Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa trong nghi lễ công giáo tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết sử dụng quan điểm đặc thù luận lịch sử để giải

thích cho tính bản địa hóa của Công giáo ở Việt Nam qua việc thờ

cúng tổ tiên. Văn hóa Công giáo Phương Tây không có phong tục

thờ cúng tổ tiên như văn hóa Việt Nam, tuy nhiên vẫn có truyền

thống thực hiện những nghi lễ Cầu nguyện cho các tín hữu đã qua

đời vào ngày 2 tháng 11 hằng năm. Nghi lễ này khi được thực hiện

tại Việt Nam không còn đơn thuần chỉ là một truyền thống cầu

nguyện cho người đã qua đời của Công giáo mà đã tiếp nhận thêm

những tâm thức bản địa về linh hồn, về thế giới bên kia và mối

quan hệ giữa người sống với người chết trong phong tục thờ cúng

tổ tiên của người Việt. Quá trình bản địa hóa này đã biến một nghi

lễ thuần nhất của Công giáo thành một nghi lễ đậm chất văn hóa

người Việt. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng của tín đồ

Công giáo người Việt, điều này không chỉ thể hiện qua số lượng tín

đồ tham dự thánh lễ trong dịp lễ này mà còn thấy được qua những

suy nghĩ nhận thức của tín đồ đối với việc thờ cúng tổ tiên.

pdf 19 trang yennguyen 1060
Bạn đang xem tài liệu "Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa trong nghi lễ công giáo tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa trong nghi lễ công giáo tại Việt Nam

Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa trong nghi lễ công giáo tại Việt Nam
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 73 
NGUYỄN KHÁNH DIỆP 
LỄ CẦU HỒN: TÍNH BẢN ĐỊA HÓA TRONG NGHI LỄ 
CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM 
(Nghiên cứu trường hợp tại giáo xứ Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện 
Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) 
Tóm tắt: Bài viết sử dụng quan điểm đặc thù luận lịch sử để giải 
thích cho tính bản địa hóa của Công giáo ở Việt Nam qua việc thờ 
cúng tổ tiên. Văn hóa Công giáo Phương Tây không có phong tục 
thờ cúng tổ tiên như văn hóa Việt Nam, tuy nhiên vẫn có truyền 
thống thực hiện những nghi lễ Cầu nguyện cho các tín hữu đã qua 
đời vào ngày 2 tháng 11 hằng năm. Nghi lễ này khi được thực hiện 
tại Việt Nam không còn đơn thuần chỉ là một truyền thống cầu 
nguyện cho người đã qua đời của Công giáo mà đã tiếp nhận thêm 
những tâm thức bản địa về linh hồn, về thế giới bên kia và mối 
quan hệ giữa người sống với người chết trong phong tục thờ cúng 
tổ tiên của người Việt. Quá trình bản địa hóa này đã biến một nghi 
lễ thuần nhất của Công giáo thành một nghi lễ đậm chất văn hóa 
người Việt. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng của tín đồ 
Công giáo người Việt, điều này không chỉ thể hiện qua số lượng tín 
đồ tham dự thánh lễ trong dịp lễ này mà còn thấy được qua những 
suy nghĩ nhận thức của tín đồ đối với việc thờ cúng tổ tiên. 
Từ khóa: Lễ cầu hồn, Thờ cúng tổ tiên, đặc thù lịch sử, tính bản 
địa hóa, nghi lễ Công giáo. 
1. Dẫn nhập 
Quan điểm đặc thù luận lịch sử cho rằng mỗi một nền văn hóa có con 
đường phát triển riêng, có tính đặc thù và giá trị của mình. Sự thay đổi 
văn hóa của tộc người là do quá trình tiếp xúc qua lại giữa các nền văn 
hóa trong một môi trường địa lý, lịch sử nhất định. Quá trình này là vô 
cùng phức tạp không theo một quy luật chung nào1. Chính vì vậy không 
phải dân tộc nào có trình độ văn minh thấp hơn thì buộc phải từ bỏ văn 
hóa của mình để tiếp nhận một cách thụ động văn hóa của dân tộc có 
 Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
trình độ phát triển văn minh cao hơn. Bài viết dùng quan điểm của đặc 
thù luận lịch sử để giải thích cho mối quan hệ giữa văn hóa Công giáo 
Phương Tây với văn hóa người Việt thể hiện qua đời sống tinh thần của 
cộng đồng tín đồ. Trong quá trình tiếp xúc giữa hai nền văn hóa trên đã 
tạo ra sự tồn tại cùng lúc hai hệ giá trị chứ không phải hệ giá trị của 
người Việt bị mất đi hoàn toàn, tín đồ đã tiếp nhận hệ giá trị văn hóa 
Công giáo Phương Tây nhưng đồng thời họ cũng đã đưa những hệ giá trị 
văn hóa bản địa của mình hòa hợp vào nền văn hóa mà họ tiếp nhận hay 
nói cách khác là làm cho Công giáo mang tính bản địa. Bài viết trình bày 
nghi lễ Cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời của Công giáo trong đời 
sống tinh thần của tín đồ người Việt để chứng minh cho tính bản địa hóa 
này. Trong nghi lễ này có thể nhìn thấy sự tồn tại cùng lúc hai hệ giá trị 
chi phối nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của cộng đồng tín đồ làm 
cho một nghi lễ thuần nhất Công giáo nhưng lại mang thêm những tâm 
thức bản địa trong quan niệm về linh hồn sau cái chết về thế giới bên kia 
và mối quan hệ giữa người còn sống và người đã qua đời. Đây là quá 
trình bản địa hóa của Công giáo thể hiện qua việc thờ cúng tổ tiên của tín 
đồ người Việt. 
Khi truyền bá Công giáo ra ngoài Châu Âu, có lẽ Giáo hội luôn 
mong muốn xây dựng các quốc gia Công giáo trên khắp hoàn cầu, Công 
giáo hóa người bản xứ. Không giống như Phật giáo, Công giáo không 
thể chấp nhận truyền thống “Tam giáo đồng nguyên”, hay cùng lúc tồn 
tại nhiều niềm tin tôn giáo như của người Việt2. Khi người Việt theo 
Công giáo thì đồng nghĩa với việc họ sẽ tiếp nhận đức tin Công giáo 
cùng những yếu tố văn hóa gắn liền với Công giáo, đồng thời phải từ bỏ 
nhiều yếu tố văn hóa truyền thống bản địa, nhất là những yếu tố không 
phù hợp với đức tin Công giáo. Theo Alexandre de Rhodes trong Lịch 
sử vương quốc Đàng Ngoài thì người Việt đã rất nhanh chóng từ bỏ 
những niềm tin vào quỷ thần để tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, đối với 
việc thờ cúng tổ tiên thì không diễn ra như vậy3. Phong tục thờ cúng tổ 
tiên của các Giáo hội Á Châu là vấn đề gây nên sự bối rối, tranh cãi và 
chia rẽ của các nhà thần học Công giáo, các dòng truyền giáo, các giáo 
sỹ thừa sai trong thời gian nhiều thế kỷ. Nhóm thừa sai Dòng Tên thì 
cho phép tín đồ được duy trì phong tục này sau khi loại bỏ những mê tín 
dị đoan và xem đó như là những phong tục mang tính xã hội; trong khi 
đó nhiều nhóm thừa sai khác ở Việt Nam lại cấm hoàn toàn, rõ nét nhất 
là nhóm thừa sai Paris4. 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 75 
Người Công giáo cũng như người Việt không theo Công giáo tin vào 
sự bất diệt của linh hồn con người, chết không phải là hết mà là sự tiếp 
tục của cuộc sống mới ở thế giới bên kia, người còn sống nếu quan tâm 
thực hiện những việc hữu ích cho người đã chết thì sẽ nhận được sự cầu 
bầu (tín lý của Công giáo), phù hộ (niềm tin của người Việt) của họ. Tuy 
nhiên sự khác biệt của văn hóa Công giáo Phương Tây với văn hóa 
truyền thống của người Việt cùng với những lý do lịch sử đã làm cho 
những nét tương đồng này trở nên xa lạ với nhau từ đó dẫn đến những 
ngộ nhận, hiểu lầm kéo dài khoảng cách giữa người Việt không theo 
Công giáo với người Việt Công giáo. 
Ngày lễ Cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời theo truyền thống của 
Giáo hội Công giáo hoàn vũ vào ngày 2/11 hằng năm là một truyền thống 
có từ lâu đời của Công giáo Phương Tây, khi vào Việt Nam đã tìm thấy sự 
tương đồng trong truyền thống “hiếu đễ” của người Việt. Chính vì vậy, 
nghi lễ này rất dễ dàng tiếp nhận những tâm thức bản địa của người Việt về 
việc tôn kính, tưởng nhớ người đã qua đời. Ở Việt Nam, ngày lễ này là một 
trong những hoạt động quan trọng của người Công giáo, được tổ chức hết 
sức long trọng và mang nhiều đặc điểm của tư duy văn hóa bản địa. 
Qua quan sát tham dự và phỏng vấn sâu tại giáo xứ Lộc Hòa để 
nghiên cứu ngày nghi lễ này, cho thấy một trong những hoạt động thờ 
cúng tổ tiên của tín đồ cũng như chứng minh cho tính bản địa hóa của 
Công giáo thể hiện qua việc tưởng nhớ, cầu nguyện cho linh hồn người 
đã qua đời trong đời sống tinh thần của tín đồ người Việt. 
2. Vài nét về cộng đồng Công giáo Lộc Hòa 
Giáo xứ Lộc Hòa nằm ở ấp Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, 
tỉnh Đồng Nai. Trước năm 1969, giáo dân cũng chưa về vùng này sinh sống 
và khu vực này cũng không có dân cư sinh sống. Năm 1969, một vị linh mục 
đưa một số gia đình người lính trong quân đội Việt Nam Cộng hòa ở khu 
vực thành thị về vùng này lập nghiệp. Họ chỉ sống chung quanh khu vực nhà 
thờ, bên ngoài được che chắn bởi lô cốt để tránh các làn đạn từ cả hai 
phía. Giáo dân Lộc Hòa là những người di cư từ năm 1954 nhưng họ 
không đến Lộc Hòa ngay năm đó mà sống ở nhiều nơi khác ở Miền Nam. 
Họ chỉ đến đây từ năm 1969, đa số là từ thành thị di chuyển về, sau năm 
1975 thì số giáo dân mới bắt đầu về giáo xứ ngày một đông hơn. 
Cộng đồng Công giáo Lộc Hòa luôn có xu hướng giữ gìn những giá trị 
văn hóa của mình một cách bền chặt nhưng đồng thời trong quá trình 
76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
cộng cư cùng các cộng đồng khác đã diễn ra sự giao lưu, tiếp nhận những 
giá trị văn hóa lẫn nhau. Chính vì vậy những cộng đồng Công giáo di cư 
này mang những nét văn hóa riêng. 
Giáo dân từ khi đến Lộc Hòa định cư đã cộng cư cùng với những cộng 
đồng tôn giáo khác chứ không chiếm ưu thế hoàn toàn về số dân như 
nhiều cộng đồng giáo xứ có nguồn gốc di cư năm 1954 khác tại Đồng 
Nai. Hiện nay, giáo dân Lộc Hòa đang chung sống cùng với số lượng lớn 
người di cư đang làm công nhân tại khu công nghiệp Bàu Xéo với nhiều 
thành phần văn hóa, tôn giáo khác nhau. Đặc điểm này sẽ có nhiều sự tác 
động đến đời sống tinh thần của giáo dân. 
3. Truyền thống tưởng nhớ linh hồn người đã qua đời của Giáo 
hội Công giáo 
Sau Hiến chế Ex quo singulari năm 1742, Giáo hội Rome buộc tín đồ 
vùng Viễn Đông, trong đó có người Việt không được thờ cúng tổ tiên 
theo nghi lễ truyền thống vì các nhà thần học cho rằng việc thờ cúng này 
là những hành vi mang tính tôn giáo, thể hiện niềm tin của tín đồ vào 
người đã qua đời, ảnh hưởng đến đức tin thờ phụng một Đức Chúa duy 
nhất của tín lý Công giáo “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,... 
ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với ta. Ngươi không được 
tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, 
hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ 
phục trước những thứ đó mà phụng thờ”. (Đnl 5, 6-9)5. Tuy nhiên Giáo 
hội không cấm các tín đồ tưởng nhớ đến tổ tiên cha mẹ đã khuất bởi vì 
việc này chẳng những là một điều răn mà còn là luật trong Kitô giáo nói 
chung và nhất là trong Công giáo nói riêng. Truyền thống này bắt nguồn 
từ Do Thái giáo sau đó được chuyển hóa sang Kitô giáo. Trong nhiều 
sách của Kinh Thánh có nói đến các điều bắt buộc, lời khuyên về trách 
nhiệm của người sống đối với người chết. 
Trong sách Xuất Hành chương 20 câu 12 và sách Đệ Nhị Luật chương 
5 câu 16 của Kinh Cựu Ước buộc con cái phải thờ kính cha mẹ như với 
Đức Chúa Trời “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ như Đức Chúa, Thiên Chúa 
của ngươi đã truyền cho ngươi để được sống lâu và để được hạnh phúc 
trên đất Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi ban cho ngươi”6. 
Sách Huấn Ca trong sách Cựu Ước chương 3 từ câu 1 đến câu 16 
khuyên con cái phải tôn kính cha mẹ khi còn sống và tưởng nhớ biết ơn 
khi đã qua đời “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 77 
báu, ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ 
mình sẽ bị đức Chúa nguyền rủa”7. 
Thời Giáo hội sơ khai, trong sách Tân Ước ghi lại việc Thánh Phao Lô 
(Paul) - vị tông đồ của dân Ngoại (người chưa theo Kitô giáo), là một 
trong hai trụ cột của Giáo hội Công giáo, trong thư gửi cho tín hữu ở 
Ephexo có khuyên tín đồ hãy thờ kính cha mẹ theo luật buộc của Chúa 
Trời vì đó là điều răn trọng nhất “Hỡi kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ 
theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó 
là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và 
hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3)8. 
Luật Công giáo không chỉ buộc tín đồ phải thảo kính cha mẹ khi còn 
sống mà còn phải tưởng nhớ, biết ơn và cầu nguyện cho các linh hồn của 
các bậc tiền nhân để họ được sạch tội. Sách Macabe quyển thứ hai trong 
Cựu Ước chương 12 từ câu 38 đến câu 46 dạy tín đồ phải làm nghĩa cử cầu 
nguyện và dâng lễ đền tội cho người đã khuất vì linh hồn họ đã lìa khỏi xác 
phàm không còn có thể làm được gì chỉ còn trông chờ vào nghĩa cử của 
người còn sống để nhờ đó được Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi mà họ đã 
phạm khi còn sống. Trong sách kể lại câu chuyện về việc ông Judas quyên 
được khoảng 2.000 quan tiền và gửi về Jerusalem xin lễ đền tội cho những 
binh sĩ đã chết. Ông làm việc này vì ông nghĩ đến một phần thưởng tốt đẹp 
cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Ông dâng lễ tế đền tạ 
cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi9. 
Qua các lời dạy của Kinh thánh Công giáo, người ta thấy có sự tương 
đồng trong cách hiểu về hiếu đễ, tưởng nhớ người đã qua đời giữa giáo lý 
Công giáo qua việc tôn kính cha mẹ, cầu nguyện cho người đã khuất với 
truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt. Sự khác biệt chỉ thể hiện 
qua các tập tục lễ nghi giữa văn hóa Phương Tây và Phương Đông. Tuy 
nhiên sự khác biệt về văn hóa đó đã không được hiểu và giải quyết một 
cách phù hợp trước Công đồng Vatican II cho nên đã mang lại nhiều tác 
hại cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội Công giáo cũng như đời sống 
của giáo dân Phương Đông10. 
Trước những biến chuyển lớn lao về mọi mặt của thế giới “một trăm 
năm bằng cả mười thế kỷ”, để tồn tại và phát triển, Giáo hội Công giáo 
đã tiến hành triệu tập Công đồng Vatican II (1963 - 1965) nhằm thực 
hiện những canh tân đổi mới trong đó có sự thay đổi thái độ nhận thức 
đối với văn hóa tôn giáo Phương Đông. Hội Thánh đã sửa chữa những sai 
78 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
lầm trong quá khứ và đưa ra những lời dạy phù hợp với giáo lý, với thời 
đại và với văn hóa của các tín đồ ở các dân tộc Phương Đông. Chính sách 
hội nhập với văn hóa tại các vùng Công giáo ngoài Châu Âu là một trong 
những thay đổi của Giáo hội. Giáo hội không chỉ chấp nhận những nghi 
lễ Phương Đông trong việc thờ cúng tổ tiên mà còn dạy tín đồ phải có 
những nghĩa vụ để: 
- Một là tôn kính biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng. 
- Hai là lo cho cha mẹ khi các ngài còn sống được đầy đủ về phần xác 
cũng như phần hồn. 
- Ba là khi cha mẹ qua đời phải lo việc an táng hương khói, làm các 
việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài11. 
Ở Việt Nam, theo tinh thần hội nhập với văn hóa bản địa của Công 
đồng Vatican II, Giáo hội bản xứ đã hướng dẫn và tổ chức những ngày lễ 
và nghi thức cho việc kính nhớ tổ tiên vì đây là một trong những vấn đề 
mà không chỉ tín đồ luôn quan tâm, khắc khoải trên hành trình bảo vệ 
đức tin và gìn giữ bản sắc văn hóa của mình, mà còn đồng thời cũng là 
vấn đề mà hàng giáo phẩm Việt Nam luôn quan tâm và tìm cách giải 
quyết vì vấn đề thờ cúng tổ tiên có sự ảnh hưởng lớn đến việc phát triển 
của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ngoài ngày lễ Cầu cho các tín hữu đã 
qua đời vào ngày 2/11 hàng năm theo truyền thống của Công giáo hoàn 
vũ thì còn có những ngày lễ riêng của Giáo hội Việt Nam dành cho việc 
thờ cúng - kính nhớ ông bà tổ tiên. 
4. Bản địa hóa nghi lễ cầu hồn 
Ngày lễ này là đề xuất của Thánh Odilo, Viện trưởng Tu viện Cluny 
(Pháp) vào giữa thế kỷ XI, ông đã cho các thành viên trong dòng cầu 
nguyện cho người đã qua đời vào ngày 2/11, sau đó sáng kiến này được 
đưa vào lịch phụng vụ Rome. Đến Công đồng Tridentino (1545 - 1563) 
nhấn mạnh lời cầu nguyện của người còn sống sẽ rút ngắn thời gian thanh 
luyện cho linh hồn người đã qua đời trong luyện ngục. Công đồng Vatican 
II cũng khẳng định rằng “Hội thánh lữ hành đã hết sức thành kính nhớ đến 
người đã qua đời và bởi vì dâng hy lễ để đền tội cho những người đã chết 
để họ được giải thóat khỏi tội lỗi là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện”12. 
Chính vì vậy hàng năm vào ngày 2/11 Giáo hội hoàn vũ tổ chức ngày lễ 
cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời đang còn phải thanh luyện 
trong luyện ngục. Ngày lễ 2/11 đối với tín đồ người Việt không chỉ đơn 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 79 
thuần là một ngày lễ tưởng nhớ cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời 
như quy định trong lịch phụng vụ của Công giáo mà trở thành một ngày lễ 
dành riêng cho vệc kính nhớ tổ tiên. Ngày lễ đã hấp thu những tâm thức 
văn hóa bản địa, tinh thần của người Việt từ tên gọi cho đến nội dung ý 
nghĩa của nghi lễ. Đây là một ngày lễ lớn và quan trọng đối với giáo dân. 
Tên gọi chính thức hiện nay mà Giáo hội hoàn vũ gọi ngày lễ 2/11 là 
Commemoration of all the Faithful Departed, dịch qua tiếng Việt là Lễ 
Cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, tuy nhiên Giáo hội Công giáo 
Việt Nam từ lâu đã dùng từ Lễ Các đẳng linh hồn hoặc giáo dân hay gọi 
tắt là Lễ Các đẳng hoặc Lễ Cầu hồn. Các đ ... dây liên kết không đứt giữa con cháu với tổ tiên rất sâu 
đậm trong văn hóa người Việt. Tất nhiên, mọi sự so sánh đều khập khiễng 
nhưng qua sự liên hệ so sánh cũng phần nào cho thấy sự thâm nhập thẩm 
thấu lẫn nhau về các hệ giá trị trong quá trình tiếp xúc của hai nền văn hóa 
trong đời sống tinh thần của tín đồ Công giáo người Việt. 
Giáo dân thường xuyên xin lễ cho người quá cố cho thấy điều này. 
Không chỉ đợi đến ngày mất hay ngày lễ quy định như ngày 2/11 mà giáo 
dân xin lễ cho linh hồn người thân bất cứ lúc nào, lúc có tiền, có niềm 
86 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
vui, nỗi buồn, thuận lợi, khó khăn hay chỉ đơn thuần là chợt nhớ đến 
người thân, trong khi ngủ mơ thấy họ thì đi xin lễ. Việc xin lễ không chỉ 
giúp ích cho người chết mà ngược lại người sống cũng sẽ nhận được sự 
cầu bầu từ người chết. Truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt cũng 
trong ý nghĩa không chỉ tưởng nhớ biết ơn người mất mà còn là để người 
sống cầu xin sự phù hộ của người chết cho chính mình. Có lẽ vì sự gặp 
gỡ giữa hai niềm tin có sự tương đồng này mà càng củng cố niềm tin của 
tín đồ người Việt vào việc xin lễ cầu nguyện cho người chết. Việc xin lễ 
rất thường xuyên cho các linh hồn ngoài tình cảm, nghĩa vụ, sự liên kết 
không bao giờ mất đi giữa người sống với người chết mà còn là trong ý 
nghĩa về mối quan hệ cầu nguyện có qua có lại này. 
Vào ngày lễ mùng 2/11 là dịp giáo dân thường xin lễ cầu nguyện cho 
linh hồn Mồ Côi. Cầu nguyện cho linh hồn Mồ Côi là một nét văn hóa 
chỉ có ở Công giáo Việt Nam. Công giáo Châu Âu có cầu nguyện cho các 
linh hồn đang còn thanh luyện trong luyện ngục nhưng không khu biệt về 
linh hồn Mồ Côi như người Việt. Linh hồn Mồ Côi hiểu theo nghĩa đời 
thường là không có người thân thích, không có ai đồng hành để được 
quan tâm nâng đỡ đời sống đức tin29. 
Trong Công giáo không có linh hồn nào gọi là Mồ Côi vì mọi linh hồn 
đều được Thiên Chúa tạo dựng “người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới 
chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2)30. Tên gọi Mồ Côi chỉ có 
trong văn hóa người Việt, qua cách hiểu về mặt chữ nghĩa của tín đồ thì 
chỉ sự đơn độc của người chết trên hành trình về “quê trời” nhưng khi đi 
vào tìm hiểu sâu hơn thì rõ ràng là các linh hồn Mồ Côi này có sự xuất 
phát từ tâm thức về “cô hồn” trong văn hóa bản địa. Cô hồn theo Từ điển 
tiếng Việt “hồn người chết không được ai thờ cúng”31. 
Trong nghĩa trang giáo xứ Lộc Hòa, những ngôi mộ đất, không có tên 
tuổi, không có người thân thừa nhận, linh mục xứ cho quy tập họ lại 
thành khu vực riêng, xây mộ lập bia gọi chung là những ngôi mộ mồ côi 
để tiện chăm sóc và cầu nguyện cho họ. Vào những dịp lễ ngoài nghĩa 
trang như ngày lễ 2/11 này, khi giáo dân xin lễ cầu nguyện cho người 
thân của mình, họ thường xin thêm lễ cầu nguyện cho các linh hồn Mồ 
Côi, hoặc trong các buổi đọc kinh gia đình họ cũng có đọc kinh cầu 
nguyện cho linh hồn Mồ Côi. Khi dọn dẹp phần mộ người thân, giáo dân 
cũng dọn dẹp luôn những ngôi mộ mồ côi này. Điều này thể hiện truyền 
thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, đó là tính cộng đồng thể hiện sự 
quan tâm đến những người có hoàn cảnh bất hạnh hơn. Đối với người 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 87 
Việt Công giáo thì cầu nguyện cho những linh hồn không phải là người 
thân của mình là thể hiện tinh thần bác ái, thể hiện đạo đức Công giáo 
qua điều răn của Thiên Chúa là biết yêu thương người khác như chính 
bản thân mình. Hơn nữa, cầu nguyện cho họ thì cũng sẽ nhận được lời 
cầu nguyện ngược lại của họ cho chúng ta. 
Ngày mùng 2/11, linh mục xứ sẽ dâng thánh lễ đồng tế ngoài nghĩa 
trang để cầu nguyện cho các linh hồn. Thánh lễ đồng tế là thánh lễ mang 
ý nghĩa rất quan trọng của Công giáo Việt Nam, có sự tham dự của nhiều 
linh mục, ngoài linh mục làm việc trong xứ, còn có những linh mục vốn 
là người của giáo xứ Lộc Hòa nhưng đang làm việc tại các xứ khác cũng 
về tham dự thánh lễ cầu nguyện cho người thân của mình đang chôn cất 
tại nghĩa trang. Giáo dân không chỉ ở Lộc Hòa mà cả những người đi làm 
ăn, học tập ở xa đều cố gắng về để tham dự thánh lễ cầu nguyện cho ông 
bà tổ tiên tại nghĩa trang. Sự tập hợp của rất nhiều người tại nghĩa trang 
cho thấy sự long trọng cũng như tính quan trọng của ngày lễ này trong 
đời sống tinh thần của tín đồ. 
Đốt nhang theo người Công giáo thì không có ý nghĩa gì đặc biệt 
nhưng có thể thấy nhà nào khi cầu nguyện đọc kinh hay có dịp lễ giỗ tổ 
tiên đều đốt nhang. Trước Vatican II, tín đồ không được vái nhang nhưng 
khi được phép thì việc vái nhang giống như là việc đương nhiên phải có 
trong các nghi lễ của tín đồ người Việt. Họ không chỉ vái nhang trước 
bàn thờ hay phần mộ tổ tiên theo truyền thống mà cả trong những nghi 
thức của Công giáo qua việc vái nhang trước Thiên Chúa, Đức Mẹ và các 
Thánh. Giáo dân đã dung hợp ý nghĩa của việc đốt nhang cũng như việc 
đốt trầm hương trong nghi thức Công giáo với nhau, khói hương bay lên 
như gửi lời cầu nguyện vào Thiên Chúa, vào tổ tiên của mình, đồng thời 
còn thể hiện sự kính cẩn thành kính trong lời cầu nguyện của tín đồ. 
Những buổi tối của tháng 11, giáo dân tập trung ra viếng nghĩa trang. 
Trong dịp này những người thân nếu viếng mộ ông bà cha mẹ ở ngoài 
nghĩa trang từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 8 thì Giáo hội sẽ ban đặc ân 
cho họ. Giáo dân sẽ được lãnh nhận ơn đại xá (với điều kiện những người 
đó phải xưng tội rước lễ có nghĩa là họ đã sạch tội và cầu nguyện theo ý 
Giáo hoàng). Những ơn này không dành cho người còn sống mà sẽ được 
chuyển cho người chết để giúp họ chuộc bớt tội lỗi của mình, giáo dân tin 
rằng trong nhũng ngày lễ này thì lời cầu nguyện của họ nhất định sẽ được 
Chúa chấp nhận và sẽ tha thứ tội lỗi cho người thân đã qua đời. 
88 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
Buổi tối nghĩa trang của giáo xứ rất đông giáo dân đến viếng. Hầu như 
gia đình Công giáo Lộc Hòa nào cũng cử người ra nghĩa trang để viếng, 
vừa thăm viếng phần mộ người thân đã qua đời vừa là để lãnh nhận ơn 
đại xá của Giáo hội để chuyển cho người thân của mình. Họ đọc các kinh 
cầu nguyện của đạo cho tổ tiên bao gồm kinh Lạy Cha, Kính Mừng và 
Sáng Danh. Nghĩa trang buổi tối khắp nơi là ánh đèn, nến, tiếng đọc kinh, 
tiếng nói chuyện làm cho nghĩa trang trở nên rất náo nhiệt. Bình thường 
các giáo dân ban ngày vẫn thường ra viếng mộ thân nhân nhất là những 
người vừa mới mất, còn buổi tối thì nghĩa trang rất vắng vẻ có phần lạnh 
lẽo âm u vì không có bật đèn nhưng trong tháng 11 thì nghĩa trang bật 
đèn suốt đêm, trở thành nơi tập trung rất đông người và có cảm giác ấm 
cúng vì những tình cảm của người còn sống dành cho người thân của 
mình. Đối với giáo dân, họ hiểu việc viếng nghĩa trang có ý nghĩa như là 
một dịp để người còn sống gặp lại người chết, con cháu thấy lại ông bà tổ 
tiên của mình, từ đó nhớ đến công ơn tổ tiên, noi gương theo các bậc tiền 
nhân để sống tốt đẹp hơn. 
 Theo thống kê của giáo xứ Lộc Hòa, vào những ngày lễ ngoài nghĩa 
trang này có khoảng 4.000 tín đồ tham dự thánh lễ, ngày lễ này trở thành 
một ngày lễ hết sức quan trọng với tín đồ. Vào dịp này các công ty, xí 
nghiệp tại Trảng Bom cho phép công nhân là người Công giáo buổi chiều 
được về sớm để tham dự thánh lễ, điều đó cho thấy vị trí và ý nghĩa của 
ngày lễ này trong đời sống tinh thần của tín đồ. 
5. Kết luận 
Qua một nghi lễ cầu nguyện linh hồn người chết cho thấy tính bản địa 
hóa của Công giáo tại Việt Nam, đồng thời cũng cho thấy phong tục thờ 
cúng tổ tiên có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần của tín đồ 
Công giáo người Việt. Khi tiếp nhận Công giáo, người Việt không những 
vẫn giữ được phong tục truyền thống của mình mà còn có sự chi phối, tác 
động trở lại đến quan niệm tín lý Công giáo thể hiện qua ngày lễ cầu cho 
các tín hữu đã qua đời, đã làm cho một nghi lễ Công giáo trở thành một 
nghi lễ mang những tâm thức văn hóa bản địa của người Việt. Đặc điểm 
này xảy ra vừa thể hiện vị trí của phong tục thờ cúng tổ tiên trong điều 
kiện lịch sử xã hội Việt Nam cũng đồng thời là do có sự tương đồng giữa 
niềm tin Công giáo với phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt trong 
quan niệm về linh hồn bất tử, về thế giới bên kia và về mối quan hệ qua 
lại giữa người sống với người chết. Chính vì vậy, khi có sự tiếp xúc giữa 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 89 
hai hệ giá trị văn hóa này đã nhanh chóng hòa trộn, tiếp nhận nhau, đặc 
biệt là Công giáo đã tiếp nhận một cách tự nhiên vào nghi lễ của mình 
những giá trị của phong tục thờ cúng tổ tiên. Điều này cũng chứng minh 
cho quan điểm của Đặc thù luận lịch sử về giá trị của những nền văn hóa 
cũng như tính phức tạp của sự thay đổi văn hóa trong quá trình tiếp xúc 
với nhau. Sự biến đổi này không nhất định đi theo một con đường nhất 
định, một quy luật chung cho cả thế giới. Ở đây cho thấy vai trò của chủ 
thể văn hóa là cộng đồng tín đồ Công giáo người Việt, họ đã không thụ 
động trong quá trình tiếp nhận văn hóa Công giáo mà đã tạo ra những đặc 
điểm văn hóa riêng biệt của mình, một hệ giá trị văn hóa vừa mang 
những đặc trưng cơ bản của Công giáo nhưng cũng không xa rời những 
nét văn hóa bản địa của mình, nhất là trong việc thờ cúng tổ tiên./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Khoa Nhân học (2013), Nhân học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố 
Hồ Chí Minh: 41, 42. 
2 Theo nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, “Người Việt Nam hay tin ma tin quỷ, 
sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả”, Xem: Trần Trọng 
Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh: 15. 
3 Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Nxb. Thành phố 
Hồ Chí Minh: 67 - 68. 
4 Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt (1615 - 1773), Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội: 481. 
5 Cách chú thích theo Kinh Thánh, Trích trong sách Đệ Nhị Luật chương 5 từ câu 
6 đến câu 9, Xem: Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh 
trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh: 313. 
6 Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), sđd: 144, 314 
7 Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), sđd: 1282. 
8 Thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Ephexo chương 6 từ câu 1đến câu 3, 
Xem: Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh trọn bộ Cựu 
Ước và Tân Ước, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh: 2182. 
9 Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), sđd: 952. 
10 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội: 566. 
11 Tòa Giám mục Xuân Lộc (2009), Hồng ân huấn giáo sống đạo, Nxb. Tôn giáo, 
Hà Nội: 100. 
12 Giáo hoàng học viện Pio X (1972), Thánh công đồng chung Vaticano II, Hiến 
chế - Sắc lệnh - Tuyên ngôn, Đà Lạt: 270. 
13 Hoàng Phê (chủ biên, 2012), Từ điển tiếng Việt, có chú chữ Hán cho từ ngữ Hán 
- Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng: 168, 474. 
14 Lý Hành Kiện (Chủ biên, 2004), 现 代 汉 语 规 范 词 典 (Từ điển Quy phạm 
Hán ngữ hiện đại), Nxb. Ngữ Văn, Bắc Kinh (Trung Quốc): 281, 443. 
90 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
15 Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu từ vựng Công giáo: 412. 
16 Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu từ vựng Công giáo: 414. 
17 Hoàng Phê (chủ biên, 2012), Từ điển tiếng Việt, có chú chữ Hán cho từ ngữ Hán 
- Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng: 208. 
18 Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu từ vựng Công giáo: 415. 
19 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, 
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 323. 
20 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2011), Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội: 162. 
21 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, 
sđd: 321. 
22 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2011), Từ điển Công giáo 500 mục từ, sđd: 217. 
23 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, 
sđd: 323. 
24 Phan Tấn Thành, Đinh Thị Sáng (2014), Cánh chung học, Tp. Hồ Chí Minh: 268. 
25 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, 
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 323. 
26 Phan Tấn Thành, Đinh Thị Sáng (2014), Cánh chung học, Tp. Hồ Chí Minh: 361. 
27 Phan Tấn Thành, Đinh Thị Sáng (2014), sđd: 274. 
28 Phan Tấn Thành, Đinh Thị Sáng (2014), sđd: 360. 
29 Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu từ vựng Công giáo: 413. 
30 Sách Ngôn sứ Isaiah, xem: Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh 
thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh: 1468. 
31 Hoàng Phê (chủ biên, 2012), Từ điển tiếng Việt, có chú chữ Hán cho từ ngữ Hán 
- Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng: 327. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trương Bá Cần, (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội. 
2. Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt (1615-1773), Nxb. Tôn 
Giáo, Hà Nội. 
3. Giáo hoàng học viện Pio X (1972), Thánh công đồng chung Vaticano II, Hiến 
chế - Sắc lệnh - Tuyên ngôn, Đà Lạt. 
4. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, 
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
5. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2011), Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội. 
6. Lý Hành Kiện (Chủ biên, 2004), 现 代 汉 语 规 范 词 典 (Từ điển Quy phạm Hán 
ngữ hiện đại), Nxb. Ngữ Văn, Bắc Kinh (Trung Quốc). 
7. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb.Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
8. Hoàng Phê (chủ biên, 2012), Từ điển tiếng Việt, có chú chữ Hán cho từ ngữ Hán 
- Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng. 
Nguyễn Khánh Diệp. Lễ cầu hồn: Tính bản địa hóa... 91 
9. Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Nxb. Thành phố 
Hồ Chí Minh. 
10. Phan Tấn Thành, Đinh Thị Sáng (2014), Cánh chung học, Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
11. Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh trọn bộ Cựu Ước và 
Tân Ước, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh. 
12. Tòa Giám mục Xuân Lộc (2009), Hồng ân huấn giáo sống đạo, Nxb.Tôn giáo, 
Hà Nội. 
13. Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu từ vựng Công giáo. 
14. Tư liệu điền dã của tác giả tại giáo xứ Lộc Hòa từ (2012-2016). 
Abstract 
REQUIEM: AN INDIGENOUS CHARACTERISTICOF THE 
CATHOLIC LITURGY IN VIETNAM 
(A case study of Lộc Hòa parish, Tây Hòa commune, Trảng Bom 
district, Đồng Nai province) 
This text uses the view of the historical Particularism to explain the 
indigenous characteristic of Vietnam Catholicism through the ancestral 
worship. The western Catholic culture has no custom of ancestral worship 
like the Vietnamese culture; however, it has the traditional liturgy as the 
Requiem Mass offered for the repose of the souls of the dead on the 2nd of 
November. In Vietnam, this rite is not only a celebration for the repose of 
the dead, but it is also absorbed thenative mentality of the soul, the 
afterlife, and the relationship between the living people and the dead 
through the ancestral worship custom of the Vietnamese. This localization 
process has turned a Catholic liturgy into a rite characterized by the 
Vietnamese culture. It is one of the important rites of the Vietnamese 
Catholics; this is not only manifested through the amount of believers who 
have attended this Mass, but it is also realized through the awareness, 
thoughts of the believers towards the ancestral worship. 
Keywords: Ancestral worship, historical particularism, localization. 

File đính kèm:

  • pdfle_cau_hon_tinh_ban_dia_hoa_trong_nghi_le_cong_giao_tai_viet.pdf