TII được đo bằng tỷ trọng xuất khẩu của quốc gia 
tại một thị trường trong tương quan với tỷ trọng xuất khẩu của thế giới vào thị trường đó. TII 
được tính theo công thức 
 (
⁄ ) (
⁄ ) 
trong đó xij và xwj là giá trị xuất khẩu của quốc gia i và của thế giới sang quốc gia j; Xit và Xwt là 
tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia i và của thế giới sang quốc gia j. TII lớn hơn (nhỏ hơn) 1 
biểu thị quan hệ thương mại song phương giữa quốc gia i và j tập trung (không tập trung), hay 
nói cách khác là quan trọng hơn (không quan trọng) so với quan hệ thương mại giữa quốc gia 
với thế giới. 
Bên cạnh sử dụng các chỉ số thương mại, nghiên cứu sử dụng danh mục phân loại hàng 
hóa theo mã HS để xác định nguồn gốc và cơ cấu đầu vào sản xuất của ngành dệt may. Theo 
đó, nhóm hàng dệt may được thống kê dựa trên mã hàng được quy định trong Danh mục hài 
hòa mô tả mã hóa hàng hóa, phiên bản năm 2012 (Danh mục HS 2012) bao gồm: (i) Hàng may 
mặc sẵn: từ chương 61 đến chương 63; và (ii) Bông, vải, sợi các loại: từ chương 50 đến chương 
60 [6]. Mã HS là mã số dùng để phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu trên toàn thế giới theo Hệ 
thống phân loại hàng hóa do Tổ chức Hải quan thế giới WCO phát hành có tên là “Hệ thống hài 
hòa mô tả và mã hóa hàng hóa” (HS – Harmonized Commodity Description and Coding 
System). Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa HS hiện đang phân loại trên 98 % hàng 
hóa trong thương mại quốc tế và phiên bản mới nhất có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012. Hiện tại 
có hơn 200 qụốc gia, vùng lãnh thổ cũng như các tổ chức quốc tế như Phòng Thống kê Liên hợp 
quốc và Tổ chức thương mại thế giới sử dụng danh mục HS. 
Nguồn số liệu về thương mại ngành dệt may sử dụng trong nghiên cứu này được trích 
xuất từ cơ sở dữ liệu United Nations Comtrade Database [5]. 
3 Kết quả nghiên cứu 
Thị trường hàng dệt may trong TPP 
Hiện tại, khối các nước TPP đang chiếm gần 56 % tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của 
Việt Nam. Riêng năm 2015 đã có hơn 16 tỷ USD xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào các nước 
TPP. Trong đó, Mỹ hiện chiếm 66,39 %, Nhật Bản chiếm 23,09 % tổng kim ngạch XNK dệt may 
của Việt Nam trong các nước TPP. Canada, Malaysia, Úc cũng chiếm khoảng 7,5 %. Tốc độ tăng 
trưởng kim ngạch XNK qua 3 năm 2013–2015 vào các thị trường này đều lớn hơn 10 %, nhiều 
thị trường có mức tăng đến 30–40 % (Bảng 1). Vì vậy, có thể nói TPP là thị trường quan trọng 
nhất của ngành dệt may Việt Nam trong hiện tại và tương lai. 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
176 
Bảng 1. Kim ngạch xuất, nhập khẩu và tỷ trọng thị trường hàng dệt may của Việt Nam 
giai đoạn 2013–2015 
Quốc gia 
 2013 2014 2015 Tăng 
trưởng 
(%) Triệu $ % Triệu $ % Triệu $ % 
Úc 210,3 1,47 338,3 2,09 301,9 1,67 143,58 
Brunei 0,4 0,00 0,3 0,00 0,4 0,00 110,47 
Canada 556,5 3,89 654,8 4,04 724,4 4,01 130,15 
Chile 43,2 0,30 54,0 0,33 54,2 0,30 125,31 
Nhật Bản 3.562,2 24,88 3.944,2 24,36 4.172,9 23,09 117,14 
Mehico 183,1 1,28 236,2 1,46 246,6 1,36 134,67 
Malaysia 298,0 2,08 312,7 1,93 336,3 1,86 112,86 
New Zealand 29,6 0,21 35,7 0,22 37,7 0,21 127,15 
Peru 15,2 0,11 22,1 0,14 25,8 0,14 169,62 
Singapore 546,1 3,81 172,9 1,07 173,2 0,96 31,71 
Mỹ 8,872,1 61,97 10,417,2 64,35 11,998,3 66,39 135,24 
Tổng cộng TPP 14.316,8 100,00 16.188,5 100,00 18.071,6 100,00 126,23 
Thế giới (cột % là tỷ lệ 
TPP/Thế giới) 
44.928,6 31,87 51.875,4 31,21 53.199,5 33,97 118,41 
Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Về phân loại sản phẩm theo mã HS [1], số liệu ở Bảng 2 cho thấy quần áo và hàng dệt 
may phụ trợ (HS 61 và 62) chiếm trên 80 % tổng kim ngạch XNK dệt may của Việt Nam vào các 
nước TPP. Điều này phản ánh đúng thực tế là Việt Nam đang chủ yếu thực hiện công đoạn cuối 
của sản phẩm dệt may (may hoặc gia công). Đối với nhóm nguyên liệu cho dệt may, đáng chú ý 
là nhóm sản phẩm bông, chiếm gần 5 % tổng kim ngạch XNK; các loại vải dệt (HS 59) chiếm 
2,16 %; sợi các loại (HS 54, HS 55) chiếm hơn 3 %... Tốc độ tăng trưởng của các nhóm hàng trong 
3 năm gần đây này khá cao, trên 20 %, tương đương với tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng 
quần áo và hàng may mặc. 
Bảng 2. Kim ngạch xuất, nhập khẩu và tỷ trọng thị trường hàng dệt may phân theo nhóm hàng 
của Việt Nam trong TPP 
Nhóm sản phẩm 
Mã 
HS 
2013 2014 2015 Tăng 
trưởng 
( %) Triệu $ % Triệu $ % Triệu $ % 
Tơ tằm 50 100,5 0,70 99,7 0,62 79,8 0,44 79,40 
Lông cừu, lông động vật loại mịn 
hoặc loại thô 
51 22,2 0,16 27,9 0,17 30,2 0,17 136,14 
Bông 52 688,9 4,81 709,0 4,38 887,5 4,91 128,83 
Xơ dệt gốc thực vật khác  53 4,1 0,03 4,8 0,03 4,7 0,03 114,89 
Sợi filament nhân tạo 54 287,4 2,01 327,3 2,02 348,5 1,93 121,26 
Xơ, sợi staple nhân tạo 55 213,0 1,49 254,0 1,57 246,6 1,36 115,75 
Mền xơ, phớt và các sản phẩm 
không dệt 
56 192,3 1,34 233,2 1,44 230,4 1,28 119,83 
Thảm và các loại hàng dệt trải sàn 
khác 
57 34,5 0,24 36,2 0,22 34,4 0,19 99,73 
Các loại vải dệt thoi đặc biệt;  58 69,1 0,48 68,7 0,42 63,5 0,35 91,92 
Các loại vải dệt đã được ngâm 
tẩm 
59 343,6 2,40 388,2 2,40 390,0 2,16 113,51 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3A, 2017 
177 
Nhóm sản phẩm 
Mã 
HS 
2013 2014 2015 Tăng 
trưởng 
( %) Triệu $ % Triệu $ % Triệu $ % 
Các loại hàng dệt kim hoặc móc 60 134,2 0,94 138,5 0,86 132,4 0,73 98,66 
Quần áo và hàng may mặc phụ 
trợ, dệt kim hoặc móc 
61 6.554,3 45,78 7.375,5 45,56 8.391,1 46,43 128,02 
Quần áo và hàng may mặc phụ 
trợ, không dệt kim hoặc móc 
62 5.231,0 36,54 5.998,1 37,05 6.675,7 36,94 127,62 
Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện 
khác 
63 441,7 3,08 527,6 3,26 556,7 3,08 126,04 
Tổng cộng 14.316,8 100,00 16.188,5 100,00 18.071,6 100,00 126,23 
Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Lợi thế cạnh tranh hàng dệt may 
RCA của ngành dệt may được tính cho từng nhóm sản phẩm phân theo mã HS được 
trình bày ở Bảng 3. 
Bảng 3. Chỉ số lợi thế cạnh tranh biểu hiện (RCA) của ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2013–2015 
Nhóm sản phẩm Mã HS 2013 2014 2015 
Tơ tằm 50 0,64 0,72 0,73 
Lông cừu, lông động vật loại mịn hoặc loại 
thô 
51 0,02 0,01 0,01 
Bông 52 0,49 0,59 0,78 
Xơ dệt gốc thực vật khác  53 0,46 0,33 0,36 
Sợi filament nhân tạo 54 0,58 0,54 0,51 
Xơ, sợi staple nhân tạo 55 0,69 0,54 0,41 
Mền xơ, phớt và các sản phẩm không dệt  56 0,29 0,28 0,29 
Thảm và các loại hàng dệt trải sàn khác 57 0,07 0,07 0,06 
Các loại vải dệt thoi đặc biệt  58 0,16 0,15 0,16 
Các loại vải dệt đã được ngâm tẩm 59 0,62 0,62 0,61 
Các loại hàng dệt kim hoặc móc 60 0,30 0,30 0,31 
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim 
hoặc móc 
61 1,31 1,29 1,31 
Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không 
dệt kim hoặc móc 
62 1,65 1,64 1,55 
Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện khác  63 0,61 0,65 0,61 
Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy chỉ có nhóm mặt hàng quần áo và hàng dệt may phụ trợ (mã 
HS 61 và 62) có RCA > 1, nghĩa là Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới ở hai 
nhóm mặt hàng này. Những nhóm hàng còn lại thể hiện sự bất lợi của Việt Nam, thông qua chỉ 
số RCA đều nhỏ hơn 1. Về xu hướng, mặc dù nhóm hàng áo quần và hàng dệt may phụ trợ có 
lợi thế so sánh trên thị trường thế giới, nhưng lợi thế này ít thay đổi và có dấu hiệu giảm dần 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
178 
qua thời gian. Điều này chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam đang mất dần tính cạnh tranh do 
chi phí sản xuất tăng cao và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thế giới về ngành này. Trong 
số những nhóm sản phẩm còn lại, tơ tằm và bông (mã HS 50 và 52) có xu hướng cải thiện về chỉ 
số RCA. Đây là dấu hiệu tích cực của ngành dệt may, thể hiện Việt Nam đang dần dần chủ 
động được trong việc sản xuất hai nhóm sản phẩm này nhằm đáp ứng nhu cầu đầu vào của 
ngành. 
Thương mại nội ngành hàng dệt may 
Để thấy rõ hơn cơ cấu ngành dệt may của Việt Nam trong thị trường TPP, chỉ số thương 
mại nội ngành được tính toán cho cho các nhóm sản phẩm trong ngành trên thị trường thế giới 
và TPP. Kết quả IIT của ngành năm 2015 được thể hiện ở Bảng 4. 
Bảng 4. Chỉ số thương mại nội ngành (IIT) năm 2015 của ngành dệt may Việt Nam trong TPP 
Mã 
HS 
Thế giới AUS BRN CAN CHL JPN MYS MEX NZL PER SGP USA 
50 0,96 0,00 0,00 0,00 0,00 0,85 0,00 – 0,00 – 0,87 0,56 
51 0,06 0,00 – 0,32 – 0,01 0,00 0,00 0,44 0,00 0,05 0,20 
52 0,65 0,02 0,00 0,75 0,00 0,25 0,83 0,05 0,40 0,00 0,02 0,01 
53 0,90 0,00 – 0,19 0,00 0,03 0,00 0,00 0,12 – 0,97 0,12 
54 0,60 0,74 0,00 0,71 0,00 0,17 0,78 0,13 0,18 0,00 0,06 0,29 
55 0,32 0,59 0,00 0,11 0,00 0,21 0,87 0,05 0,30 0,00 0,09 0,91 
56 0,57 0,39 0,10 0,09 0,00 0,89 0,32 0,13 0,03 0,00 0,88 0,77 
57 0,86 0,14 – 0,00 0,00 0,32 0,03 0,00 0,13 0,00 0,06 0,89 
58 0,14 0,71 0,00 0,46 0,00 0,21 0,68 0,91 0,00 0,00 0,21 0,85 
59 0,70 0,45 0,90 0,02 0,00 0,54 0,68 0,02 0,42 0,00 0,10 0,08 
60 0,19 0,07 0,00 0,23 0,00 0,03 0,78 0,02 0,03 0,00 0,80 0,75 
61 0,06 0,01 0,01 0,00 0,00 0,00 0,07 0,01 0,00 0,04 0,18 0,00 
62 0,04 0,00 0,18 0,00 0,00 0,00 0,16 0,00 0,00 0,00 0,14 0,00 
63 0,08 0,02 0,35 0,00 0,00 0,06 0,18 0,00 0,00 0,00 0,84 0,02 
Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Ghi chú: AUS–Úc, BRN–Brunei, CAN–Canada, CHL–Chile, JPN–Nhật Bản, MYS–Malaysia, MEX–Mêhicô, 
NZL–New Zealand, PER–Pê ru, SGP–Singapore, USA–Mỹ 
 Những ô có màu này biểu thị IIT giữa Việt Nam và TPP cao hơn IIT của thế giới 
Trong các nhóm sản phẩm của ngành dệt may, nhóm sản phẩm thuộc mã HS 50, 53, 57, 
và 59 có IIT cao hơn những nhóm còn lại. Điều này phù hợp với thực tế là Việt Nam đồng thời 
xuất khẩu và nhập khẩu nhiều những nhóm sản phẩm này. 
Đối với từng thị trường cụ thể, thương mại nội ngành với các nước như Malaysia, 
Singapore, Mỹ, và Úc ở mức cao hơn hẳn so với thế giới. Chỉ số IIT của các thị trường này cũng 
khá cao, gần bằng 1, và tập trung chủ yếu từ mã HS 52 đến HS 60. Điều này thể hiện đây là 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3A, 2017 
179 
những thị trường chính của Việt Nam đối với những nhóm sản phẩm trung gian của ngành dệt 
may. Đối với những thị trường như Chile, Mexico, New Zealand, hay Peru, IIT hầu như đều 
bằng 0 ở tất cả các nhóm sản phẩm. Kết quả này phản ánh hai trạng thái: một là thương mại 
giữa hai bên không có, và hai là thương mại chỉ diễn ra một chiều (xuất khẩu hoặc nhập khẩu). 
Đối chiếu với số liệu ở Bảng 1, có thể thấy rằng xuất khẩu dệt may sang các thị trường nói trên 
đang tăng trưởng khá và có nhiều tiềm năng. 
Tập trung thương mại hàng dệt may 
Chỉ số tập trung thương mại dùng để đo lường mức độ tập trung của luồng thương mại 
hàng hóa của một nước tại một thị trường nào đó. 
Bảng 5. Chỉ số Tập trung thương mại (TII) năm 2015 của ngành dệt may Việt Nam trong TPP 
Mã HS AUS BRN CAN CHL JPN MYS MEX NZL PER SGP USA 
50 – – – – 8,44 – – – – 0,32 0,01 
51 – – – – 2,13 0,02 – 0,13 – – 0,21 
52 0,28 – 0,00 0,14 0,46 1,13 0,00 – – 0,02 0,26 
53 – – 0,07 1,31 0,42 0,14 – – – – 0,24 
54 0,20 0,52 0,31 0,27 1,08 1,60 0,25 0,23 1,09 0,26 0,39 
55 0,50 – 0,19 1,64 1,32 4,21 0,04 0,00 0,36 0,25 0,90 
56 6,38 0,12 0,34 4,96 7,67 1,84 0,13 1,06 1,03 1,63 0,75 
57 0,82 – 0,00 – 22,53 0,80 – 0,05 – – 0,02 
58 0,34 – 0,27 0,00 8,50 0,43 0,26 0,30 – 0,45 0,76 
59 0,05 – 2,27 0,13 3,58 1,47 0,01 0,12 0,00 0,07 4,67 
60 4,44 – 1,41 0,11 0,74 1,83 0,02 2,22 0,01 1,79 0,44 
61 0,31 0,00 1,45 0,78 1,76 0,24 0,62 0,34 0,20 0,48 3,17 
62 0,57 0,18 1,25 0,69 2,13 0,21 0,70 0,42 0,25 0,35 2,23 
63 0,26 0,06 0,50 0,25 4,29 0,83 0,14 0,74 0,07 0,92 0,98 
Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Ghi chú: AUS–Úc, BRN–Brunei, CAN–Canada, CHL–Chile, JPN–Nhật Bản, MYS–Malaysia, MEX–Mêhicô, 
NZL–New Zealand, PER–Pê ru, SGP–Singapore, USA–Mỹ. 
 Những ô có màu này có TII > 1, biểu thị mức độ tập trung thương mại cao 
TII cho biết liệu xuất khẩu của quốc gia sang một thị trường có nhiều hơn xuất khẩu của 
thế giới vào thị trường đó hay không. Kết quả tính toán TII của các nhóm sản phẩm ngành dệt 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
180 
may Việt Nam đối với các thị trường TPP được trình bày ở Bảng 5. Số liệu TII cho thấy hàng dệt 
may Việt Nam tập trung chủ yếu ở thị trường Nhật Bản, Malaysia, Canada và Mỹ. Điều này có 
nghĩa là xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang những thị trường nói trên cao hơn mức độ xuất 
khẩu dệt may của thế giới vào chính những thị trường đó. Như vậy, những thị trường còn lại 
trong TPP vẫn còn cơ hội lớn cho dệt may Việt Nam bởi TII đang còn thấp. 
Phân theo nhóm sản phẩm, thị trường Nhật Bản, Malaysia, Chile có mức độ tập trung 
xuất khẩu cao các mặt hàng trung gian của ngành dệt may như tơ sợi, các loại vải (HS 50–59). 
Mỹ, Nhật Bản và Canada có mức độ tập trung cao về nhóm sản phẩm cuối cùng của dệt may đó 
là áo quần và hàng dệt may phụ trợ (HS 61–63). 
Cơ cấu nhập khẩu hàng dệt may theo phân loại sản phẩm 
Trong 14 nhóm sản phẩm của ngành dệt may phân theo mã HS, các sản phẩm thuộc mã 
HS từ 50–59 được xem là sản phẩm đầu vào, hoặc trung gian của ngành. Để xác định được mức 
độ nội địa hóa của ngành, cơ cấu nhập khẩu được tính toán cho hai khu vực thị trường đó là thị 
trường TPP và thế giới. Số liệu về cơ cấu nhập khẩu dệt may năm 2015 được trình bày ở Biểu đồ 
1. 
 Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Biểu đồ 1. Cơ cấu nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ thị trường TPP và thế giới năm 2015 
Biểu đồ 1 cho biết hầu hết các nhóm sản phẩm đầu vào như bông, sợi, vải (thuộc mã HS 
50–59) có tỷ trọng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường ngoài TPP. Trong những sản phẩm này chỉ 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3A, 2017 
181 
có tơ tằm có tỷ trọng nhập khẩu trong khối cao nhất, hơn 40 %. Thực tế cho thấy, theo Hiệp hội 
Dệt may Việt Nam, dệt may Việt Nam đang yếu ở khâu sản xuất nguyên phụ liệu, trong khi 
Hiệp định TPP quy định sản phẩm xuất khẩu phải có xuất xứ từ sợi và vải mới được hưởng 
thuế suất 0 %. Trường hợp, phải nhập nguyên liệu thì chỉ nhập trong phạm vi các nước thành 
viên của TPP. Trong khi các nước đang cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho dệt may Việt Nam lại 
là Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông – đều là những nước không tham gia TPP. 
Bảng 6. Tỷ trọng nhập khẩu nguyên phụ liệu hàng dệt may của Việt Nam năm 2015 
Nhóm sản phẩm 
Top 5 thị trường nhập khẩu ( % trong tổng kim ngạch nhập khẩu) 
1 2 3 4 5 
Tơ tằm 
Nhật Bản Trung Quốc Brazil Đức Kyrgyzstan 
42,67 42,01 8,64 2,46 1,15 
Lông cừu, lông động vật 
loại mịn hoặc loại thô 
Trung Quốc Nhật Bản Ý Hồng Kông Hàn Quốc 
68,95 9,83 5,94 5,69 4,35 
Bông 
Trung Quốc USA Ấn Độ Brazil 
Hồng 
Kông 
51,44 16,10 7,45 5,45 3,65 
Xơ dệt gốc thực vật khác  
Trung Quốc Ý Nhật Bản Hồng Kông Anh 
80,07 4,37 3,67 3,34 2,98 
Sợi filament nhân tạo; 
Trung Quốc Hàn Quốc 
Nước châu Á 
khác 
Nhật Bản Thái Lan 
48,44 18,29 17,70 7,37 3,33 
Xơ, sợi staple nhân tạo 
Trung Quốc Hàn Quốc 
Nước châu Á 
khác 
Nhật Bản Thái Lan 
76,93 6,46 5,45 2,97 2,77 
Mền xơ, phớt và các sản 
phẩm không dệt 
Trung Quốc Hàn Quốc 
Nước châu Á 
khác 
Nhật Bản 
Hồng 
Kông 
47,84 12,49 9,77 8,56 4,76 
Thảm và các loại hàng dệt 
trải sàn khác 
Trung Quốc Thái Lan Nhật Bản Malaysia Đức 
80,50 6,59 6,39 1,13 0,89 
Các loại vải dệt thoi đặc 
biệt;  
Trung Quốc 
Nước châu Á 
khác 
Hồng Kông Hàn Quốc Nhật Bản 
39,95 21,87 15,57 10,88 5,02 
Các loại vải dệt đã được 
ngâm tẩm 
Trung Quốc Hàn Quốc 
Nước châu Á 
khác 
Nhật Bản 
Hồng 
Kông 
48,45 17,59 17,16 7,46 4,94 
 Những ô có màu này là thị trường TPP Nguồn: tính toán từ UN comtrade 
Như vậy, bất cập lớn nhất của dệt may Việt Nam trong chuỗi cung ứng chính là khâu 
cung ứng nguyên, phụ liệu đầu vào. Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào 
của ngành dệt may chủ yếu từ thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông và các nước châu 
Á khác (Bảng 6). Trong đó, sản phẩm tơ tằm: Trung Quốc chiếm 42,1 %; lông cừu, động vật: 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
182 
Trung Quốc 68,95 %; sợi: Trung Quốc 48,44 %, Hàn Quốc 18,29 %; mền xơ, phớt và các sản 
phẩm không dệt: Trung Quốc chiếm khoảng 48 %, Hàn Quốc 12,49 %... 
Ngoài vấn đề về nguyên phụ liệu đầu vào, dệt may Việt Nam còn phải đối diện một số 
vấn đề sau: (i) phụ thuộc quá lớn vào thị trường xuất khẩu (chiếm 80 % năng lực sản xuất toàn 
ngành) vốn đầy biến động và rất khó kiểm soát; (ii) thị trường trong nước trên 90 triệu dân với 
sức mua ngày càng tăng chưa được tập trung khai thác; và (iii) may xuất khẩu lệ thuộc quá lớn 
vào nguồn vải nhập khẩu (chiếm trên 80 % tổng nhu cầu, Trung Quốc chiếm trên 40 %), tạo ra 
tình trạng “nút thắt cổ chai” tại công đoạn dệt nhuộm, tỷ lệ nội địa hóa chỉ trên 50 %, tạo ra sự 
phát triển mất cân đối và dễ bị tổn thương. 
Đánh giá chung 
Kết quả phân tích ở trên cho thấy, trong số các ngành được hưởng lợi từ TPP thì ngành 
dệt may Việt Nam là một trong những ngành sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Một khi TPP có 
hiệu lực, thuế xuất khẩu hàng dệt may sang các nước TPP, thị trường chính của hàng dệt may 
Việt Nam, sẽ giảm xuống trong thời gian tới. Kết quả tính toán các chỉ số thương mại như lợi 
thế so sánh hiển thị, thương mại nội ngành, và tập trung thương mại đều chỉ ra tiềm năng của 
ngành dệt may trong TPP. Đây cũng là ngành được quan tâm nhiều nhất trong TPP khi mà 12 
nước thành viên đã đồng ý dành chương riêng về dệt may, tách ra khỏi đàm phán về mở cửa 
thị trường đối với hàng hóa nói chung. 
Về tình huống Mỹ rút khỏi TPP và khả năng TPP không thực hiện được, xuất khẩu dệt 
may Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt, tất nhiên là không như kỳ vọng bởi thuế suất nhập khẩu dệt 
may của Mỹ vẫn còn ở mức cao (17,5 %). Mỹ vẫn là thị trường chính, chiếm trên 66 % tổng kim 
ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong TPP và có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. 
Ngoài ra, TPP không có Mỹ sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng xuất khẩu các các thành viên 
khác của TPP. 
Tuy nhiên, thách thức chính của ngành dệt may chính là phần nguyên phụ liệu. Phần lớn 
nguyên phụ liệu của ngành dệt may là hàng nhập khẩu, trong đó đa phần nhập khẩu từ những 
nước chưa ký kết TPP (Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông). Đây sẽ là rào cản khiến ngành 
dệt may Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong thực hiện quy định về nguồn gốc xuất xứ của 
TPP, một sản phẩm dệt may muốn được hưởng ưu đãi thuế quan theo TPP thì tất cả các nguyên 
liệu, bắt đầu từ sợi trở đi, phải được sản xuất tại các nước tham gia TPP. 
4 Kết luận 
Hiệp định TPP cam kết sẽ giúp giảm các loại thuế nhập khẩu một số mặt hàng dệt may 
Việt Nam xuống bằng 0 % hoặc gần bằng 0 %, tùy thuộc vào mỗi mặt hàng. Kết quả tính toán 
các chỉ số thương mại đều chỉ ra tiềm năng của ngành dệt may trong TPP. Theo đó, hàng dệt 
may của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường TPP thời gian tới có thể sẽ tăng đột biến. 
Trong khi xuất khẩu dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh sang những thị trường này 
tăng thấp, thậm chí giảm thì xuất khẩu dệt may của Việt Nam qua thị trường này lại tăng cao. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3A, 2017 
183 
Cơ hội từ một TPP không có Mỹ vẫn rất lớn bởi Mỹ vẫn là thị trường chính của dệt may 
Việt Nam và các điều kiện thương mại vẫn giữ nguyên. Tất nhiên TPP có Mỹ sẽ mang lại lợi ích 
nhiều hơn cho ngành bởi sẽ có những ưu đãi mới về thương mại giữa hai nước. Ngoài ra, TPP 
không có Mỹ sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng xuất khẩu các các thành viên khác của TPP. 
Trở ngại lớn nhất đối việc tận dụng cơ hội xuất khẩu dệt may vào TPP là xuất xứ nguyên 
phụ liệu của ngành. Vì vậy, cần có chính sách và lộ trình thay đổi cơ cấu nhập khẩu các nhóm 
sản phẩm của ngành dệt may, tập trung vào nhóm sản phẩm nguyên, phụ liệu, sản phẩm trung 
gian từ các thị trường trong khối TPP. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ cải thiện điều kiện sản 
xuất của ngành để nâng cao năng suất lao động cũng hết sức cần thiết. Cần tăng cường chủ 
động trong khâu thiết kế, thay đổi dần hình thức xuất khẩu từ gia công là chủ yếu sang những 
phương thức cao để tăng hiệu quả trong chuỗi cung ứng của ngành. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ Công thương (2011), Thông tư về việc ban hành danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt 
Nam, Số: 156/2011/TT–BTC. 
2. Nguyễn Thị Lan (2016), Triển vọng của dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, Tạp 
chí Tài chính, 2(3), 75–76. 
3. Grubel, H., Lloyd, P. (1975), Intra-Industry Trade: The Theory and Measurement of International 
Trade in Differentiated Products, London and New York: John Wiley and Sons. 
4. Mikic, M., Gilbert, J. (2009), Trade Statistics in Policymaking – A Handbook Of Commonly Used 
Trade Indices And Indicators, United Nations publication, ST/ESCAP/ 2559. 
5. United Nations Statistics Division (UNSD) (2016), United Nations Commodity Trade Statistics 
Database, available at  
6. World Customs Organization (2016), HS Nomenclature 2012 Edition, Available at: 
7. World Trade Organisation, (2012), A Practical Guide to Trade Policy Analysis, WTO 
Publications. ISBN 978-92-870-3812-8. 
Phan Thanh Hoàn Tập 126, Số 5A, 2017 
184 
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAM'S 
TEXTILE INDUSTRY IN THE CONTEXT OF JOINING THE 
TRANS-PACIFIC PARTNERSHIP (TPP) AGREEMENT 
Phan Thanh Hoan* 
HU – University of Economics, 99 Ho Dac Di St., Hue, Vietnam 
Abstract: This study analyses the trading status of the textile industry of Vietnam in the context 
of joining the Trans-Pacific Partnership (TPP) Agreement. By using the trade indicators and 
calculating/analysing the import and export structure of the textile trade, the author indicates 
that TPP is the main market for Vietnam’s textile products, but the trade intensity is at a high 
level only in some countries of TPP membership such as the US, Japan or Canada. In addition, 
the competitive advantage of the industry is only revealed in the last two groups of products 
(Articles of apparel and clothing accessories) out of 14 groups of products classified under 
Harmonized System (HS) codes. Thus, Vietnam has the opportunity to increase export of textiles 
into the TPP region. However, Vietnam can take full advantage of this opportunity only when 
the country can ensure the rules of origin of products. This means that Vietnam needs to 
improve the production capacity of textile inputs or change the import structure of the industry 
in order to promote export and increase the added value of the textile and garment industry. 
Keywords: textile, TPP, export, Vietnam, competitive advantage 

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_cua_det_may_viet_nam_trong_boi_canh_gia.pdf