Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút "Thương nhớ mười hai"

TÓM TẮT: “Thương nhớ mười hai” là một tùy bút xuất sắc, là tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật

của Vũ Bằng. Bên cạnh những nhớ thương đầy vơi về bốn mùa Bắc Việt, tác phẩm còn thể hiện rõ nét

chân dung cái tôi cô đơn, lạc loài của tác giả. Chân dung ấy được bộc lộ qua cảm giác xa lạ, bất hòa

với không gian, môi trường, hoàn cảnh; qua cảm nhận sâu đậm về chia lìa, ly biệt và qua mặc cảm, nỗi

buồn về thân phận.

pdf 7 trang yennguyen 2360
Bạn đang xem tài liệu "Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút "Thương nhớ mười hai"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút "Thương nhớ mười hai"

Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút "Thương nhớ mười hai"
59TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
 1. MỞ ĐẦU
Vũ Bằng là một hiện tượng văn học có 
nhiều uẩn khúc, éo le cả trong đời và trong 
văn. Người ta nói rằng, suốt cuộc đời, Vũ 
Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về 
phận mình cái đích thực, cái chân chính 
của Nghệ thuật. Mong ước và nỗ lực của 
nhà văn giờ đã được đền đáp: những nghi 
vấn, khuất lấp về tiểu sử dần được làm 
sáng tỏ; tác phẩm của ông được khôi phục, 
công bố và được giới nghiên cứu phê bình 
quan tâm; Vũ Bằng được đánh giá không 
chỉ là nhà báo bậc thầy mà còn là một nhà 
văn tài năng, có một vị trí không thể thay 
thế trong lịch sử văn học Việt Nam... Văn 
Vũ Bằng, ở những trang viết tiêu biểu 
nhất, có cái buồn xa vắng, nỗi nhớ đất đai 
và năm tháng, có nỗi buồn trong trẻo mà 
thấm thía của người xa xứ. Đó là nỗi buồn 
nhớ đặc thù thuở đất nước chia đôi. Đọc 
“Thương nhớ mười hai”, một tùy bút xuất 
sắc của nhà văn, chúng tôi nhận thấy, bên 
cạnh nỗi buồn nhớ dằng dặc về Hà Nội, 
về Bắc Việt, luôn hiện diện một cái tôi cô 
đơn, lạc loài của Vũ Bằng. Cái tôi ấy khắc 
khoải và day dứt trên mỗi dòng văn, mỗi 
câu chữ của cuốn tùy bút viết về “mười 
hai tháng thân phận một đời người” (Chữ 
dùng của Tô Hoài) [2; 115]. 
CÁI TÔI CÔ ĐƠN, LẠC LOÀI CỦA VŨ BẰNG TRONG 
TÙY BÚT “THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI”
Nguyễn Thị Thúy Nga 
Khoa Ngữ văn – Khoa học xã hội 
Email: ngantt74@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 08/5/2019
Ngày PB đánh giá: 25/5/2019
Ngày duyệt đăng: 31/5/2019
TÓM TẮT: “Thương nhớ mười hai” là một tùy bút xuất sắc, là tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật 
của Vũ Bằng. Bên cạnh những nhớ thương đầy vơi về bốn mùa Bắc Việt, tác phẩm còn thể hiện rõ nét 
chân dung cái tôi cô đơn, lạc loài của tác giả. Chân dung ấy được bộc lộ qua cảm giác xa lạ, bất hòa 
với không gian, môi trường, hoàn cảnh; qua cảm nhận sâu đậm về chia lìa, ly biệt và qua mặc cảm, nỗi 
buồn về thân phận.
Từ khóa: Vũ Bằng, “Thương nhớ mười hai”; tùy bút; cái tôi cô đơn.
THE MISFIT AND LONELY SELF OF VU BANG IN “THUONG NHO MUOI HAI”
ABSTRACT: “Thuong nho muoi hai” is a remarkable collection of reflective essays – a crystallization 
of Vu Bang’s artistic talent. Besides the pure nostalgia for the four seasons of Northern Vietnam, the 
work clearly illustrates the portrait of a lonely and misfit self of the author. That portrait is reflected 
through a sense of distance and alienation from settings and circumstances; through intense feelings of 
seperation and a sense of inferiority.
Keywords: Vu Bang, “Thuong nho muoi hai”, reflective essays, lonely self.
60 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
2. NỘI DUNG 
2.1. Cảm giác xa lạ, bất hòa với không 
gian, môi trường, hoàn cảnh sống
Đặc trưng cơ bản nhất của ký là thông 
tin sự thật, sự thật của sự kiện và sự thật 
của tâm trạng. Trong ký, tuỳ bút là thể tài 
đậm chất trữ tình nhất vì tuỳ bút là kiểu 
trần thuật bám sát vào mạch cảm xúc của 
cái tôi trữ tình bằng một lời văn giàu liên 
tưởng, giàu xúc cảm, nội dung cô đọng, 
ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu. 
Bởi vậy, với gần ba trăm trang sách, tùy 
bút “Thương nhớ mười hai” được viết 
ra với mục đích mà theo nhà văn “không 
có gì cao rộng, chẳng qua chỉ là đánh dấu 
những ấn tượng hiện ra trong trí óc những 
buổi mây chiều gió sớm, sầu biệt ly vơi 
sáng đầy chiều” và khơi “những mối cảm 
hoài” của “những người khách thiên lý 
tương tư” [1;17]. Tức là, “Thương nhớ 
mười hai” đậm đặc chất trữ tình, chất thơ 
và đau đáu những tâm sự, nỗi niềm riêng 
của một người đang sống cảnh ngày Nam 
đêm Bắc. Cái tôi của Vũ Bằng, hiển nhiên, 
sẽ được phơi trải đủ đầy, rõ nét trong tùy 
bút này qua những cảm xúc, những thức 
nhận về sự sống, con người trong không 
gian ngoài ấy, trong này, ở thời gian từ 
hiện tại mà hồi tưởng về quá khứ.
Ở “Thương nhớ mười hai”, trạng thái 
cô đơn, lạc loài, trước hết, được hình thành 
từ cảm giác xa lạ, bất hòa của Vũ Bằng với 
không gian, môi trường, hoàn cảnh sống 
của hiện tại.
Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, toàn bộ 
tuổi thơ, tuổi trẻ, con đường lập thân, lập 
nghiệp trong 40 năm của Vũ Bằng đều 
gắn với môi trường tự nhiên xã hội của Hà 
Nội nói riêng, Bắc Việt nói chung. Không 
gian thiên nhiên, văn hóa truyền thống 
Bắc bộ, vì thế, đã ăn sâu vào máu thịt, ám 
ảnh trong tâm thức và trở thành thứ năng 
lượng cần thiết cho sự tồn tại, phát triển 
nhân cách, tâm hồn nhà văn. Kháng chiến 
chống Pháp kết thúc, được sự phân công 
của tổ chức tình báo cách mạng, thực hiện 
nhiệm vụ mới, Vũ Bằng chia tay vợ con, 
nhập vào đoàn người nhốn nháo kéo nhau 
vào Nam. Định cư tại Sài Gòn, chấp nhận 
hi sinh danh tiết trong tình thế ngặt nghèo, 
Vũ Bằng đã có sự lựa chọn và nhập cuộc 
đẹp đẽ của một người nghệ sĩ, người trí 
thức yêu nước. Tuy nhiên, có một sự thực 
là, hi vọng của ông cũng như nhiều chiến 
sĩ cách mạng khác về ngày Hiệp thương 
thống nhất, Bắc Nam sum họp lại kéo dài, 
khiến ông có lúc hoang mang, lo lắng, 
bất an. Cơ hội đoàn tụ gia đình, trở về 
nơi chôn nhau, cắt rốn càng lúc càng như 
bóng chim tăm cá. Do đó, “Thương nhớ 
mười hai” đã trở thành “bản sầu ca đằng 
đẵng của một kiếp sống tha hương, khắc 
khoải nỗi nhớ thương về miền viễn xứ” 
[2;151]. Với tâm lí của kẻ ăn đợ, ở nhờ 
nên sống giữa Sài Gòn hoa lệ, nhộn nhịp, 
trung tâm của Nam Việt lúc ấy, Vũ Bằng 
luôn cảm thấy mình như một người xa lạ, 
thừa thãi. Dù từng bảo “cùng là đất quê 
hương mình, đi đâu mà chẳng thế?” nhưng 
ông vẫn không thể không nhận ra những 
cái khác biệt, những điểm khó thích nghi, 
không dễ hòa hợp của một vùng đất cho 
đến lúc bấy giờ vẫn lạ lẫm với mình. Đó 
là một không gian thiên nhiên đặc trưng 
ở vùng nhiệt đới gần xích đạo, với thời 
tiết nắng nóng và mưa nhiều; là một môi 
trường sinh thái với nhà cửa thấp tè, chật 
chội, phố xá luôn ồn ào, náo nhiệt: 
“Ở đây, từ tháng 1, trời nắng chói 
chang, làm cho đôi mắt mờ, đầu nhức” 
[1; 24]. 
61TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
“Đêm tháng Giêng ở Sài Gòn nóng 
quá, có khi đến sáng mà người nằm ngủ 
còn lã chã mồ hôi” [1; 32].
“ Lòng đã nóng như thiêu, nhà lại thấp, 
bức cứ điên lên” [1; 24]. 
“Tháng Giêng ở miền Nam ngà ngọc 
có một vẻ đẹp “li kì” làm cho người ta 
háo hức, khiến cho cổ họng khô teo, muốn 
uống nước cả ngày” [1; 26].
“Vào cữ Tết, nắng ở đây vỡ đầu xát 
tai”[1; 290].
“Nhưng cái mưa ở miền Nam, lạ lắm. 
Chính vào lúc mình cầu mưa như thế 
thì chọc thủng trời ra cũng chẳng mưa; 
nhưng lại cũng vào lúc mình không ngờ 
và không mong mưa nhất thì mưa, nhiều 
khi không kèn không trống, trút xuống 
ầm ầm làm người đi đường không kịp tìm 
chỗ ẩn” [1; 115] 
Cố gắng để thích nghi với những cái 
lạ, những cái bất thường, trái ngược ấy mà 
không thành, người ta thường gặp trong 
tùy bút “Thương nhớ mười hai” một cái 
tôi thấm thía nỗi chán chường, cô đơn.
Không chỉ đối mặt với những cái khác 
lạ thuộc cảnh quan môi trường sinh thái, 
nhà văn còn phải đối mặt với những trái 
ngược thuộc lối sống đô thị bị lai căng kiểu 
Mỹ. Đó là nhịp sống nhanh, vội vàng hối 
hả của những đô thị đang lên: “trong đây, 
người ta vội quá: người tử tế lo làm lụng 
vội vàng để kiếm sống đã đành, ngay các 
cô tứ thời lấy ngoại kiều “ngồi lên đống 
tiền” cũng vội; các xe hơi chạy vội, cái kèn 
xe bóp vội, uống rượu cũng vội, xoa mạt 
chược cũng vội” [1; 25]; là cuộc sống văn 
minh mà bát nháo, xô bồ của một đô thị 
hiện đại: “nhà nào dù kiết xác đến đâu cũng 
có một tủ lạnh để vài ba chai nước lọc, một 
cái radio, một cái tivi hò hét những điệu vũ 
điên cuồng cho ông via, bà cụ, chàng trai, 
cô gái đều rú cả lên muốn “vặn mình xà” 
nhảy điệu vũ “cha cha cha” rồi thoát y vũ 
trong “sô” Trương Minh Giản” [1; 26]; là 
lối sống mà những tập tục truyền thống như 
lễ Tết không còn được mong đợi, nó đôi 
khi trở thành gánh nặng và sự phiền phức: 
“Liền ba ngày Tết mà cứ tái diễn cái trò như 
thế (chúc rượu) thì sức mấy mà không quỵ, 
mà không chán mớ đời. Vì thế, có nhiều 
người ở đây sợ Tết, cứ sắp hết năm thì lại 
xếp một số tiền đem cả gia đình đi Đà Lạt 
hay Vũng Tàu, Nha Trang với thâm ý “bế 
môn môn tạ khách” [1; 290]. Không thể 
hòa đồng với không gian văn hóa đô thị 
Sài Gòn, cái tôi nhà văn trở thành kẻ lạc 
lõng, chơ vơ, lạc loài nơi đất khách, triền 
miên trong trạng thái cô đơn, “cô chích”. 
Dị ứng với những điều lạ lùng trong lối 
sống của con người vùng Nam Việt mà bao 
năm định cư tại Sài Gòn, Vũ Bằng được 
chứng kiến, trải nghiệm, thành ra, cảm giác 
tha hương, nỗi niềm hoài niệm về Bắc Việt 
của tác giả trong tùy bút này lại càng khắc 
khoải và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nó 
tràn ra thành nỗi nhớ dằng dặc, “đầy sáng 
vơi chiều”, thành tình yêu sâu nặng mà tác 
giả “Thương nhớ mười hai” dành cho quê 
hương, xứ sở.
2.2. Cảm nhận về sự chia lìa, li biệt
Cảm nhận sâu đậm về chia lìa, li 
biệt thường đưa đến nét tâm lí cô đơn, 
cô quạnh cho con người. “Thương nhớ 
mười hai” cũng ở trong trường hợp đó. 
Các nhân vật dù xưng anh, xưng tôi hay 
được gọi là người khách xa nhà, người 
xa quê trong thiên tùy bút này, lúc nào 
cũng thường trực ý thức về nông nỗi cách 
biệt, chia li của phận mình. Bởi lẽ ấy, 
trong tác phẩm mới xuất hiện một loạt 
các trạng ngữ chỉ không gian được chia 
62 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
thành hai vế khác biệt: ở Sài Gòn, ở miền 
Nam, ở đây, ở trong đây, trong này và ở 
Hà Nội, ở Bắc, ở miền Bắc, ở Bắc Việt 
Đây có thể xem là minh chứng cho thấy 
nỗi day dứt của nhà văn về tình trạng tha 
hương của mình, đồng thời, nó chính là 
cách giúp nhà văn tạo ấn tượng rõ nét về 
khoảng cách không gian trùng trùng sông 
núi của sự chia xa, cách trở.
Mở đầu “Thương nhớ mười hai”, phần 
Tự ngôn, Vũ Bằng chẳng phải đã tìm thấy 
một hình ảnh so sánh rất đúng và trúng để 
diễn tả tâm tư vụn vỡ và nỗi đau đớn, giày 
vò trong tâm hồn của con người phải lìa 
quê hay sao. Đoạn văn sau đây chẳng phải 
đã nói hết được tâm trạng cô đơn, trống 
rỗng của cái tôi tác giả hay sao:
“Lòng người xa xứ y như thể là khúc 
gỗ bị mối ăn, mục nát từ lúc nào không 
biết. Trông bề ngoài thì không có gì khác 
lạ, nhưng cầm một cánh hoa khẽ đập vào 
thử mà xem: tiếng gỗ kêu nghe mệt mỏi, u 
buồn, mà nếu gõ mạnh thêm chút nữa, ta 
sẽ thấy gỗ vỡ tan, để lộ ra những tảng mục 
lỗ chỗ như tổ ong, tiết ra một thứ bụi vàng 
hanh hao, nhạt nhẽo. Con tim của người 
khách tương tư cố lí cũng đau ốm y như 
gỗ mục. [1; 10].
Trong một đoạn khác, cái tôi cô đơn, 
lẻ loi được kết tụ và bầm lại, trở thành nỗi 
đau, khi nhức nhối, lúc âm ỉ, khiến kẻ ly 
hương chẳng thể yên lòng. Chữ nhớ lặp đi 
lặp lại mấy chục lần không chỉ diễn tả nỗi 
nhớ vơi đầy, dằng dặc của tác giả mà còn 
cho thấy niềm khắc khoải li biệt trong tâm 
trạng người xa quê:
“Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ 
những nét mặt thương yêu, nhớ những 
con đường đã đi về năm trước, nhớ người 
bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên con 
đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan 
còn thơm mát hơn cả hoa cau hoa bưởi. 
Người ta nhớ heo may, giếng vàng, người 
ta nhớ cá mè, rau rút, người ta nhớ trăng 
bac, chén vàng.
Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội 
cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng 
nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn 
mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng hát người mẹ 
ru con buổi trưa hè mà nhớ lại, nhớ hoa 
sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả 
bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông đào, 
nhớ sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả 
bầu trời mà nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, 
vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng, 
bưởi Van Phước, cam Bố Hạ, đào Sa Pa, 
mà nhớ xuống”[1;13].
Cánh cánh nỗi đau chia lìa, rưng rưng 
nỗi nhớ thương trong xa cách, Vũ Bằng 
đã có những dòng hoài niệm đẹp đẽ, lấp 
lánh về một không gian thiên nhiên xứ 
Bắc trong trẻo mà diễm tình. Hình ảnh cố 
hương, vì thế, sống động, có hình, có nét 
trên những trang văn Vũ Bằng. 
 Như một quy luật tất yếu của trái tim, 
nhớ về cố hương, tác giả không thể không 
nhớ tới cố nhân. Người phụ nữ gieo nhớ 
và thương, để lại cả những mong ngóng 
và dày vò, mang đến ám ảnh về cả sum 
vầy và li biệt cho Vũ Bằng, không ai khác, 
đó chính là Quỳ, người vợ tấm mẳn, tào 
khang ở đầu kia đất nước. Nhắc hay gọi 
tên Quỳ chỉ vài lần nhưng bóng dáng một 
người đàn bà đẹp như trong mộng, một 
người bạn đời tri kỉ, chu đáo, một tình 
nhân quyến luyến, một người mẹ tảo 
tần, người vợ ân cần, chiều chuộng, một 
người phụ nữ gia đình biết chăm lo, quán 
xuyến lại đậm đặc và in bóng trên hầu 
hết các chương của cuốn tùy bút. Nó làm 
thành những đoạn, những trang hay nhất 
và xúc động nhất của Vũ Bằng:
63TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
“Người đàn bà đẹp mặc áo xanh nói 
tới đó thì vòng tay ta khép lại, làm cho 
trăng non ở ngoài cửa sổ cũng phải thẹn 
thùng. Đôi mắt đẹp lung linh sầu. Ta thấy 
như cả một mảnh vườn thơm ngát hương 
cau nghiêng xuống mé giường xô lệch”. 
[1; 34].
“Tôi nhớ những buổi tối đi trên con 
đường tòa án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ 
những đêm trăng hai đưa dắt nhau đi trên 
đường Giảng Võ, những đêm mưa ngâu, 
thức dậy nổi một nồi cơm gạo vàng ăn với 
thịt con gà mái ấp” [1; 40].
“Nhớ quá chừng là nhớ, thương quá 
chừng là thương. Thương nhất là người 
vợ bé nhỏ yêu chồng, mùa nào thức nấy, 
không bao giờ đợi cho chồng nói phải lên 
sự ước mơ” [1; 46].
“Quỳ ơi, giờ này em ở đâu? Em có 
biết tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực 
kì tối tân này, em có biết rằng có người 
chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư 
lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng 
ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe 
thấy tiếng chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to 
như thể ở chính bên tai vậy”[1; 85 ]
Người đàn bà thuần hậu mang tên Quỳ 
được nhà văn miêu tả gắn với không gian 
thuộc về gia đình, nàng tượng trưng cho 
gia đình, cho tổ ấm, cho hạnh phúc trong 
quá khứ của Vũ Bằng. Điều đó có nghĩa là, 
nỗi đau của tác giả ở đây không chỉ là nỗi 
đau cách xa đôi lứa mà nó còn là nỗi đau 
gia đình ly tán nên nó trở nên khắc khoải, 
giày vò. Trong hoàn cảnh kẻ Bắc người 
Nam, nỗi nhớ thương của tác giả luôn đi 
liền với cảm thức chia lìa, li biệt, thậm chí 
nhớ thương sóng đôi với tang thương. Hình 
tượng cái tôi Vũ Bằng, vì vậy, thấm đẫm 
nỗi cô đơn, trống trải và tuyệt vọng:
“Trong bóng đêm lạnh, có tiếng mưa 
rơi trên giàn hoa thiên lý, anh khóc vợ, 
khóc cho chính mình, khóc không cho 
ai biết Thôi thế là hết, đợi chờ gì nữa, 
bây giờ thì cầu xin gì nữa? Vợ chồng lấy 
nhau từ lúc hàn vi, đến lúc chết tưởng là 
được vuốt mắt cho nhau, ai ngờ đâu lại vô 
duyên đến thế” [1; 202]. 
“Thương nhớ mười hai” với những 
con chữ thấm nhiều nước mắt, những 
dòng văn như rỉ máu, đã cho ta thấu cảm 
với nỗi tương tư cố hương và cố nhân của 
tác giả, cho ta hiểu và trân trọng, nâng niu 
những mảng màu của tập tục, lễ nghi trong 
bức tranh văn hóa của Hà Nội và Bắc Việt, 
nó cũng đem tới cho ta một cơ hội được 
trở về nguồn cội, nhập hồn vào với thiên 
nhiên, cảnh sắc, sản vật, con người ở 
đó, tất thảy đều toát lên vẻ đẹp thanh tao, 
tinh tế, hồn hậu mà vẫn đậm hồn vía của 
quê hương Bắc Việt. 
2.3. Tâm lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận 
Ở “Thương nhớ mười hai”, cái tôi cô 
đơn, lạc loài còn lẩn khuất đâu đó qua tâm 
lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận của 
người viết. Trong những năm chống Pháp, 
Vũ Bằng nghe không ít những quy kết, 
sỉ vả về mình là kẻ quay lưng với kháng 
chiến khi ông hồi cư về thành Hà Nội để 
hoạt động tình báo. Sau năm 1954, ông 
di cư vào Nam vẫn là để thực hiện công 
tác tình báo do cấp trên phân công, nhưng 
cuộc ra đi ấy phải núp dưới hình thức một 
cuộc trốn chạy. Lần thứ hai trong đời, Vũ 
Bằng bị người đời khinh ghét, bị đồng 
nghiệp trong giới văn chương, báo chí 
dò xét, nghi ngờ về thái độ chính trị. Ông 
chấp nhận tất cả những tai tiếng ấy chỉ để 
tạo ra một vỏ bọc chắc chắn, an toàn cho 
các hoạt động phục vụ cách mạng. Tuy 
thế, về mặt tâm lí, có thể nói, Vũ Bằng 
hoặc vẫn mang trong mình khuynh hướng 
64 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
muốn thanh minh, muốn khẳng định phẩm 
giá hoặc sẽ cam chịu những lời buộc tội 
nhưng sẽ đau đáu cả đời nỗi mặc cảm và 
sự chua chát cho thân phận. Việc không 
hề trở lại Hà Nội, không quay lại Bắc Việt 
lần nào từ ngày bước chân ra đi cho đến 
khi đất nước độc lập, giang sơn thu về một 
mối (dù trên những trang văn Vũ Bằng, 
tình yêu với đất Bắc mãnh liệt, da diết, 
cuộn chảy đến nhức nhối tâm can), chính 
là lời giải thích về nét tâm lí thường trực 
ở nhà văn. Nó nghiêng nhiều hơn về phía 
sự mặc cảm thân phận của con người luôn 
phải gắn với điều tiếng, về phía nỗi đau 
đau thân phận con người phải sống kiếp 
con chim lìa đàn. Tuy nhiên, đấy là cách lí 
giải trên phương diện yếu tố đời tư, yếu tố 
bên ngoài tác phẩm. Nó quan trọng nhưng 
không hoàn toàn chi phối tư tưởng của 
nhà văn. Nhìn trên phương diện tác phẩm, 
“Thương nhớ mười hai” có những dấu hiệu 
về hình thức giúp ta nhận diện nỗi buồn, 
nỗi mặc cảm thân phận của tác giả. Trong 
cuốn tùy bút này, Vũ Bằng nhiều lần tự 
gọi mình là “người xa quê”, “người khách 
xa nhà”, “người xa nhà”, “người mắc bệnh 
lưu lý”, “người ly hương”, “du khách đa 
xuân tứ”, “người đàn ông oan khổ lưu ly”, 
“người khách tương tư cố lý”, “người sầu 
xứ” Lối định danh vừa cụ thể vừa trữ 
tình như thế tạo ra cách giới thiệu nhân vật 
không chỉ duyên dáng, mềm mại mà còn 
hàm ẩn những day dứt về thân phận chia 
lìa, ly tán. Lối định danh ấy cũng cho thấy 
rất rõ ý thức, mặc cảm của nhà văn về thực 
trạng cô đơn, bơ vơ, lạc loài của mình.
Con người trong văn học Việt Nam 
1945-1975 là con người quần chúng được 
đặt trong một đoàn thể, một đội ngũ, đặt 
vào dòng chảy chung của đời sống và các 
sự kiện lớn lao của cộng đồng. Cái tôi 
trong văn học, trong thơ ca kháng chiến, 
vì thế, sẽ là cái tôi công dân hòa hợp trọn 
vẹn với cái ta nhân loại trong niềm vui bất 
tuyệt của những tháng ngày khói lửa. Để 
trở thành nền văn học xung kích, nhà văn 
sẽ tránh nhắc đến buồn đau, càng tránh nói 
về nỗi cô đơn. “Thương nhớ mười hai” 
thuộc về thành tựu của Văn học đô thị 
miền Nam giai đoạn 1954-1975, “một bộ 
phận văn học tồn tại với những nội dung, 
đặc điểm, quy luật riêng, khác với văn 
học cách mạng” [3; 17]. Điều đó lí giải vì 
sao cách cảm thụ cuộc sống và con người 
của Vũ Bằng trong tùy bút này đi chệch 
khỏi quỹ đạo thông thường của nền văn 
học phục vụ và cổ vũ chính trị. Cần thấy 
rằng, tâm lí cô đơn là trạng thái thường 
trực của cái tôi tác giả trong “Thương nhớ 
mười hai”, nó trở thành động lực đưa Vũ 
Bằng trở về, đắm đuối trong những hoài 
niệm ấm áp, tươi xanh. Nó cũng là động 
lực để nhà văn dệt gấm hoa lên không gian 
thiên nhiên, không gian sinh tồn và không 
gian văn hóa Bắc Việt. Từ đây, thiên tùy 
bút truyền cho người đọc những hiểu biết 
thú vị, tình yêu và sự gắn bó máu thịt với 
mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình.
3. KẾT LUẬN
Vũ Bằng bắt đầu viết “Thương nhớ 
mười hai” vào đầu năm 1960, năm 1965 
ông viết tiếp và đến năm 1971, cuốn sách 
mới có hình hài. Vậy là phải cần đến hơn 
chục năm để nhà văn hoàn thành bản thảo 
của mình. Quãng thời gian 11 năm dài 
đằng đẵng ấy đủ để thấy nỗi nhớ thương 
đất Bắc oằn nặng và khắc khoải thế nào 
trong ông. Áng văn độc đáo, tài hoa này 
đâu chỉ là những hoài niệm da diết, mãnh 
liệt của kẻ ly hương muốn tìm về nguồn 
cội mà nó còn làm hiển hiện thật rõ hình 
tượng cái tôi tác giả mang tâm trạng cô 
65TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
đơn, lạc loài nơi đất khách. Hình tượng 
ấy cho chúng ta hiểu hơn về tâm tư người 
viết trong những ngày tháng đất nước biến 
động, về những éo le của hoàn cảnh cắt 
chia và về tình yêu thuần khiết nhưng cao 
ngần mà Vũ Bằng dành cho quê hương đất 
nước. Thiên tùy bút này ra đời không vì 
mục đích nghệ thuật. Nhưng vượt ra ngoài 
chủ định của người viết, “Thương nhớ 
mười hai” đã trở thành tác phẩm kết tinh 
tài năng nghệ thuật sáng chói trong cuộc 
đời cầm bút Vũ Bằng. Hoàng Phủ Ngọc 
Tường từng cho rằng, những trang kí gây 
xúc động bởi trước khi chảy qua ngòi bút 
đã chảy qua trái tim của anh như một dòng 
máu. Với ý nghĩa ấy, thiết nghĩ, “Thương 
nhớ mười hai” chính là một tùy bút có khả 
năng lay động hồn người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Bằng (2003), “Thương nhớ mười hai”, 
Mê chữ, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, 
NXB Văn học, Hà Nội.
 2. Văn Giá (2000), Vũ Bằng, bên trời thương 
nhớ - NXB VHTT, Hà Nội
3. Nguyễn Văn Long (CB)(2016), Văn học 
Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, 
NXB ĐHSP, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfcai_toi_co_don_lac_loai_cua_vu_bang_trong_tuy_but_thuong_nho.pdf