Dân tộc và vấn đề dân tộc trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam

Tóm tắt: Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc là những vấn đề quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu lịch

sử nói chung và nghiên cứu Lịch sử Việt Nam nói riêng. Trong bài tham luận này, tác giả cố gắng

chỉ ra quan điểm và cách thức giải quyết vấn đề dân tộc của các thế hệ sử gia Việt Nam. Trên cơ

sở đó, tác giả đã đi sâu phân tích tám vấn đề cơ bản mà giới nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam ở cả

Việt Nam và ở nước ngoài đã và đang quan tâm nghiên cứu, tranh luận sôi nổi, trong đó đặc biệt là

các vấn đề định nghĩa dân tộc, nguồn gốc và sự ra đời của dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa chủ

nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, quá trình dân tộc và sự phát triển của dân tộc Việt Nam, tính

thống nhất và các đặc điểm của dân tộc Việt Nam, v.v Tác giả không chỉ nêu ra ý kiến của mình

về từng vấn đề mà còn gợi mở cho các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc

trong bối cảnh toàn cầu hóa.

pdf 13 trang yennguyen 4360
Bạn đang xem tài liệu "Dân tộc và vấn đề dân tộc trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dân tộc và vấn đề dân tộc trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam

Dân tộc và vấn đề dân tộc trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 
 77 
Dân tộc và vấn đề dân tộc trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam 
Phạm Hồng Tung* 
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 06 tháng 10 năm 2016 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 10 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 11 năm 2016 
Tóm tắt: Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc là những vấn đề quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu lịch 
sử nói chung và nghiên cứu Lịch sử Việt Nam nói riêng. Trong bài tham luận này, tác giả cố gắng 
chỉ ra quan điểm và cách thức giải quyết vấn đề dân tộc của các thế hệ sử gia Việt Nam. Trên cơ 
sở đó, tác giả đã đi sâu phân tích tám vấn đề cơ bản mà giới nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam ở cả 
Việt Nam và ở nước ngoài đã và đang quan tâm nghiên cứu, tranh luận sôi nổi, trong đó đặc biệt là 
các vấn đề định nghĩa dân tộc, nguồn gốc và sự ra đời của dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa chủ 
nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, quá trình dân tộc và sự phát triển của dân tộc Việt Nam, tính 
thống nhất và các đặc điểm của dân tộc Việt Nam, v.v Tác giả không chỉ nêu ra ý kiến của mình 
về từng vấn đề mà còn gợi mở cho các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc 
trong bối cảnh toàn cầu hóa. 
Từ khóa: Dân tộc, Chủ nghĩa dân tộc, Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Việt Nam. 
1. Vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong 
nghiên cứu lịch sử 
Vấn đề dân tộc là một trong những nội dung 
quan trọng nhất của nhận thức lịch sử. Điều này 
nghiệm đúng với cả nhận thức dân gian về lịch 
sử cũng như với khoa học lịch sử. Nhu cầu 
nhận thức lịch sử của nhân loại đã xuất hiện từ 
rất sớm, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện 
dưới những hình thức sơ khai nhất. Khi đó, 
nhận thức lịch sử đơn giản chỉ nhằm đáp ứng 
nhu cầu của cộng đồng đối với việc hiểu biết và 
lưu truyền ký ức dân gian về cội nguồn và về 
bản sắc của mình, và để phân biệt với các cộng 
đồng láng giềng. 
Đến khi sử học ra đời thì vấn đề nguồn gốc, 
đặc tính và bản sắc của các cộng đồng người, 
của các nhà nước, các dòng họ, v.v... vẫn tiếp 
tục là những nội dung chiếm giữ vị trí quan 
_______ 
 ĐT.: 84-913004068 
 Email: phamtung63@gmail.com 
trọng nhất. Về sau này, khi các loại hình dân 
tộc đã hình thành với tính cách là một hình thức 
tổ chức cộng đồng xã hội phức hợp hiện đại, thì 
nhận thức về cội nguồn và con đường hình 
thành dân tộc, về đặc trưng và bản sắc văn hóa 
của dân tộc vẫn tiếp tục là những nội dung quan 
yếu nhất trong nhận thức của các dân tộc về bản 
thân mình và về những cộng đồng dân tộc khác. 
Tri thức về cội nguồn cùng với các tri thức khác 
về lịch sử và văn hóa của dân tộc chính là 
những nền tảng quan trọng của tâm lý dân tộc 
và ý thức dân tộc. 
Với ý nghĩa như vậy, có thể hiểu rằng ý 
thức dân tộc đã manh nha hình thành và phát 
triển trước khi cộng đồng dân tộc thực sự ra 
đời. Do đó, trong nghiên cứu lịch sử dân tộc, 
vấn đề thứ nhất đặt ra chính là nghiên cứu về 
những con đường hình thành dân tộc, về ý thức 
cội nguồn và những hình thức biểu đạt của ý 
thức về cội nguồn, về những điều kiện chủ quan 
và khách quan cũng như những đặc tính riêng 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 
78 
của các cộng đồng người trong các giai đoạn 
tiền dân tộc. 
Đương nhiên, dân tộc là một vấn đề rộng 
lớn, không chỉ bao gồm vấn đề nguồn gốc và 
các con đường hình thành dân tộc. Một loạt các 
vấn đề khác liên quan đến dân tộc, như nội 
dung và các hình thức biểu hiện của chủ nghĩa 
dân tộc; nguồn gốc và đặc trưng của chủ nghĩa 
dân tộc; mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc, ý 
thức dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và ý thức 
cộng đồng; bản chất và đặc điểm của dân tộc 
với tính chất là một loại hình cộng đồng người 
trong lịch sử; mối quan hệ giữa dân tộc với giai 
cấp, nhà nước, với chủng tộc, tộc người và với 
quốc gia; mối quan hệ giữa các dân tộc và giữa 
các quốc gia, v.v.... 
Mỗi vấn đề nêu trên đều đã và đang là chủ 
đề tranh luận sôi nổi trong giới nghiên cứu khoa 
học xã hội trên toàn thế giới, trong đó đặc biệt 
là trên các lĩnh vực sử học, dân tộc học, nhân 
học, văn hóa học, xã hội học, khu vực học và 
khoa học chính trị. Riêng đối với sử học, dân 
tộc không chỉ là một nội dung cốt yếu mà còn là 
một nội dung rộng lớn, bao trùm của khoa học 
lịch sử, dù người ta tiếp cận lịch sử nhân loại từ 
góc độ chung nhất (general history) hay từ bất 
kỳ khía cạnh nào: lịch sử chính trị, lịch sử kinh 
tế, lịch sử xã hội, lịch sử văn hóa, lịch sử quân 
sự hay lịch sử tư tưởng. Thậm chí, có những 
nghiên cứu lịch sử mà xuất phát điểm là nhằm 
để phủ nhận chủ nghĩa dân tộc và vấn đề dân 
tộc thì trước sau cũng không thể né tránh vấn đề 
dân tộc. 
Đặc biệt, từ khi xuất hiện loại hình biên 
soạn lịch sử dân tộc (national history) với nội 
dung cốt lõi là lịch sử quá trình dân tộc 
(national building process), thì vấn đề dân tộc 
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nói 
theo cách của Edward Hallett Carr trong công 
trình nổi tiếng của mình "Lịch sử là gì?": "Sử 
học là quá trình tương tác qua lại giữa nhà sử 
học và sử liệu của anh ta", và do đó, "là cuộc 
đối thoại không bao giờ dứt giữa hiện tại và 
quá khứ" [1]. Như thế, vấn đề luôn luôn đặt ra 
với mỗi nhà sử học, bất kể ông hay bà ta thuộc 
về trường phải sử học nào, khi cầm bút viết 
"lịch sử dân tộc", đều phải trả lời câu hỏi: ta 
đang tham gia vào "cuộc đối thoại" với cộng 
đồng dân tộc nào trong lịch sử đây?" Nếu 
không trả lời được rành mạch câu hỏi này thì rất 
dễ xảy ra tình trạng nhà sử học chọn nhầm đối 
tượng cho cuộc "đối thoại" học thuật của mình. 
Cho nên, cứ mỗi khi có một cách tiếp cận, một 
cách luận giải hay một lý thuyết khoa học mới 
về vấn đề dân tộc và con đường hình thành dân 
tộc ra đời thì các bộ "lịch sử dân tộc" đã và 
đang tồn tại lại phải đương đầu với thử thách 
sống còn: chúng có còn thực sự xứng đáng 
được coi là một sự trình bày khoa học về "lịch 
sử dân tộc" hay không? 
2. Vấn đề dân tộc và quá trình dân tộc trong 
nghiên cứu lịch sử Việt Nam 
Nhìn vào lịch sử sử học Việt Nam, có thể 
thấy rất rõ rằng vấn đề dân tộc đã được quan 
tâm từ rất sớm. Một trong những bằng chứng rõ 
ràng nhất là sự ra đời sớm của những bộ "quốc 
sử", trong đó tiêu biểu nhất là bộ Đại Việt sử ký 
do Lê Văn Hưu biên soạn, hoàn thành vào năm 
1272 dưới triều Trần và bộ Đại Việt sử ký toàn 
thư do Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Hậu Lê 
biên soạn, cơ bản hoàn chỉnh vào năm 1479. 
Trong thời kỳ quân chủ, việc biên soạn 
"quốc sử" trước hết được coi như một dấu hiệu, 
một chuẩn mực của một quốc gia văn hiến. Ngô 
Sĩ Liên viết: "Sử để ghi việc, mà việc hay hoặc 
dở đều làm gương răn cho đời sau." [2] và do 
đó: "Văn phong nổi mạnh, vừa khi vận lớn dấy 
lên, sử bút trau dồi, soạn chép mối rường đời 
trước" [3]. Đồng thời, việc soạn "quốc sử" cũng 
là một dạng thức tuyên ngôn về quốc gia - dân 
tộc. Vẫn lời Ngô Sĩ Liên: "Nước Đại Việt ở 
phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới 
hạn Nam - Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ 
Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể 
cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một 
phương". Và: "Sách Đại Việt sử ký chép chính 
sự của đế vương thời trước. Kể từ khi kế nối 
mở cõi nước Nam, thật đối ngang triều Bắc. 
Dòng mối ức vạn năm, với trời không cùng; 
vua giỏi sáu bảy vị, so xưa có sáng. Tuy 
mạnh yếu có lúc khác nhau, mà hào kiệt đời 
nào cũng có" [4]. 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 79 
Có thể thấy, không chỉ vấn đề dân tộc, bao 
gồm nguồn gốc dân tộc, đại thống dân tộc, đặc 
điểm, chủ quyền, cương vực mà cả hào khí dân 
tộc, ý thức dân tộc cũng được toát lên rất rõ từ 
các bộ sử cũ của Việt Nam. 
Càng về sau, vấn đề dân tộc và chủ nghĩa 
dân tộc càng được giới sử gia Việt Nam quan 
tâm mạnh mẽ hơn. Đặc biệt là trong thời kỳ cận 
đại, trong bối cảnh "nước mất, nhà tan" thì 
chính lịch sử dân tộc lại được các thế hệ lãnh tụ 
của phong trào yêu nước và cách mạng quan 
tâm đặc biệt, một mặt vừa thông qua việc thức 
tỉnh ý thức về lịch sử dân tộc để thức tỉnh và 
hun đúc lòng yêu nước của quần chúng nhân 
dân, và quan trọng hơn, nghiên cứu, đúc rút từ 
lịch sử dân tộc những kinh nghiệm quý báu 
phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc 
và chấn hưng đất nước. 
Phan Bội Châu chính là người đi tiên phong 
theo hướng này. Năm 1905, ngay sau những 
cuộc bút đàm với Lương Khải Siêu trên đất 
Nhật Bản, ông đã "gạt nước mắt và viết cuốn 
Việt Nam vong quốc sử" [5]. Tuy là một tài liệu 
tuyên truyền, tập trung vào việc trình bày lịch 
sử của quá trình nước ta rơi vào tay người Pháp, 
phân tích tình cảnh khốn cùng của nhân dân ta 
dưới ách thống trị của người Pháp, đồng thời ca 
ngợi, tôn vinh những tấm gương xả thân cứu 
nước của các bậc anh hùng từng lãnh đạo phong 
trào kháng chiến và khởi nghĩa chống Pháp, 
nhưng Việt Nam vong quốc sử đã mang dáng 
dấp của một cuốn sử dân tộc hiện đại, khác xa 
cách "chép sử" truyền thống. Đặc biệt, khi phân 
tích về nguyên nhân làm cho nước nhà lạc hậu, 
yếu hèn, cuối cùng bị rơi vào ách nô dịch của 
người Pháp, Phan Bội Châu đã đưa ra một cái 
nhìn mới, đầy tinh thần "tự phán": "Người Việt 
bấy giờ tự coi là mãn túc, ôm vàng vênh váo, 
ếch ngồi đáy giếng không trông thấy trời, văn 
vui chơi, võ yên nghỉ, ngày càng thậm tệ. Trong 
khi ấy về chính giáo thì chất chứa hủ lậu, mọi 
việc đều phỏng Minh Thanh, văn nhân thì khư 
khư giữ theo sách cũ, tự khoe đắc chí; võ sĩ thì 
cốt cờ trống mĩ quan, côn quyền coi như trò 
chơi, tự cho là không ai hơn được. Đáng bỉ hơn 
hết là ức chế dân quyền, coi thường dư luận, 
phàm bàn việc quốc gia đại kế, nhân dân chỉ 
được ở ngoài hỏi rồi than thở mà thôi." và ông 
kết luận: "Đấy là nguyên nhân chính đầu tiên 
của người Pháp lấy Việt Nam vậy" [6]. 
Quan trọng hơn, từ cách phân tích của mình 
Phan Bội Châu đã mang đến một cách nhìn 
nhận hoàn toàn mới về lịch sử dân tộc: không 
chỉ gắn vận nước với dân mà còn đặt phạm trù 
"dân" vào vị trí trung tâm của hệ luận dân tộc, 
vào chiến lược cứu nước. Ông lập luận: "Nước 
ta không phải là gia tài, tổ nghiệp của dân ta 
hay sao? Dân nước ta không phải là chủ nhân 
đời đời giữ gia tài, tổ nghiệp này chăng?" Do 
đó: "Nước ta đã hẳn là gia tài tổ nghiệp của dân 
ta rồi, bỏ mất nó là dân ta, thì thu phục nó tất 
cũng phải do dân ta làm" [7]. Có thể xem đây là 
một cuộc cách mạng trong nhận thức về vấn đề 
dân tộc. 
"Người dân ta, của dân ta, 
Dân là dân nước, nước là nước dân" [8]. 
Tuy nhiên, cách nhìn nhận của Phan Bội 
Châu và thế hệ các nhà Nho cấp tiến đầu thế kỷ 
20 về vấn đề "nước" và "dân" đều ít nhiều chịu 
ảnh hưởng của chủ nghĩa Đác-uyn xã hội. Đối 
với Phan Bội Châu và các nhà Nho thuở ấy, 
đoàn kết toàn dân để cứu nước, để duy tân có 
nghĩa là đoàn kết giống nòi, là "hợp quần", 
"hợp chủng" trong cuộc cạnh tranh sinh tồn "ưu 
thắng, bại liệt": 
"Đã sinh cùng giống cùng nòi, 
Cùng chung đất nước là người cố thân. 
Coi như ruột thịt cho gần, 
Phải thương phải xót quây quần lấy nhau. 
Phúc cùng hưởng, họa cùng đau, 
Một gan một dạ ghi sâu chữ "đồng" 
Mai sau trời có chiều lòng, 
Đời đời để giống Lạc Hồng lại cho" [9] 
Và xa rộng hơn nữa, "đoàn kết quốc tế" 
cũng đặt trên quan niệm "đồng văn, đồng 
chủng, đồng châu": 
"Gương Nhật Bản, đất Á Đông, 
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm". 
Tròn hai thập kỷ sau, quan niệm về dân tộc 
và lịch sử dân tộc trong phong trào yêu nước và 
cách mạng thời cận đại lại đạt được một bước 
tiến xa hơn với sự xuất hiện của một thế hệ trí 
thức "Tây học" - thế hệ nắm giữ vai trò lãnh 
đạo trong cuộc vận động yêu nước, cách mạng 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 
80 
và các phong trào văn hóa, xã hội. Người tiêu 
biểu nhất trong thế hệ đó chính là lãnh tụ 
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. 
Xuất thân từ một gia đình có truyền thống 
Nho học, lại được hưởng thụ nền giáo dục Tây 
học hiện đại, sau một thời gian bôn ba tìm 
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ 
nghĩa Mác - Lênin và trở thành người cộng sản 
Việt Nam đầu tiên, cũng là một trong những 
thành viên sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp 
vào tháng 12 năm 1920. Năm 1923, Hồ Chí 
Minh được cử sang Liên Xô, học tập và công 
tác tại Quốc tế Cộng sản. Chỉ một thời gian 
ngắn sau, Người đã công bố trên một tờ báo của 
Quốc tế Cộng sản những luận điểm vô cùng 
quan trọng của mình về phương pháp tiếp nhận 
và vận dụng chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh đặt 
vấn đề: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình 
trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng 
lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là 
gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại." Do vậy, 
cần phải "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở 
lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học 
phương Đông." Bởi lẽ: "Dù sao thì cũng không 
thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa 
Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu 
mà Mác ở thời mình không thể có được" [10]. 
Đây là thái độ thực sự khoa học và cách mạng 
trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác, 
đúng như Enghen đã đòi hỏi, rằng chủ nghĩa 
Mác là một khoa học và phải đối xử với nó như 
một khoa học. 
Với thái độ và cách tiếp cận như vậy, Hồ 
Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên vận dụng 
học thuyết của Mác để nhìn nhận về diễn trình 
lịch sử văn minh phương Đông, trong đó có 
Việt Nam, và nêu ra một cảnh báo có ý nghĩa 
khoa học và thực tiễn hết sức to lớn: "Mác cho 
ta biết rằng sự tiến triển các xã hội trải qua ba 
giai đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ 
tư bản; và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu tranh giai 
cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! 
Các dân tộc ở Viễn Đông có trải qua hai giai 
đoạn đầu không?" [11]. Đây chính là vấn đề 
tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử 
nói chung và lý luận về sự phát triển của các 
hình thái kinh tế - xã hội của Mác vào xem xét, 
nghiên cứu lịch sử dân tộc - một trong những 
vấn đề căn cốt, sẽ gây ra nhiều cuộc tranh luận 
trong giới sử gia Việt Nam sau này. Điều đáng 
ngạc nhiên là, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã 
chỉ ra một cách chính xác những đặc điểm riêng 
trong vận động lịch sử của các dân tộc Á Đông, 
và đi tới nhận thức đúng đắn, rằng "Cuộc đấu 
tranh giai cấp [ở phương Đông] không diễn ra 
giống như ở phương Tây" [12]. 
Trên cơ sở như vậy, Hồ Chí Minh đã nêu ra 
quan điểm của mình về chủ nghĩa dân tộc, rằng 
"Chủ nghĩa dân tộc là động lực to lớn". Thậm 
chí Người còn cho rằng đó là "động lực vĩ đại 
và duy nhất" của đời sống xã hội của người 
Việt Nam. Và vì vậy, phải phát động chủ nghĩa 
dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc 
và giải phóng xã hội. 
Đó chính là nền tảng nhận thức luận của Hồ 
Chí Minh trong quá trình Người chuẩn bị về lý 
luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng 
Sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Đáng tiếc là 
trong thời kỳ đó, lãnh đạo Quốc tế Cộng sản 
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Stalin, 
cường điệu hóa tới mức độc tôn lý luận về đấu 
tranh giai cấp, phủ nhận và kỳ thị chủ nghĩa dân 
tộc, thậm chí coi chủ nghĩa dân tộc như mặt đối 
lập của chủ nghĩa cộng sản. Trong suốt hơn một 
thập kỷ sau đó, quan điểm, đường lối cách 
mạng  ...  
nhưng không vì thế mà thôn tính, đồng hóa, áp 
bức các cộng đồng thiểu số. Thống nhất cao 
trên cơ sở một tinh thần dân tộc, ý thức cộng 
đồng và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, thống 
nhất trong/của đa dạng chính là đặc điểm lớn 
trong quá trình dân tộc Việt Nam. 
Thứ sáu là một số nội dung cơ bản nhất 
trong lịch sử dân tộc Việt Nam: quân sự, chính 
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng v.v... 
Những thành tựu nghiên cứu về lịch sử dân tộc 
Việt Nam của các nhà khoa học Việt Nam và 
nước ngoài đã đạt được trong sáu thập kỷ vừa 
qua là vô cùng to lớn, góp phần quyết định vào 
việc nhận thức ngày càng đầy đủ và chân thực 
hơn về lịch sử quá trình dân tộc Việt Nam. 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 
86 
Trước hết, phải kể đến thành tựu nghiên 
cứu về lịch sử quân sự, trong đó chủ yếu là lịch 
sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt 
Nam. Những nghiên cứu trong lĩnh vực này đã 
góp phần làm sáng tỏ vai trò của cuộc đấu tranh 
chống ngoại xâm trong quá trình dựng nước và 
giữ nước; làm rõ vai trò và các hình thái phát 
triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong 
các thời kỳ lịch sử và đây chính là một trong 
những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến việc hình 
thành sớm của dân tộc Việt Nam và đồng thời 
cũng là một yếu tố quan trọng nhất thử thách, 
tôi luyện và khẳng định sức mạnh cố kết cộng 
đồng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn 
nhận lại, có thể nói cho đến nay dường như giới 
nghiên cứu cả ở Việt Nam và nước ngoài, vì 
những lý do nào đó, mà chưa đầu tư tâm sức, trí 
tuệ đầy đủ cho việc nghiên cứu những tương tác 
quân sự khác trong lịch sử Việt Nam, ngoài lịch 
sử đấu tranh chống ngoại xâm. Chắc chắn trong 
tương lai, những nghiên cứu về vấn đề này sẽ 
góp phẫn hữu ích vào việc hiểu rõ hơn vai trò 
và ý nghĩa của những tương tác quân sự này 
trong diễn trình lịch sử dân tộc ta. 
Thành tựu nghiên cứu về lịch sử chính trị 
Việt Nam, đặc biệt là về lịch sử nhà nước và về 
lịch sử cách mạng Việt Nam cũng góp phần 
đáng kể vào việc nhận thức về lịch sử quá trình 
dân tộc. Sự xuất hiện và liên tục được củng cố 
của xu hướng tập quyền thống nhất trong lịch 
sử chính trị, trong đó tiêu biểu là sự ra đời và 
phát triển của nhà nước trung ương tập quyền là 
một yếu tố quan trọng góp phần dẫn tới sự ra 
đời sớm và củng cố của dân tộc Việt Nam 
thống nhất trong thời tiền cận đại. Những thành 
tựu nghiên cứu về lịch sử các phong trào yêu 
nước và cách mạng trong các thời kỳ cận đại và 
hiện đại cũng góp phần chỉ ra rằng, bất kỳ 
phong trào nào, dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng 
chính trị nào và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nếu 
tách rời khỏi chủ nghĩa yêu nước/chủ nghĩa dân 
tộc Việt Nam thì lúc đó, phong trào đó đi xuống 
và thất bại. Ngược lại, phong trào nào, đảng 
phái nào biết phát huy cao độ chủ nghĩa yêu 
nước/chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thì phong 
trào đó, đảng phái đó giành được thắng lợi. 
Lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng 
sản lãnh đạo là minh chứng rõ nhất cho các 
nhận định trên. 
Thành tựu nghiên cứu về lịch sử kinh tế và 
xã hội dường còn khá khiêm tốn so với nhu cầu 
nhận thức về lịch sử dân tộc, nhưng những 
nghiên cứu của giới sử gia Việt Nam về tảng 
nền kinh tế, nhất là về phương thức tổ chức sản 
xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương 
nghiệp và sự phát triển và suy tàn của kinh tế 
hàng hóa trong những giai đoạn của mầm mống 
kinh tế hàng hóa, v.v... đã chỉ ra những đặc 
trưng riêng biệt của lịch sử Việt Nam giai đoạn 
tiền cận đại. Tương tự, những nghiên cứu về 
quan hệ xã hội, nhất là về tổ chức xã hội nông 
thôn và tính chất không triệt để trong phân hóa 
xã hội thời tiền cận đại càng khẳng định tính 
chất đặc thù của xã hội Việt Nam truyền thống. 
Tất cả những thành tựu này đã đặt nền tảng cho 
những nhận thức về tính chất đặc thù của quá 
trình dân tộc Việt Nam trước khi chủ nghĩa thực 
dân phương Tây đưa đến những yếu tố mới của 
cơ sở kinh tế - xã hội cận đại. 
Các nghiên cứu về kinh tế - xã hội Việt 
Nam thời cận đại thường gắn với và hướng tới 
những cách giải thích khác nhau về nguyên 
nhân cội nguồn của phong trào yêu nước và 
cách mạng, cho nên thường bỏ qua việc phân 
tích những tác động trực tiếp và vô cùng quan 
trọng của những chuyển biến kinh tế và xã hội 
ấy đối với lịch sử quá trình dân tộc Việt Nam. 
Xin nêu ra một số ví dụ: Trong nhiều nghiên 
cứu được công bố ở nước ngoài, các nhà sử học 
đều nhấn mạnh đến chính sách "chia để trị" 
(divide et empera) của thực dân Pháp, trong khi 
bỏ qua việc chính người Pháp đã đưa đến cho 
đất nước này lần đầu tiên trong lịch sử một hệ 
thống giao thông (đường sắt và đường bộ) khá 
hiện đại thống nhất trên phạm vi toàn quốc, từ 
Bắc đến Nam, từ những trung tâm (Hà Nội, 
Saig Gòn, Huế) tới các vùng núi và nông thôn 
xa xôi. Cùng với đó là hệ thống truyền tin và 
phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại. 
Đây chính là những yếu tố rất quan trọng góp 
phần củng cố khối thống nhất của dân tộc Việt 
Nam trên một nền tảng mới mà trước đó chưa 
bao giờ có được. Chính trên nền tảng mới này 
mà các giao lưu, tương tác văn hóa, xã hội liên 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 87 
vùng ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn, đặt cơ sở 
cho việc phát triển của các cuộc vận động chính 
trị, xã hội, văn hóa trên phạm vi toàn quốc, 
trong đó có các cuộc vận động dân tộc, dân chủ. 
Trong giai đoạn hiện đại, từ 1945 đến 1975, 
có thể nói chưa bao giờ vận mệnh dân tộc, chủ 
quyền quốc gia và tính thống nhất dân tộc lại bị 
đặt trước những thử thách khốc liệt đến như 
vậy, nhưng cũng chưa bao giờ sức mạnh, hào 
khí của chủ nghĩa dân tộc và ý chí thống nhất 
lại bộc lộ mạnh mẽ như vậy. Trong bối cảnh 
những diễn biến lịch sử ở Việt Nam không khỏi 
bị quốc tế hóa theo những cách thức và ở những 
mức độ khác nhau, nhưng không vì thế mà Việt 
Nam trở thành "phòng trò" (showroom) và là 
hình ảnh thu nhỏ của cuộc Chiến tranh lạnh. 
Kết cục của tất cả những quá trình lịch sử đó đã 
cho thấy: tinh thần dân tộc quật cường và ý chí 
thống nhất dân tộc đã vượt lên trên mọi thử 
thách và giành thắng lợi vào mùa xuân năm 
1975. Tuy nhiên, có thể nói việc nghiên cứu về 
hành trình đi tới thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc 
Việt Nam từ 1945 đến 1975 về cơ bản vẫn còn 
ở phía trước. 
Trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế, 
dường như chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đang có 
những chuyển biến rất cơ bản và vấn đề dân tộc 
lại được quan tâm mạnh mẽ hơn, nhất là trong 
mối liên hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ chủ 
quyền quốc gia, củng cố khối đại đoàn kết dân 
tộc và vấn đề hội nhập quốc tế cùng với việc bảo 
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Tuy 
nhiên, ngoài những khảo cứu về các vấn đề 
chuyên biệt, dường như chưa có nhiều những trao 
đổi, tranh luận học thuật về cơ sở lý luận của vấn 
đề dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại. 
Thứ bảy là vấn đề tính thống nhất của dân 
tộc Việt Nam. Như đã chỉ ra ở trên, trong 
nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại 
một xu hướng đồng nhất "dân tộc Việt Nam" 
với "dân tộc Việt/Kinh", tức là với cộng đồng 
tộc người đa số. Càng về sau, giới nghiên cứu ở 
Việt Nam và nước ngoài gần như đi đến nhận 
thức chung, rằng dân tộc Việt Nam là cộng 
đồng của tất cả (54) tộc người hiện sinh sống 
trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như đã 
trình bày ở trên, những nghiên cứu về lịch sử 
quá trình quá trình hình thành và phát triển của 
cộng đồng dân tộc được coi như một thể "thống 
nhất của/trong đa dạng" đó vẫn còn rất nhiều 
khoảng trống. Vì vậy, đã xuất hiện một xu 
hướng hoài nghi về tính thống nhất (unity) và 
tính duy nhất (unique) của dân tộc Việt Nam. 
Xu hướng này, lúc đầu khởi xướng bởi sử gia 
người Mỹ Keith Well Taylor, và sau đó được 
tán đồng bởi một số học giả nước ngoài, như 
Patricia Pelly [17], Li Tana [18], Nola Cook 
[19], Choi Byung Wook [20], và James C. Scott 
[21] v.v... Gần đây (2013) K.W. Taylor đã công 
bố một chuyên khảo đồ sộ "A History of the 
Vietnamese" [22]. Lập luận của Taylor và một 
số tác giả nói trên bắt đầu từ chỗ chỉ ra những 
khác biệt về phong tục, tập quán, ngôn ngữ, các 
mô hình tổ chức xã hội, truyền thống, v.v... 
giữa các vùng miền, các địa phương. Trên cơ sở 
đó, họ đề cao quá mức tính chất địa phương chủ 
nghĩa (regionalism) và phủ nhận sự tồn tại của 
chủ nghĩa dân tộc (nationalism) ở Việt Nam, 
trong quá khứ cũng như hiện tại. Họ cho rằng 
chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thực chất chỉ mang 
tính chất những định hướng bề mặt (surface 
orientation) [23] mà thôi. Do đó, không tồn tại 
một Việt Nam thống nhất, một Việt Nam duy 
nhất trong lịch sử cũng như hiện tại [24]. 
Như vậy là trên phương diện học thuật, tính 
thống nhất và duy nhất của dân tộc Việt Nam 
lại một lần nữa bị thách thức, cần phải được đặt 
ra, nghiên cứu và nhận thức một cách thấu đáo. 
Điều này càng trở nên quan trọng trong bối 
cảnh toàn cầu hóa và sự bùng phát của chủ 
nghĩa ly khai và sự can thiệp thô bạo của một số 
cường quốc vào các xung đột sắc tộc, địa 
phương ở các khu vực khác nhau trên thế giới 
sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. 
Thứ tám là vấn đề chủ nghĩa yêu nước và 
chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh đất 
nước hàng chục năm ròng phải tập trung toàn 
bộ tinh thần và lực lượng vào cuộc đấu tranh 
chống giặc ngoại xâm thì chắc chắn đây là một 
trong những chủ đề được giới sử học Việt Nam 
quan tâm nhất và được đề cập nhiều nhất trong 
hầu hết tất cả các công trình nghiên cứu về lịch 
sử Việt Nam. Tuy nhiên, cách tiếp cận và thành 
tựu nghiên cứu về vấn đề này đã và vẫn đang 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 
88 
bộc lộ khá nhiều khoảng trống. Thứ nhất, trong 
nghiên cứu, dường như chỉ có rất ít người chú 
tâm phân định sự tương đồng và khác biệt về 
nội hàm của hai khái niệm "chủ nghĩa yêu 
nước" (patriotism) và "chủ nghĩa dân tộc" 
(nationalism), và do vậy, xu hướng chung là 
đồng nhất chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa 
dân tộc, tinh thần yêu nước với ý thức dân tộc. 
Thứ hai, chỉ có rất ít những nghiên cứu tìm cách 
khám phá và luận giải về nguồn gốc của chủ 
nghĩa yêu nước Việt Nam. Điều dễ nhận thấy 
nhất là trong nghiên cứu cũng như trong tuyên 
truyền, dường như người ta chỉ gắn chủ nghĩa 
yêu nước với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, 
thậm chí cho rằng truyền thống lịch sử đấu 
tranh chống ngoại xâm chính là nguồn gốc (duy 
nhất) của chủ nghĩa yêu nước! Thứ ba, dường 
như thiếu vắng hoàn toàn những nghiên cứu về 
cơ chế bộc lộ và phát huy tác động của chủ 
nghĩa yêu nước Việt Nam. Thứ tư, gần đây, có 
một số tập thể hoặc cá nhân nhà nghiên cứu tổ 
chức những cuộc khảo sát xã hội học về mức độ 
và tác động của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. 
Trên cơ sở đó người ta cố gắng đoán định và 
định vị chủ nghĩa yêu nước trong thang giá trị 
của xã hội hoặc các nhóm xã hội cụ thể. Kết 
quả nghiên cứu rất khác nhau, thậm chí mâu 
thuẫn với nhau khiến không ít người hoài nghi 
về giá trị đích thực và vai trò của chủ nghĩa yêu 
nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội 
nhập quốc tế. 
Bên cạnh tám vấn đề cơ bản trên đây, trong 
nghiên cứu về vấn đề dân tộc và lịch sử quá 
trình dân tộc Việt Nam giới sử gia Việt Nam và 
nước ngoài còn quan tâm đến một số vấn đề 
khác, như vấn đề quan hệ giữa dân tộc Việt 
Nam với các quốc gia, dân tộc trong khu vực và 
trên thế giới, vấn đề phương pháp trình bày lịch 
sử quá trình dân tộc Việt Nam, v.v... 
Tài liệu tham khảo 
[1] Carr, Edwards H., Was ist Geschichte? Verlag 
W. Kohlhammer, Stuttgart-Berlin, 1963. 
[2] Ngô Sĩ Liên, "Bài tựa sách Đại Việt Sử ký ngoại 
kỷ toàn thư", in trong: Ngô Sĩ Liên và các sử 
thần thời Lê, Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb Khoa 
học Xã hội, Hà Nội, 1998. 
[3] Ngô Sĩ Liên, "Biểu dâng sách Đại Việt Sử ký toàn 
thư", in trong: Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê, 
Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 101. 
[4] Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 99 và 101. 
[5] Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 2, Nxb Thuận Hóa 
và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông - Tây, 
2001, tr. 32. 
[6] Phan Bội Châu, sđd, tr. 34. 
[7] Phan Bội Châu, sđd, tr. 132 và 133. 
[8] Phan Bội Châu, sđd, tr. 152. 
[9] Phan Bội Châu, sđd, tr. 327. 
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 466. 
[11] Hồ Chí Minh, sđd, tr. 465. 
[12] Hồ Chí Minh, sđd, tr. 464. 
[13] "3L" là cách nói tắt của thời đó, chỉ ba lãnh tụ 
cách mạnh là Lenin, Luxemburg và Liebknecht 
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn 
tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
2002, tr. 119. 
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn 
tập, tập 7, sđd, tr. 113. 
[16] Sách trên, tr. 122. 
[17] Xem: Pelly, Patricia, Postcolonial Vietnam. The 
Histories of National Past, Duke University 
Press, 2002. 
[18] Xem: Li, Tana, "An Alternative Vietnam. The 
Nguyen Kingdom in the 17th and 18th 
Centuries", in: Journal of Southeast Asian 
Studies, March 1998. 
[19] Cook, Nola, "Southern Regionalism and the 
Composition of the Nguyen Ruling Elite (1802-
03)", in: Asian Studies Review, 23:2, June 1999, 
pp.227-8. 
[20] Choi, Byung Wook, Southern Vietnam under the 
Reign of Ming Mang: Central Policies and Local 
Response. Ithaca, New York, Cornell Southeast 
Asian Program, 2002. 
[21] Scott, James C., The Art of Not Being 
Governed: an Anarchist History of Upland 
Southeast Asia, Yale University Press, New 
Haven and London, 2009. 
[22] Taylor, Keith W., A History of the Vietnamese, 
Cambridge University Press, 2013. 
[23] Thuật ngữ của Keith W. Taylor. Xem: Taylor, 
K.W, "surface orientation in Vietnam: Beyond 
Histories of Nation and Region", in trong: 
Journal of Asian Studies, 57, 4 (September 
1998), 949-978. 
[24] Taylor, Keith W, A History of the Vietnamese, 
Cambridge University Press, 2013, tr. 625. 
P.H. Tung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 77-89 89 
Nation and the National Issue 
in the Study of Vietnamese History 
Pham Hong Tung 
VNU Institute of Vietnamese Studies and Development Science, 336 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Nation and Nationalism are among the most important issues in historical studies in 
general as well as in studies on Vietnamese history in particular. In this paper, the author tries to 
review and analyze the ways in which generations of Vietnamese historians have applied to deal with 
the nation and national issues. Then, he goes into a deep analysis of eight problems which Vietnamese 
historians and foreign scholars have faced and discussed fiercely while exploring the Vietnamese 
nation and nationalism. Those problems are: the definition of nation, the origins and the birth of 
Vietnamese nation, the relationship between Vietnamese patriotism and Vietnamese nationalism, 
history of the national process and the development of Vietnamese nation, the identity and 
characteristics of Vietnamese nation etc. In this article, the author provides not only his own opinions on 
the named issues but also suggests new ideas for further studies on the history of Vietnamese nation. 
Keywords: Nation, Nationalism, Historical Studies, History of Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfdan_toc_va_van_de_dan_toc_trong_nghien_cuu_lich_su_viet_nam.pdf