Đặc điểm của các doanh nghiệp bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là loại hình DN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Đây là ngành nghề kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro và có những đặc điểm quan trọng mang tính chất đặc thù ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán nội bộ (KTNB) nói chung và tổ chức KTNB tại các DNBH nói riêng. Bài viết phân tích một số đặc điểm cơ bản, riêng biệt cũng như rủi ro của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB trong các đơn vị này
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm của các doanh nghiệp bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm của các doanh nghiệp bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 41Số 137 - tháng 3/2019 ÑAËC ÑIEÅM CUÛA CAÙC DOANH NGHIEÄp BAÛO HIEÅM AÛNH HÖÔÛNG ÑEÁN TOÅ CHÖÙC KIEÅM TOAÙN NOÄI BOÄ TRONG DOANH NGHIEÄp ThS. NGuYỄN THị PHƯơNG THảO* * Khoa Kế toán - Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là loại hình DN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Đây là ngành nghề kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro và có những đặc điểm quan trọng mang tính chất đặc thù ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán nội bộ (KTNB) nói chung và tổ chức KTNB tại các DNBH nói riêng. Bài viết phân tích một số đặc điểm cơ bản, riêng biệt cũng như rủi ro của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB trong các đơn vị này. Từ khóa: kiểm toán nội bộ, doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức kiểm toán nội bộ Characteristics of insurance corporations and affect on their internal audit operation Insurance enterprises (insurers) are the type of enterprises operating in insurance business. This is a business sector that contains many risks and has important characteristics of specific nature affecting internal audit activities (internal audit) in general and internal audit organization in insurance businesses in particular. The paper analyzes some basic characteristics as well as risks of insurers affecting the organizational structure and organization of internal audit activities in these units. keywords: Internal audit, insurers, conducting internal audit. DNBH là bên cung cấp các dịch vụ bảo hiểm thông qua việc bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm từ các cá nhân hay tổ chức và thực hiện nghĩa vụ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra rủi ro đối với bên mua bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm đã được cam kết hay thỏa thuận. Bảo hiểm là hoạt động kinh doanh đặc thù, có độ nhạy cảm cao, có nghĩa vụ bồi thường về tài chính lớn nên để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng, hầu hết các quốc gia đều quy định chặt chẽ về các điều kiện thành lập loại hình doanh nghiệp này. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB tại các doanh nghiệp (DN) kinh doanh trong lĩnh vực nhiều rủi ro này. Có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến tổ chức KTNB trong loại hình DN này như sau: Thứ nhất, hệ thống rủi ro của DNBH Trong quá trình hoạt động, bất kỳ một DN nào cũng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro. Các rủi ro này là tác nhân chính ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, việc thực hiện kế hoạch hàng năm, kế hoạch chiến lược của DN. Hệ thống các rủi ro của một DNBH bao gồm các nhóm rủi ro: rủi ro bảo hiểm, rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, và các rủi ro khác. Rủi ro bảo hiểm: Là rủi ro liên quan đến tổn thất mà công ty bảo hiểm có thể phải gánh chịu do mức phí bảo hiểm không đủ để chi trả cho các sự kiện được bảo hiểm. Đây là loại rủi ro gắn với các nghiệp vụ bảo hiểm mà DNBH triển khai. Cụ thể hơn, các rủi ro này phát sinh liên quan đến sự không chắc chắn về tần suất, tính khốc liệt của rủi ro được bảo hiểm; liên quan đến thời gian thanh toán các khiếu TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN42 Số 137 - tháng 3/2019 nại trong tương lai và các chi phí liên quan. Thuộc nhóm rủi ro bảo hiểm của DNBH có thể có rủi ro thảm họa, rủi ro tử vong, thương tật, rủi ro hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm, rủi ro định phí không đầy đủ, rủi ro công nghệ thông tin... Ví dụ điển hình nhất về loại hình rủi ro này có thể kể đến rủi ro thảm họa do thiên tai. Trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, thực trạng thiên tai ngày càng nhiều do biến đổi khí hậu đã tác động gián tiếp lên sức khỏe con người thông qua nguồn gây bệnh, làm tăng khả năng bùng phát và lan truyền các bệnh dịch, gây ra các rủi ro cho kinh doanh bảo hiểm y tế và bảo hiểm sức khỏe của các DNBH. Các rủi ro về con người, tài sản cũng ảnh hưởng tới các DNBH với các chi phí bồi thường gia tăng. Ngập úng, thiếu nước ngọt và xâm nhập nước mặn ảnh hưởng đến canh tác nông nghiệp khi cây trồng ngập úng; sản lượng từ nuôi trồng thủy sản bị giảm sút do nhiễm mặn Những thiệt hại này là nguy cơ lớn ảnh hướng đến sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm thủy sản của các DNBH. Hạn hán kéo dài làm gia tăng các nguy cơ cháy rừng, cháy nổ các nhà máy cũng là rủi ro cho các DNBH khi thực hiện bảo hiểm về lâm nghiệp hay bảo hiểm nhà xưởng cho DN. Rủi ro thị trường là loại rủi ro khiến cho các DNBH có khả năng gặp tổn thất và bị suy giảm vị trí kinh tế trên thị trường bảo hiểm liên quan đến tính dễ biến động trong giá trị thị trường của tài sản và của các khoản nợ. Nói cách khác, rủi ro thị trường là là rủi ro mà giá trị hợp lý của một công cụ tài chính thay đổi do sự biến động của các nhân tố chủ yếu như lãi suất, giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái hay giá cả hàng hoá. Các rủi ro thị trường của DNBH có thể là: rủi ro lãi suất, rủi ro bất động sản và cổ phiếu, rủi ro tiền tệ, rủi ro tái đầu tư, rủi ro lạm phát... Rủi ro tín dụng: Là rủi ro DNBH có khả năng bị tổn thất tài chính do vỡ nợ hoặc biến động trong chất lượng tín dụng của người phát hành chứng khoán, của các chủ nợ (ví dụ như người thế chấp), của các bên đối tác của DNBH, và của các trung gian bảo hiểm. Nói cách khác, rủi ro tín dụng xảy ra khi bên vay không có khả năng trả nợ hoặc đối tác có những thay đổi bất lợi. rủi ro tín dụng của DNBH có thể phát sinh từ: Đối tác đầu tư của DNBH; chủ hợp đồng bảo hiểm; nhà tái bảo hiểm... rủi ro tín dụng của DNBH có gồm: rủi ro NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 43Số 137 - tháng 3/2019 vỡ nợ, rủi ro tập trung, rủi ro bị hạ bậc đánh giá, rủi ro tín dụng tái bảo hiểm... Rủi ro hoạt động: Là rủi ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự hạn chế hoặc vận hành không hiệu quả của quy trình, hệ thống, các sự kiện khách quan bên ngoài. rủi ro này liên quan đến việc DNBH không đáp ứng tốt các yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước, liên quan đến việc thực hiện không đúng các quy trình hoạt động của DNBH. Như vậy, rủi ro hoạt động có thể phát sinh ngay từ trong hoạt động của DNBH hoặc từ các tác động và sự kiện ở bên ngoài. Có thể nói, rủi ro hoạt động khá đa dạng, ảnh hưởng đến DNBH nhiều hơn so với các rủi ro khác và đặc biệt có nhiều rủi ro khó lượng hoá vì tính chất định tính nhiều hơn trong khi dữ liệu của các DNBH liên quan đến rủi ro này hoặc là không có hoặc là không nhất quán với nhau. Các rủi ro hoạt động thường có trong DNBH là: Rủi ro tranh chấp là một dạng rủi ro pháp lý, thường phát sinh trong quá trình giải quyết chi trả bồi thường. rủi ro tranh chấp của DNBH có 2 loại: Thứ nhất, Tranh chấp giữa DNBH với bên được bảo hiểm khi giữa DNBH và người khiếu nại đòi chi trả bồi thường không nhất trí được với nhau về tất cả các điều kiện thanh toán của khiếu nại. Thứ hai, Tranh chấp khiếu nại của bên thứ ba trong kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm. Lúc này, đối với DNBH, nhiệm vụ bào chữa cho người được bảo hiểm trong các đơn bảo hiểm trách nhiệm cũng quan trọng ngang, thậm chí là hơn, với nhiệm vụ bồi thường. Rủi ro tuân thủ là rủi ro gây ra tổn thất từ hành vi vi phạm các nghĩa vụ tuân thủ bao gồm: rủi ro pháp lý: Là loại rủi ro phát sinh từ việc thực hiện không đúng và/hoặc không thực hiện các nghĩa vụ theo sự điều chỉnh của pháp luật và/hoặc quy định của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. rủi ro vi phạm các quy định nội bộ: Là những rủi ro do không tuân thủ các quy định nội bộ của DNBH. Ngoài ra, DNBH cũng phải đối mặt với một số rủi ro khác như: rủi ro thanh khoản, rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến lược, rủi ro tích tụ... Các DNBH kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù với các rủi ro đã phân tích ở trên có ảnh hưởng không hề nhỏ đến công tác tổ chức KTNB tại các DN này. Đặc biệt trong xu thế phát triển của KTNB hiện nay, các DN đều hướng tới phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro nên việc hiểu rõ và nắm bắt các loại hình rủi ro mà DNBH đối mặt sẽ giúp cho các DNBH xác định các chỉ tiêu để đánh giá rủi ro tổng thể chính xác hơn. Trên cơ sở đó, bộ phận KTNB sẽ phát triển mô hình đánh giá rủi ro làm căn cứ để lập kế hoạch kiểm toán hàng năm và xác định phạm vi kiểm toán cụ thể. Thứ hai, tính phong phú, đa dạng của các loại nghiệp vụ bảo hiểm và khách hàng bảo hiểm DNBH là doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm đặc biệt, đó chính là cam kết của nhà bảo hiểm với khách hàng. Sự đặc biệt này thể hiện ở chỗ dù là một sản phẩm dịch vụ nhưng đối tượng bảo hiểm lại bao trùm rất rộng là tài sản, trách nhiệm dân sự và con người. Mỗi đối tượng bảo hiểm bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức DN bán sản phẩm bảo hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm. Phí đó được tính toán trên cơ sở khoa học đảm bảo thu bù chi, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và có lãi cho DN. Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong kinh doanh bảo hiểm cũng sẽ phát huy tác dụng; do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bảo hiểm tài sản: Là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng; TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN44 Số 137 - tháng 3/2019 Bảo hiểm con người: Đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn - bệnh tật. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách nhiệm công cộng. Căn cứ vào kỹ thuật bảo hiểm, các loại hình bảo hiểm được chia ra làm 2 loại: Bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ, tương ứng với hai kỹ thuật là ‘‘phân bổ” và “tồn tích vốn”. Bảo hiểm phi nhân thọ: Là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm); Bảo hiểm nhân thọ: Là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ). Các hợp đồng loại này thường là dài hạn (10 năm, 20 năm, trọn đời...). Các loại hình bảo hiểm với sản phẩm và đối tượng đa dạng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB trong các DNBH. Đặc điểm này đòi hỏi mô hình tổ chức KTNB phải được lựa chọn phù hợp với tính chất đa dạng của các loại hình bảo hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân bổ nguồn lực của bộ phận KTNB. Số lượng KTVNB phải đủ lớn và có trình độ chuyên môn nhất định về lĩnh vực, đối tượng kiểm toán. Bên cạnh đó, thực trạng DNBH có thể kinh doanh nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau sẽ dẫn đến sự phức tạp của việc tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo từng loại nghiệp vụ và khách hàng bảo hiểm và tổ chức quản lý hồ sơ, chứng từ tài liệu liên quan đến từng hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, phạm vi, nội dung công việc của KTV khi thực hiện KTNB phải mở rộng và quy trình phương pháp kiểm toán cũng đa dạng và phong phú hơn. Thứ ba, các quy định pháp lý trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm là lĩnh vực kinh doanh chịu sự quản lý chặt chẽ của các quy định pháp lý. Tại Việt Nam, có thể nói trong những năm vừa qua, khung khổ pháp lý trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ngày càng được hoàn thiện, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng cho sự phát triển của thị trường, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế. Từ sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 9/12/2000 đến nay đã có rất nhiều các quy định mới ra đời và thường xuyên thay đổi cho phù hợp với điều kiện của thị trường Việt Nam. Trong giai đoạn 2011 - 2017, 37 văn bản quy phạm pháp luật gồm 7 nghị định, 4 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 26 thông tư của Bộ Tài chính đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới, tập trung vào các mục tiêu tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm tăng trưởng hiệu quả. Trong giai đoạn tiếp theo, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực này sẽ được rà soát và ngày càng hoàn thiện hơn. Trong quá trình hoạt động, các DNBH cần tuân thủ đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các quy định pháp lý có liên quan đến hoạt động bảo hiểm. Điều này đòi hỏi KTVNB cấn nắm vững nội dung và yêu cầu của các quy định pháp lý được quy định riêng cho loại hình DN đặc thù này và chú trọng kiểm tra, đánh giá sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và đúng đắn NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 45Số 137 - tháng 3/2019 các quy định pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm của DNBH khi thực hiện KTNB. Thứ tư, xu hướng công nghệ trong ngành kinh doanh bảo hiểm. Công nghệ bảo hiểm (Insurtech) là một ngành công nghiệp, bao gồm các công ty sử dụng công nghệ để cung cấp các dịch vụ bảo hiểm rẻ hơn, nhanh hơn, đơn giản hơn và hiệu quả hơn. InsurTech đang được ví như một cơn bão sẽ phá tan mọi cách thức hoạt động truyền thống trong hàng trăm năm qua của ngành bảo hiểm, làm thay đổi hành vi mua hàng và các phương thức quản trị, điều hành của mọi công ty bảo hiểm. Xu hướng mới này đòi hỏi các DN bảo hiểm cần phải tạo ra một thông điệp rõ ràng và nhất quán thể hiện sự sẵn sàng của họ để hoạt động trong không gian InsurTech mới và chỉ có cách tiếp cận như vậy mới có thể cạnh tranh trong kỷ nguyên bảo hiểm mới. Các xu hướng của InsurTech bao gồm: - Tự động hoá sẽ thay thế nỗ lực của con người trong toàn bộ chuỗi giá trị bảo hiểm; - Phí bảo hiểm sẽ trở nên cá nhân hóa cao nhờ công nghệ hiểu biết khách hàng hơn; - Kỷ nguyên blockchain đã bắt đầu và sẽ có sự chuyển đổi nhanh chóng từ tập trung sang phân tán; - Bảo hiểm truyền thống và công ty công nghệ mới sẽ được kết hợp tất yếu; - Ứng dụng kỹ thuật số vào cuộc sống sẽ làm thay đổi mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng; - Hợp đồng bảo hiểm trọn gói all-in-one; - Các mô hình mới sử dụng kỹ thuật số sẽ thách thức chuỗi giá trị bảo hiểm truyền thống; - Giải quyết khiếu nại sẽ trở thành dịch vụ tự động, tự phục vụ và nhanh chóng trả tiền cho khách hàng; - Công nghệ ngăn ngừa tổn thất sẽ trở thành một đặc điểm chính trong sản phẩm bảo hiểm. Với tác động của xu hướng công nghệ trong ngành bảo hiểm, các DNBH sẽ ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong hoạt động của mình và tích cực đẩy mạnh ứng dựng công nghệ thông tin theo các xu hướng của InsurTech. Đây sẽ là một thách thức lớn với công tác tổ chức KTNB tại các DNBH. Thách thức này đòi hỏi bộ phận KTNB nói chung và KTVNB nói riêng phải có sự am hiểu nhất định về công nghệ thông tin và sự ứng dụng công nghệ thông tin vào các sản phẩm bảo hiểm tại DN của mình. Hơn thế nữa, nội dung của KTNB trong các DNBH dưới sự tác động của công nghệ bảo hiểm sẽ mở rộng sang loại hình mới, đó là kiểm toán Công nghệ thông tin. kết luận Việc nắm bắt ảnh hưởng của các đặc điểm trên đến tổ chức KTNB trong các DNBH sẽ giúp các DN này tổ chức KTNB có hiệu quả hơn và mang lại nhiều giá trị cho DN. Các đặc điểm như hệ thống rủi ro mà DNBH phải đối mặt; sự đa dạng về nghiệp vụ, sản phẩm, khách hàng; các quy định pháp lý và xu hướng công nghệ bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm sẽ ảnh hưởng tới phạm vi, nội dung, phương pháp, quy trình KTNB và đòi hỏi KTVNB có năng lực, trình độ chuyên môn nhất định để đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường có nhiều đặc thù như lĩnh vực bảo hiểm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Orr, J., & et al. (2002). Operational Risks. General Insurance Covention (GIC); 2. Maria Isabel Martínez Torre-Enciso & Rafael Hernandez Barros (2013), International Business Research; Vol. 6, No. 1; 3. Tập đoàn Bảo Việt, Báo cáo thường niên năm 2017; 4. Tôn Thị Thanh Huyền (2011), Nhận dạng rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm, Tạp chí bảo hiểm số 4/2011, p.16-21.
File đính kèm:
- dac_diem_cua_cac_doanh_nghiep_bao_hiem_anh_huong_den_to_chuc.pdf