Đặc điểm dịch tễ học sẩy thai ở Phù Cát - Bình Định
Nghiên cứu dịch tễ về sẩy thai (ST) được công bố chưa nhiều. Mục tiêu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học sẩy thai. Nghiên cứu mô tả 6.600 phụ nữ 15 - 49 tuổi đã từng mang thai ở huyện Phù Cát tính đến thời điểm tháng 1/2012. Phân tích số liệu bằng mô hình hồi quy logistic đơn biến, đa biến. Kết quả: mẹ bị sẩy thai: 9,58%; sẩy thai có khuynh hướng ngày càng tăng. 12,95% mẹ bị sẩy thai ở vùng núi (OR = 1,51; CI95%: 1,21 - 1,89); 15,23% ở khu vực sân bay Phù Cát (OR = 1,98; CI95%: 1,49 - 2,62). OR < 1="" và="" ci95%="">< 1="" ở="" mẹ="" có="" thai="" lần="" đầu="" từ="" 20="" -="" 34="" tuổi;="" or="1,55" và="" ci95%:="" 1,3="" -="" 1,84="" ở="" mẹ="" có="" gia="" đình="" bị="" bất="" thường="" sinh="" sản="" (btss);="" or="4,86" và="" ci95%:="" 3,55="" -="" 6,66="" ở="" mẹ="" có="" tiền="" sử="" bị="" sẩy="" thai="" ở="" lần="" mang="" thai="" đầu="" tiên;="" or="1,27" và="" ci95%:="" 1,07="" -="" 1,51="" ở="" mẹ="" phơi="" nhiễm="" khói="" thuốc="" lá;="" or="1,69" và="" ci95%:="" 1,42="" -="" 2="" ở="" mẹ="" phơi="" nhiễm="" thuốc="" bảo="" vệ="" thực="" vật;="" mẹ="" có="" thai="" từ="" lần="" thứ="" 3="" trở="" đi="" (p="">< 0,05).="" kết="" luận:="" tỷ="" lệ="" sẩy="" thai="" khá="" cao,="" có="" khuynh="" hướng="" ngày="" càng="" tăng,="" chủ="" yếu="" ở="" vùng="" phơi="" nhiễm="" chất="" độc="" hóa="" học="" trong="" chiến="" tranh.="" các="" yếu="" tố="" làm="" tăng="" khả="" năng="" sẩy="" thai="" là="" mẹ="" có="" thai="" lần="" đầu="" dưới="" 20="" tuổi;="" hơn="" 2="" lần="" có="" thai;="" tiền="" sử="" bản="" thân="" và="" gia="" đình="" bị="" bất="" thường="" sinh="" sản;="" mẹ="" phơi="" nhiễm="" khói="" thuốc="" lá,="" thuốc="" bảo="" vệ="" thực="">
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dịch tễ học sẩy thai ở Phù Cát - Bình Định
102 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Trương Quang Đạt, Trường Cao đẳng Y tế Bình Định bstruongquangdat@yahoo.com Ngày nhận: 6/8/2013 Ngày được chấp thuận: 30/10/2013 ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC SẨY THAI Ở PHÙ CÁT - BÌNH ĐỊNH Trương Quang Đạt1, Trần Đức Phấn2, Ngô Văn Toàn2 1Trường Cao đẳng Y tế Bình Định, 2Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu dịch tễ về sẩy thai (ST) được công bố chưa nhiều. Mục tiêu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học sẩy thai. Nghiên cứu mô tả 6.600 phụ nữ 15 - 49 tuổi đã từng mang thai ở huyện Phù Cát tính đến thời điểm tháng 1/2012. Phân tích số liệu bằng mô hình hồi quy logistic đơn biến, đa biến. Kết quả: mẹ bị sẩy thai: 9,58%; sẩy thai có khuynh hướng ngày càng tăng. 12,95% mẹ bị sẩy thai ở vùng núi (OR = 1,51; CI95%: 1,21 - 1,89); 15,23% ở khu vực sân bay Phù Cát (OR = 1,98; CI95%: 1,49 - 2,62). OR < 1 và CI95% < 1 ở mẹ có thai lần đầu từ 20 - 34 tuổi; OR = 1,55 và CI95%: 1,3 - 1,84 ở mẹ có gia đình bị bất thường sinh sản (BTSS); OR = 4,86 và CI95%: 3,55 - 6,66 ở mẹ có tiền sử bị sẩy thai ở lần mang thai đầu tiên; OR = 1,27 và CI95%: 1,07 - 1,51 ở mẹ phơi nhiễm khói thuốc lá; OR = 1,69 và CI95%: 1,42 - 2 ở mẹ phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật; mẹ có thai từ lần thứ 3 trở đi (p < 0,05). Kết luận: tỷ lệ sẩy thai khá cao, có khuynh hướng ngày càng tăng, chủ yếu ở vùng phơi nhiễm chất độc hóa học trong chiến tranh. Các yếu tố làm tăng khả năng sẩy thai là mẹ có thai lần đầu dưới 20 tuổi; hơn 2 lần có thai; tiền sử bản thân và gia đình bị bất thường sinh sản; mẹ phơi nhiễm khói thuốc lá, thuốc bảo vệ thực vật. Từ khóa: Sẩy thai, chất độc hóa học trong chiến tranh, thuốc bảo vệ thực vật, hút thuốc lá thụ động, bất thường sinh sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sẩy thai (ST) là việc mang thai kết thúc một cách tự nhiên trước khi thai nhi đạt tới độ tuổi có thể sống bên ngoài tử cung. Theo chuẩn quốc gia của Việt Nam hiện nay, sẩy thai là trường hợp thai và rau bị tống ra khỏi buồng tử cung trước 22 tuần (kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối) [1]. Sẩy thai là một trong những bất thường sinh sản (BTSS) phổ biến nhất. Tỷ lệ sẩy thai khác nhau tùy theo nơi nghiên cứu ở bệnh viện hay tại cộng đồng. Ở Việt Nam, tỷ lệ mẹ bị sẩy thai ở cộng đồng từ 8 - 12% [2; 3]. Có nhiều nguyên nhân gây sẩy thai như do di truyền, do tác động của các tác nhân vật lý, hóa học và sinh vật học, [4]. Phù Cát là nơi từng bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh đặc biệt là vùng núi, có sân bay Phù Cát từng chứa chất độc hóa học trong chiến tranh, hiện vẫn là điểm nóng về chất độc hóa học trong chiến tranh ở Việt Nam [3; 5]. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu sẩy thai nhưng chủ yếu là ở bệnh viện, một số ở cộng đồng nhưng chỉ phản ảnh tỷ lệ sẩy thai mà rất ít đề cập đến đặc điểm dịch tễ học. Sẩy thai ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và gia đình; gánh nặng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe và xã hội. Vậy đặc điểm dịch tễ học sẩy thai ở Phù Cát - Bình Định như thế nào, làm cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng bệnh? Để trả lời những vấn đề đặt ra ở trên, đề tài được triển khai nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học sẩy thai ở huyện Phù Cát - Bình Định. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Phù Cát - Bình Định vào thời điểm tháng 1/2012. Huyện có 18 xã, thị trấn bao gồm 118 thôn và khu phố. Dân số 189.150 người. Trừ người dân ở thị trấn Ngô Mây sống bằng buôn bán nhỏ, nhân viên hành chính, người dân còn lại đều TCNCYH 85 (5) - 2013 103 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC là nông dân trồng lúa hoặc trồng hoa màu. 1. Đối tượng Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (tuổi từ 15 - 49) và đã từng có thai. 2. Phương pháp - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả phỏng vấn về tiền sử sinh sản. - Phương pháp thu thập thông tin: sử dụng phiếu điều tra theo hộ gia đình bằng cách hỏi đáp trực tiếp. - Cỡ mẫu: được tính theo công thức: Trong đó: p là tỷ lệ mẹ có bị sẩy thai = 8,7% [3]. d: sai số tuyệt đối = 1% và DE: hệ số thiết kế mẫu = 2. Chúng tôi điều tra là 6.600 bà mẹ. - Chọn mẫu: Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu 30 cụm ngẫu nhiên đối với 118 thôn và khu phố của huyện. Chọn ngẫu nhiên đơn để chọn các phụ nữ vào nghiên cứu. - Các biến số chủ yếu: sẩy thai là biến nhị phân, biến phụ thuộc. Biến số độc lập: - Tiền sử gia đình có bất thường sinh sản: mẹ ruột của đối tượng nghiên cứu bị một hoặc nhiều hơn trong các dạng bất thường sinh sản gồm: sẩy thai, thai chết lưu và sinh con dị tật bẩm sinh; tiền sử bản thân bị sẩy thai ở lần mang thai đầu. - Các đặc trưng cá nhân: tuổi (biến liên tục); nhóm tuổi có thai lần đầu (biến thứ hạng phân nhóm 5 năm); học vấn (biến thứ hạng); biến nhị phân: hút thuốc lá thụ động; phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật; tình trạng hôn nhân. Nơi ở được phân tích theo nhị phân: ở miền núi; ở vùng sân bay Phù Cát. 3. Phân tích thống kê Dựa vào phần mềm Stata 10.0. Các yếu tố nguy cơ của sẩy thai được tính theo thuật toán so sánh ước lượng khoảng (trong đó tỷ số chênh (OR) và CI95% (khoảng tin cậy) được tính để xác định mức ý nghĩa thống kê. 4. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức nghiên cứu y sinh học của Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực chung của Quốc tế. Tất cả các đối tượng tự nguyện tham gia. Các số liệu thu thập được nếu mang tính chất cá nhân được giữ bí mật. Nội dung nghiên cứu đã được Hội đồng Khoa học Kỹ thuật tỉnh Bình Định thông qua. III. KẾT QUẢ 1. Sự phân bố tỷ lệ mẹ bị sẩy thai ở huyện Phù Cát Kết quả chúng tôi ghi nhận có 6.600 bà mẹ được phỏng vấn. Tuổi trung bình hiện tại 37,27 ± 7,08; tuổi trung bình lúc kết hôn 22,32 ± 3,54; tuổi trung bình có thai lần đầu 23,3 ± 3,71; số thai trung bình 2,63 ± 1,22; 87,95% sẩy thai xảy ra từ 3 tháng tuổi thai trở xuống. Biểu đồ 1 cho thấy mẹ bị sẩy thai là 9,58%; một số đặc điểm của phụ nữ: đã kết hôn, có thai lần đầu dưới 20 tuổi, ở vùng miền núi, hút thuốc lá thụ động, bị phơi nhiễm với thuốc bảo vệ thực vật, ở vùng sân bay Phù Cát và có tiền sử bản thân và gia đình bị bất thường sinh sản có tỷ lệ sẩy thai cao hơn tỷ lệ sẩy thai chung của toàn huyện (> 9,58%). Sẩy thai mang thai ở lần thứ 1 là 3,64%; ở lần thứ 2 là 3,42%; ở lần thứ 3 là 5,53%. Tỷ lệ sẩy thai có xu hướng tăng cao từ lần mang thai thứ 3 trở đi (bảng 1). Sẩy thai xảy ra ở điểm cao nhất vào tháng 1 - 3 hàng năm và sau đó có khuynh hướng giảm dần đến cuối năm (biểu đồ 2). n = Z21-α/2 p (1 - p) d2 DE 104 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 1. Đặc điểm tỷ lệ sẩy thai của 6.600 bà mẹ * BTSS: bất thường sinh sản; TBVTV: thuốc bảo vệ thực vật: ST: sẩy thai. Bảng 1. Tỷ lệ sẩy thai ở các lần mang thai (6.600 bà mẹ) Lần mang thai Số phụ nữ có thai Số phụ nữ sẩy thai % So sánh 1 6,600 240 3,64 p1,2-3,4,5,6,7,8,9 < 0,05 p1-2 > 0,05 p3-4,5,6,7,8,9 < 0,05 p4-5 > 0,05 p4,5-6,7,8,9 < 0,05 p6-7,8,9 < 0,05 p7,8-9 < 0,05 p7-8 > 0,05 2 5,533 189 3,42 3 3,145 174 5,53 4 1,356 107 7,89 5 494 37 7,49 6 156 15 9,62 7 49 7 14,29 8 13 2 15,38 9 4 1 25,00 Tổng 17,350 772 4,45 Từ năm 2002 - 2011, tỷ lệ sẩy thai theo số thai có chiều hướng tăng cao hơn các giai đoạn trước (biểu đồ 3). 2. Một số yếu tố quyết định đến sự phân bố tỷ lệ sẩy thai ở huyện Phù Cát Theo y văn và khả năng thực hiện; chúng tôi sử dụng lệnh sw logistic trong chương trình Stata 10.0 với pr = 0,2 để chọn các biến số đủ điều kiện đưa vào mô hình hồi quy logistic đa biến [6]. TCNCYH 85 (5) - 2013 105 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 2. Khuynh hướng thời gian (theo tháng) xảy ra các ca sẩy thai Biểu đồ 3. Khuynh hướng tỷ lệ sẩy thai/giai đoạn thời gian/tổng số thai Bảng 2. Hồi quy logistic đa biến với tình trạng sẩy thai của mẹ Biến số Số sẩy thai % OR CI 95% Tuổi có thai lần đầu < 20 tuổi 96 13,22 1,00 20 - 24 tuổi 383 9,73 0,73 0,58 - 0,94 25 - 29 tuổi 123 8,14 0,64 0,48 - 0,86 30 - 34 tuổi 22 6,98 0,56 0,34 - 0,91 > 34 tuổi 8 7,21 0,62 0,29 - 1,33 Đã kết hôn 631 9,66 7,08 0,97 - 51,67 Ở vùng núi 114 12,95 1,51 1,21 - 1,89 Hút thuốc lá thụ động 397 10,46 1,27 1,07 - 1,51 Phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật 277 13,10 1,69 1,42 - 2,00 Gia đình có tiền sử bất thường sinh sản 195 13,37 1,55 1,30 - 1,84 Ở vùng sân bay Phù Cát 67 15,23 1,98 1,49 - 2,62 106 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Mẹ có đặc điểm: ở vùng núi, hút thuốc lá thụ động, ở vùng sân bay, gia đình có tiền sử bất thường sinh sản, phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật đều có OR > 1 với CI95% > 1.Tuổi mẹ có thai lần đầu từ 20 - 34 tuổi có OR < 1 với CI95% < 1. Bảng 3. Hồi quy logisctic giữa tuổi mẹ và sẩy thai ở các lần có thai Lần mang thai Số lượt phụ nữ có thai Số phụ nữ bị sẩy thai % OR 95% CI 1 6,600 240 3,64 0,98 0,94 - 1,02 2 5,533 189 3,42 0,98 0,94 - 1,01 3 3,145 174 5,53 1,22 0,98 - 1,05 4 1,356 107 7,89 1,07 1,02 - 1,12 5 494 37 7,49 1,05 0,97 - 1,14 6 156 15 9,62 1,00 0,88 - 1,14 7 49 7 14,29 1,31 1,02 - 1,70 8 13 2 15,38 1,71 0,82 - 3,58 9 4 1 25,00 Tổng 17.350 772 4,45 Với tuổi người mẹ (biến liên tục), cho thấy OR = 1,07; CI95%: 1,02 -1,12 ở lần mang thai thứ 4 và lần thứ 7 có OR = 1,31; CI95%: 1,02 - 1,7. Bảng 4. Sẩy thai ở mẹ có tiền sử bị sẩy thai ở lần mang thai đầu Tiền sử sẩy thai ở lần mang thai đầu Các lần mang thai sau Có % Không % Tổng Có sẩy thai 62 27,93 392 7,38 454 Không sẩy thai 160 72,07 4,919 92,62 5,079 Tổng 222 100 5.311 100 5,533 So sánh p < 0,05; OR = 4,86; CI 95%: 3,55 - 6,66 Trong số 5.533 bà mẹ có ít nhất 2 lần mang thai, mẹ có sẩy thai ở lần mang thai thứ nhất thì OR cho sẩy thai ở những lần mang thai sau là 4,86. TCNCYH 85 (5) - 2013 107 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Phù Cát - Bình Định. Mẫu gồm 6.600 phụ nữ từ 15 - 49 tuổi đã từng mang thai. Phương pháp chọn mẫu xác xuất; thu thập thông tin bằng phỏng vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu. Một số thông tin về mẹ như sau: tuổi mẹ hiện tại: 37,27 ± 7,08; tuổi kết hôn: 22,32 ± 3,54; tuổi có thai lần đầu: 23,3 ± 3,71; số thai của mỗi bà mẹ: 2,63 ± 1,22. Ở Việt Nam, các nghiên cứu dịch tễ học về sẩy thai còn rất ít. Các con số được đưa ra thường là về tỷ lệ các cặp vợ chồng bị sẩy thai hoặc tỷ lệ phụ nữ bị sẩy thai. Đây là mô tả tỷ lệ sẩy thai dựa theo mẹ. Trong số 17.350 lần mang thai đã kết thúc một cách tự nhiên thì tỷ lệ sẩy thai là 4,45% theo số thai và 9,58% theo số bà mẹ; tuổi thai lúc bị sẩy từ 12 tuần tuổi trở lại là 87,95%. Nhận xét đầu tiên của chúng tôi là tỷ lệ sẩy thai ở Phù Cát (2011) theo mẹ và theo số thai đều tương đối cao. Sẩy thai theo số thai có khuynh hướng tăng dần. Trước 1992, tỷ lệ sẩy thai là 3,41%; giai đoạn 1992 - 2001 là 3,87%; 2002 - 2011 là 5,72% với p1-2,3 < 0,05 (biểu đồ 3). Tỷ lệ sẩy thai theo mẹ ở Phù Cát là 8,7% (qua cuộc điều tra năm 2002) của tác giả Trịnh Văn Bảo và cs [3], chúng tôi đưa ra giả thuyết về những yếu tố đang tồn tại ở Phù Cát làm tăng tỷ lệ sẩy thai trong quần thể, trong đó yếu tố môi trường cần quan tâm đầu tiên. Sẩy thai là dấu chỉ điểm trong các nghiên cứu dịch tễ học về các yếu tố độc hại của môi trường lên sức khỏe con người. Kết quả cho thấy sẩy thai xảy ra cao nhất vào quí I và quí II trong năm, đỉnh cao là tháng 3 (99 ca) và sau đó khuynh hướng giảm dần đến cuối năm. Chúng tôi cho rằng, sẩy thai có thể có liên quan đến mùa vì ở Việt Nam có những “mùa kết hôn” như tháng chạp, tháng 2 và kết quả là từ thời điểm đó và sau đó khả năng có thai cao và vì thế khả năng sẩy thai cũng tăng lên; tình trạng miễn dịch của cơ thể có thể thay đổi theo mùa; hơn nữa nhiệt độ và độc chất môi trường cũng có thể thay đổi theo mùa...[7]. Một số tác giả cũng đưa ra các thời điểm sẩy thai trong năm mà đỉnh cao là từ tháng 3 đến tháng 5 trên cơ sở tính toán thời điểm thụ thai từ tháng giêng đến tháng 3 làm cơ sở cho các dự án can thiệp cộng đồng về sẩy thai [8]. Số mẹ bị sẩy thai ở miền núi (12,95%) và khu vực sân bay Phù Cát (15,23%) cao hơn các nơi còn lại. Điều này làm rõ thêm giả thuyết về yếu tố môi trường liên quan đến sẩy thai. Phù Cát là nơi bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh với mật độ dày đặc từ năm 1965 - 1971 đặc biệt là ở khu vực miền núi, đồng thời có sân bay quân sự Phù Cát - nơi từng chứa chất độc hóa học trong chiến tranh để chuẩn bị các phi vụ rải, vì thế khả năng phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh của người dân Phù Cát ở các khu vực này là rất lớn [5]. Kết quả cũng cho thấy 87,95% sẩy thai xảy ra từ 3 tháng tuổi thai trở xuống, đây là sẩy thai sớm; điều này phù hợp với y văn. Đây là do bất thường di truyền [4]. Mô hình hồi quy logistic mà tuổi mẹ là biến liên tục cho thấy mẹ mang thai lần thứ 4 có OR = 1,07; CI95%: 1,02 - 1,12 và lần thứ 7 với OR = 1,31; CI95%: 1,02 - 1,7); có nghĩa là ở lần mang thứ 4, thứ 7 khi tuổi mẹ tăng lên 1 tuổi thì khả năng mẹ bị sẩy thai tăng 1,07 lần và 1,31 lần. Ngoài ra,mẹ có thai lần đầu ở tuổi 20 - 35 có tỷ lệ sẩy thai thấp hơn khi mẹ có thai lần đầu dưới 20 tuổi (13,22%) với OR < 1 và CI95% < 1. Có thể lý giải rằng những người mẹ dưới 20 tuổi, do cơ thể chưa phát triển một cách hoàn thiện để có thể mang thai một cách tốt nhất do đó dễ gây ra sẩy thai. Ngoài 108 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ra công việc chưa ổn định, chưa sẵn sàng về mặt tâm lý, về kinh tế cho việc sinh con... có thể cũng góp phần làm tăng tỷ lệ sẩy thai ở những người trẻ tuổi này. Nghiên cứu của Katz J. và cộng sự (2009) ở vùng nông thôn của Nepal cho thấy phụ nữ dưới 18 tuổi có nguy cơ bị sẩy thai [9]. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sẩy thai tăng lên theo thứ tự của lần mang thai, từ lần mang thai thứ 3 trở đi, tỷ lệ mẹ bị sẩy thai tăng dần với khác biệt thống kê (p < 0,05) với những lần mang thai trước (bảng 1). Theo chúng tôi, lý do là độ tuổi khi mang thai của người vợ tăng lên; người phụ nữ bị giảm sút sức khỏe sau những lần mang thai trước đó; tăng hiệu giá kháng thể của mẹ trong những trường hợp có bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai. Bảng 4 cho thấy mẹ sẩy thai ở lần mang thai đầu tiên thì OR cho khả năng sẩy thai ở các lần sau là 4,86. Như vậy, mẹ có tiền sử sẩy thai là một yếu tố nguy cơ của sẩy thai. Ghi nhận của chúng tôi phù hợp với y văn và một số tác giả khác rằng sau mỗi lần sẩy thai thì nguy cơ bị sẩy thai lần sau xấp xỷ 15% [4]. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị sẩy thai tăng lên một cách có ý nghĩa thống kê nếu các phụ nữ này có mẹ từng bị bất thường sinh sản với OR = 1,55; CI 95%: 1,30 - 1,84. Có thể giải thích rằng: ở những phụ nữ có mẹ từng bị bất thường sinh sản có những căn nguyên gây sẩy thai có thể di truyền được như: các bệnh về máu, mang nhiễm sắc thể chuyển đoạn cân bằng, các bệnh rối loạn chuyển hóa, rối loạn miễn dịch... và truyền các căn nguyên đó cho con cái của họ. Do đó, nguy cơ bị sẩy thai của con cái họ cũng cao hơn bình thường. Ngoài ra, còn một yếu tố khác cũng cần được xem xét đến đó là yếu tố môi trường. Nếu mẹ và con gái cùng sống trong môi trường với các yếu tố phơi nhiễm ổn định thì con cũng sẽ phơi nhiễm, đó là chất độc hóa học trong chiến tranh mà Phù Cát là điểm nóng [3; 5]. Trong nghiên cứu, chúng tôi không phát hiện phụ nữ hút thuốc lá trong quá trình mang thai; tuy nhiên phát hiện nhiều gia đình có chồng và các người thân sống trong cùng một gia đình hút thuốc lá vì thế khả năng người phụ nữ bị ảnh hưởng do hút thuốc lá thụ động (passive smoking) là có thể xảy ra. Tỷ lệ sẩy thai ở nhóm phơi nhiễm khói thuốc lá 10,46% cao hơn nhóm không phơi nhiễm với OR: 1,3; CI 95%: 1,09 - 1,54. Chúng tôi chỉ phân tích mối liên quan ở biến định tính mà chưa có điều kiện phân tích số lượng thuốc lá hút mỗi ngày. Tuy nhiên, mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy có mối liên quan giữa hút thuốc lá thụ động và tình trạng sẩy thai, vì thế có thể nói rằng hút thuốc lá thụ động là một biến độc lập làm tăng khả năng bị sẩy thai mà không cần đến mối liên quan mức độ phơi nhiễm. Không thể chối cãi vì trong khói thuốc lá có rất nhiều chất độc; kết quả này cũng được khẳng định trong một số nghiên cứu của Arffin, F. và cộng sự (2012) [10], Suzuki, F. và T. Kasamatsu (2013) [11]. Các loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trong nông nghiệp ngày càng phong phú. Nhiều nghiên cứu đều không thể phủ nhận tác hại của nó đến sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe sinh sản. Chúng tôi chỉ phân tích mối liên quan ở biến định tính là có hay không phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật mà chưa có điều kiện đi sâu phân tích với từng loại thuốc bảo vệ thực vật cụ thể; nhận thấy phơi nhiễm với thuốc bảo vệ thực vật có liên quan đến sẩy thai với OR: 1,69; CI 95%: 1,42 - 2,00. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng đã được khẳng định bỡi nhiều tác giả [12]. TCNCYH 85 (5) - 2013 109 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC V. KẾT LUẬN Hầu hết sẩy thai ở Phù Cát là sẩy thai sớm. Tỷ lệ 4,45% theo số thai và 9,58% theo mẹ. Tỷ lệ mẹ bị sẩy thai được phân bố chủ yếu ở vùng miền núi và khu vực sân bay Phù Cát, có khuynh hướng ngày càng tăng. Sẩy thai xảy ra chủ yếu vào quí I và quí II. Các yếu tố quyết định làm tăng tỷ lệ sẩy thai của mẹ là: nơi ở; tuổi mẹ có thai lần đầu dưới 20; hơn 2 lần có thai; tiền sử bản thân và gia đình bị bất thường sinh sản, mẹ phơi nhiễm khói thuốc lá, thuốc bảo vệ thực vật. Lời cảm ơn Nhóm tác giả chúng tôi chân thành cảm ơn cố giáo sư tiến sỹ Trịnh Văn Bảo, Viện Y học dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học Y Hà Nội đã cho chúng tôi ý tưởng và hướng dẫn khoa học để thực hiện nghiên cứu; cảm ơn Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định đã cung cấp kinh phí; cảm ơn Trung tâm Y tế huyện Phù Cát đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2009). Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, 97. 2. Đào Quang Vinh (2000). Khả năng ảnh hưởng của môi trường (đất, nước) lên sức khỏe bệnh tật của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại xã Nam Sơn - Sóc Sơn - Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại học Y Hà Nội. 3. Trịnh Văn Bảo và cộng sự (2006). Tư vấn di truyền: biện pháp hạn chế sinh con dị tật bẩm sinh.Tạp chí độc học, 2, 14 - 21. 4. Petrozza J. C. and Barbara O'Brien (2011). Recurrent Early Pregnancy Loss, eMedicine Medical Textbooks. 5. U.S. - Vietnam Dialogue Group on Agent Orange/Dioxin 2010 - 2019 (2012). Declaration and plan of action. 6. Hoàng Văn Minh và cs (2012). Phương pháp phân tích số liệu và trình bày kết quả nghiên cứu khoa học y học. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 94 - 102. 7. Czeizel, A. et al. (1984). Some epidemiological data on spontaneous abortion in Hungary, 1971 - 80. J Epidemiol Community Health, 38(2), 143 - 8. 8. Strand, L. B et al (2011). Methodological challenges when estimating the effects of season and seasonal exposures on birth outcomes. BMC Med Res Methodol, 11: 49. 9. Katz J. et al (2009). Miscarriage but not stillbirth rates are higher among younger nulliparas in rural Southern Nepal. J Adolesc Health, 42 (6), 587 - 95. 10. Arffin, F et al (2012). Environmental tobacco smoke and stress as risk factors for miscarriage and preterm births. Arch Gynecol Obstet, 286(5), 1187 - 1191. 11. Suzuki, F. and T. Kasamatsu (2013). Smoking and obstetric and gynecological disorders. Nihon Rinsho, 71 3), 449 - 453. 12. Sanborn M. R et al (2012). OCFP 2012 Systematic Review of Pesticide Health Effects. Ontario College of Family Physicians. Summary CHARACTERISTICS OF EPIDEMIOLOGY OF SPONTANEOUS ABORTION IN PHU CAT - BINH DINH There are few epidemiological studies on spontaneous abortion (SA). The objective is to de- scribe the epidemiological characteristics of the proportion of SA in Phu Cat. This paper describes 110 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC the 6.600 women aged 15 - 49 who had been pregnant in Phu Cat district at the time in 1/2012. Data analysis by using univariate, multivariate logistic regression models. The proportion of maternal SA is 9,58% with the growing trend. 12.95% maternal SA occurs in mountainous areas (OR = 1.51, CI 95%: 1.21 - 1.89), 15.23% in the Phu Cat Airport (OR = 1.98, CI 95%: 1.49 - 2.62). OR for maternal SA is < 1 with CI 95% < 1 at first pregnancy age group of 20 - 34; for family his- tory of adverse reproductive outcomes is 1.55, CI:95% 1.3 - 1.84; for SA history at first pregnancy is 4.86, CI 95%: 3.55 - 6.66; for exposure to cigarette smoke is 1.27, CI 95%: 1.07 - 1.51; for exposure to plant protection drugs is 1.69, CI 95%: 1.42 - 2. Conclusion: Maternal SA is relative high and tends to increase. SA is mainly in areas exposed to toxic chemicals during the war. Factors increase the likelihood of maternal SA is histories of adverse reproductive outcomes of mothers and family; maternal exposure to tobacco smoke, plant protection drugs; first pregnant mother of under 20 years old. Keywords: Spontaneous abortion, toxic chemicals during the war, plant protection prod- ucts, passive smoking, adverse reproductive outcomes.
File đính kèm:
- dac_diem_dich_te_hoc_say_thai_o_phu_cat_binh_dinh.pdf