Hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

TÓM TẮT

Là một tỉnh miền núi phía Bắc, Lào Cai có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng. Vì

vậy, khi chiếm được nước ta, chính quyền thực dân Pháp đã ban hành các nghị định, sắc lệnh về

hoạt động thăm dò, chuyển nhượng và khai thác mỏ ở Đông Dương. Trong bài viết, tác giả sử

dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu

nội dung: vùng đất Lào Cai trong lịch sử; Sắc lệnh, nghị định về khai mỏ của Chính quyền thực

dân Pháp; hoạt động thăm dò mỏ kim loại ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ nội dung

nghiên cứu, tác giả đưa ra một số nhận xét về hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở

Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

pdf 7 trang yennguyen 1000
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 107 
HOẠT ĐỘNG THĂM DÒ MỎ KIM LOẠI CỦA TƯ BẢN PHÁP Ở LÀO CAI 
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 
Nguyễn Đại Đồng 
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Là một tỉnh miền núi phía Bắc, Lào Cai có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng. Vì 
vậy, khi chiếm được nước ta, chính quyền thực dân Pháp đã ban hành các nghị định, sắc lệnh về 
hoạt động thăm dò, chuyển nhượng và khai thác mỏ ở Đông Dương. Trong bài viết, tác giả sử 
dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu 
nội dung: vùng đất Lào Cai trong lịch sử; Sắc lệnh, nghị định về khai mỏ của Chính quyền thực 
dân Pháp; hoạt động thăm dò mỏ kim loại ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ nội dung 
nghiên cứu, tác giả đưa ra một số nhận xét về hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp ở 
Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
Từ khóa: Lào Cai; khai thác mỏ; thế kỷ XIX; thế kỷ XX; chính quyền thực dân Pháp. 
Ngày nhận bài: 17/10/2019; Ngày hoàn thiện: 09/4/2020; Ngày đăng: 22/5/2020 
THE EXPLOITATION OF METAL MINES BY THE FRENCH IN LAO CAI 
DURING THE END OF THE 19 AND BEGINNING OF 20TH CENTURIES 
Nguyen Dai Dong
TNU - University of Sciences 
ABSTRACT 
Being a northern mountainous province, Lao Cai has abundant and diverse mineral resources. 
Therefore when capturing our country, the French colonial government issued decrees and 
ordinances on exploring, transferring and mining activities in Indochina. In this paper, the author 
uses historical and logical methods, analytical as well as synthesis methods for studying the 
following contents: the history of Laocai province; mining decrees of the French colonial 
government; the exploration of metal mines in Laocai province in the late nineteenth and early 
twentieth century. From the research content, the author makes some comments on the exploration of 
metal mines by the French capitalists in Lao Cai in the late nineteenth and early twentieth century. 
Keywords: Lao Cai; Mining; 19th century; 20th century; French colonial government. 
Received: 17/10/2019; Revised: 09/4/2020; Published: 22/5/2020 
Email: dongnd@tnus.edu.vn 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 108 
1. Đặt vấn đề 
Trong lịch sử kinh tế Việt Nam, khai mỏ là 
một trong những ngành kinh tế quan trọng và 
có lịch sử lâu đời. Thời đại kim khí, người 
Việt đã tìm ra đồng, sắt và chế tạo ra công cụ, 
vũ khí bằng đồng, sắt. Với nguồn tài nguyên 
khoáng sản phong phú, Lào Cai đã trở thành 
một trong những vùng trọng điểm về khai 
thác mỏ ở các tỉnh miền núi Bắc Kỳ. Thời 
Nguyễn, hoạt động khai mỏ có bước phát 
triển hơn so với thời Lê - Trịnh. Khi Chính 
quyền thực dân Pháp cai trị, hoạt động khảo 
sát thăm dò, khai mỏ, nhượng mỏ diễn ra 
khắp trong cả nước, đặc biệt là vùng thượng 
du Bắc Kỳ. Đầu thế kỷ XX được coi là thời 
kỳ “sốt rét mỏ” ở Bắc Kỳ. 
Với cấu tạo địa chất đặc biệt, Lào Cai có 
nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa 
dạng, như: đồng, sắt, vàng, Apatit Trong 
bài viết, tác giả nghiên cứu 2 vấn đề: 
- Thứ nhất, tên gọi và quá trình hình thành 
vùng đất Lào Cai. 
- Thứ hai, hoạt động thăm dò mỏ kim loại ở 
Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
2. Nội dung 
2.1. Vùng đất Lào Cai1 trong lịch sử 
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới, nằm ở 
phía Tây Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh 
Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía 
Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía 
Nam giáp tỉnh Yên Bái. 
Về nguồn gốc tên gọi Lào Cai có nhiều cách 
lý giải nhưng theo tác giả Đào Duy Anh, từ 
"Lão Nhai", khi làm bản đồ, người Pháp viết 
"Lao Cai" thành "Lào Kay". Danh từ "Lào 
Kay" đã được người Pháp sử dụng trong các 
văn bản và con dấu còn người Việt khi đọc, 
biến âm theo tiếng Việt thành Lào Cai và 
1 Lào Cai: Thời Nguyễn gọi là trấn Hưng Hoá (năm 
1831, Minh Mạng đổi thành tỉnh Hưng Hoá). Ngày 
12/7/1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị đinh số 
288 chuyển đạo quan binh số 4 Lào Cai thành tỉnh dân 
sự Lào Cai. 
trong giao tiếp dân gian người ta vẫn gọi là 
Lao Cai. Thời Hùng Vương thuộc Tân Hưng, 
một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. 
Thời Bắc thuộc, Lào Cai thuộc huyện Tây 
Vu, quận Giao Chỉ. Thời phong kiến độc lập, 
Lào Cai thuộc đạo Lâm Tây thời Đinh, đất 
Đăng Châu thời Lý, tiếp là huyện Thủy Vĩ, 
trấn Quy Hóa, đạo Đà Giang thời nhà Trần. 
Năm 1397, Hồ Quý Ly đổi thành trấn Thiên 
Hưng. Trong đó, huyện Thủy Vĩ, Văn Bàn 
được thành lập trực thuộc Châu Quan Hóa. 
Từ đó Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng đất Lào Cai 
xưa) đã chính thức trở thành tên đơn vị hành 
chính của nhà nước phong kiến Đại Việt. 
Triều Lê, huyện Văn Bàn, huyện Thủy Vĩ trở 
thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc 
Phủ Quang Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa. Năm 
Hồng Đức thứ 31 (1490), đạo thừa tuyên 
Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Đến đời 
Hồng Thuận Lê Tương Dực (1509-1516) đổi 
xứ Hưng Hóa thành trấn Hưng Hóa. Đến đời 
nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc 
đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một 
phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ 
thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh 
Hưng Hóa. 
Năm 1886, Pháp cai quản Lào Cai theo chế 
độ quân sự. Năm 1899, đạo quan binh IV 
được thành lập bao gồm 2 tiểu quân khu, Yên 
Bái và Lào Cai. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ 
của đạo quan binh IV. Ngày 12/7/1907, Toàn 
quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo 
quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân 
quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh 
Lào Cai. Từ đây, địa danh tỉnh Lào Cai được 
xác định trên bản đồ Việt Nam. 
Năm 1976, Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ sáp 
nhập thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Năm 1991, 
tỉnh Lào Cai được tái thành lập [1, tr. 11]. 
2.2. Hoạt động thăm dò mỏ kim loại 
2.2.1. Quy chế mỏ 
Cùng với việc thiết lập quyền thống trị ở 
Đông Dương, thực dân Pháp từng bước đề ra 
quy chế mỏ để nắm quyền khai thác mỏ. Từ 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 109 
năm 1885-1939, các văn bản quy định về khai 
thác mỏ được ban hành. Các văn bản này 
ngày càng được hoàn thiện về cơ chế, chính 
sách, quy định hoạt động thăm dò, chuyển 
nhượng, khai mỏ, cùng chức năng nhiệm vụ 
của các cơ quan quản lý về mỏ. Đây là cơ sở 
pháp lý để thực dân Pháp nắm độc quyền khai 
thác nguồn tài nguyên khoáng sản ở Đông 
Dương, phục vụ cho lợi ích của Chính quốc. 
Vấn đề quy chế về mỏ của thực dân Pháp ở 
Đông Dương được hình thành trên cơ sở đã 
thiết lập được quyền thống trị và kiểm soát 
lãnh thổ Việt Nam. Việc thực dân Pháp xác 
lập quyền thống trị Việt Nam được ghi rõ 
trong Hiệp ước Patonot (6/6/1884). Đây là 
Hiệp ước mà thực dân Pháp đã xóa sạch mọi 
biểu hiện quyền lực còn lại của triều đình 
phong kiến độc lập ở Việt Nam, tạo cơ sở cho 
việc hoàn thiện Hiệp ước Hacmang và điều 
chỉnh lại ranh giới các xứ thuộc Pháp. 
Với Hiệp ước Patonot, thực dân Pháp không 
những đặt cơ sở pháp lý cho việc thống trị 
Việt Nam mà còn xác lập ngay quyền khai 
thác mỏ ở Bắc Kỳ. Điều 18 của Hiệp ước 
Patonot ghi rõ: “Sau này quan cả hai nước sẽ 
hội đồng để phân định giới hạn các nơi phải 
khai trương và quy định việc đặt vọng đăng ở 
ven biển Đại Nam từ giáp giới Ninh Bình, 
cùng địa hạt Bắc Kỳ, cùng là định lệ thuế khai 
mỏ, lệ thuế dùng tiền bạc” [2, tr. 28]. 
Trên cơ sở đó, ngày 18/2/1885, Chính quyền 
thực dân buộc triều đình Huế ký bản Công 
ước về chế độ khai thác mỏ ở Bắc Kỳ. Công 
ước gồm 4 điều khoản, trong đó có 3 điều 
khoản chính liên quan đến mỏ: 
- Điều 1. Triều đình Huế chấp nhận chế độ, 
cách thức khai thác mỏ do Pháp đề ra. 
- Điều 2. Mọi khoản thu từ các loại lệ phí và 
thuế đối với những mỏ ở Trung Kỳ, khoáng 
sản của những mỏ đó, cũng như đối với các 
mỏ sẽ bán đấu giá hoặc là đối tượng chuyển 
nhượng, hàng năm đều phải nhập vào Ngân 
khố của Nam triều, sau khi đã khấu trừ mọi 
phí tổn cho các mỏ đó. 
- Điều 3. Mọi khoản thu từ nguồn lệ phí và 
thuế đối với các mỏ ở Bắc Kỳ, những khoáng 
sản của mỏ đó, cũng như đối với các mỏ sẽ 
bán đấu giá hoặc là đối tượng chuyển nhượng, 
đều thuộc quyền chi tiêu của nhà cầm quyền 
Bắc Kỳ (chính quyền thực dân)” [3, tr. 46]. 
Ngày 2/3/1886, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh 
cho thi hành Bản Công ước. Công ước là sự 
cụ thể hóa điều 18 của bản Hiệp ước Patonot, 
trong đó quy định: Tất cả các khoản thu về lệ 
phí, thuế má với các mỏ Bắc Kỳ cùng với sản 
vật của các mỏ sẽ thuộc quyền chi tiêu và sử 
dụng của chính quyền thực dân. 
Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ra quyết 
định thành lập Liên bang Đông Dương. Từ 
đây, Chính quyền thực dân Pháp đã thiết lập 
quyền thống trị toàn phần trên lãnh thổ Đông 
Dương. Mọi chủ trương, chính sách, quy 
định, quy chế do Tổng thống Pháp ban hành 
trong đó có Quy chế về mỏ đối với Đông 
Dương thuộc địa, đều có giá trị thực thi. 
Ngày 16/10/1888, Tổng thống Pháp ra Sắc 
lệnh số 1 về mỏ, gồm 7 nội dung cơ bản: 
1. Các quy định chung về phân loại mỏ theo 
chất khoáng và xác định quyền thụ đắc đối 
với đất có mỏ; 
2. Việc nghiên cứu, thăm dò mỏ; 
3. Việc thiết lập sở hữu mỏ; 
4. Quyền lợi và nghĩa vụ của chủ mỏ; 
5. Hình phạt đối với người vi phạm quy chế mỏ; 
6. Thẩm quyền của bộ máy tư pháp và cơ 
quan kỹ thuật trong thực hiện sắc lệnh; 
7. Quy định đặc biệt [4, tr. 35]. 
Để chiếm đoạt tài nguyên mỏ. Năm 1897, 
Tổng thống Pháp đã ban hành Sắc lệnh số 2 
về mỏ [4, tr. 36]. Sắc lệnh quy định: 
- Bước 1: Về thăm dò mỏ. Diện tích xin thăm 
dò tối đa la 5000 ha, khu vực phải là hình tròn 
với đường kính 4 km. Lệ phí xin thăm dò quy 
định 5 xăngtim/1 ha (tối đa 250 phrăng cho 
toàn bộ diện tích xin thăm dò). 
- Bước 2: Xin di nhượng. Diện tích xin di 
nhượng tối thiểu là 24 ha, diện tích xin di 
nhượng tối đa đối với mỏ than là 2.400 ha, 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 110 
đối với các mỏ khác là 800 ha, đối với vùng 
đất phù sa là 600 ha. Lệ phí xin di nhượng đối 
với mỏ than là 1 phrăng/1 ha, đối với các mỏ 
khác là 2 phrăng/1 ha. 
- Bước 3: Về thuế các loại mỏ. 
Cùng với các Sắc lệnh đảm bảo quyền lợi cho 
người khai thác, tư bản Pháp ra sức mở rộng 
các điều tra cơ bản trên lãnh thổ Đông Dương 
với ý đồ khai thác lâu dài nơi đây. Ngay từ rất 
sớm, Chính quyền thuộc địa đã quan tâm đến 
việc lập ra ở Đông Dương một cơ quan 
chuyên trách về mỏ. Cơ quan này bắt đầu 
được thành lập từ năm 1885 và dần dần được 
tổ chức lại nhiều lần, dưới những tên gọi khác 
nhau, từ Sở mỏ Bắc Kỳ, Ban mỏ, Hội đồng tư 
vấn mỏ, Ban chỉ đạo mỏ và cuối cùng là Tổng 
Thanh tra mỏ [5, tr. 30]. Nhiệm vụ của cơ 
quan là nghiên cứu địa chất, tìm kiếm thăm 
dò và xúc tiến khai thác mỏ ở Đông Dương. 
Do có sự đảm bảo của hệ thống chính quyền 
về việc thăm dò, khai thác khoáng sản. Do 
vậy, việc thăm dò, số khu vuông tìm mỏ của 
tư bản Pháp ở Việt Nam tăng nhanh. Đến năm 
1912, hoạt động khai thác mỏ diễn ra ở khắp 
nơi, nhất là ở Bắc Kỳ, đồng thời nó trở thành 
ngành công nghiệp chủ đạo đem lại lợi nhuận 
lớn cho tư bản Pháp ở Đông Dương. 
Ngày 26/1/1912, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh 
số 3 [4, tr. 37]. Sắc lệnh quy định: 
- Thứ nhất, về thăm dò mỏ. 
- Thứ hai, diện tích xin di nhượng mỏ và lệ 
phí nhượng mỏ. 
- Thứ ba, về việc khai thác mỏ. 
Mục đích khuyến khích đầu tư vào công 
nghiệp mỏ, tập trung quyền khai mỏ vào tư 
bản độc quyền. Sắc lệnh số 3 đảm bảo điều 
kiện thăm dò, khai thác mỏ hết sức dễ dàng 
nên hoạt động khai mỏ ở Việt Nam phát triển 
mạnh mẽ, thu hút nhiều người tham gia. 
Đầu những năm 30 thế kỷ XX, nhằm hạn chế 
tối đa tác động xấu của khủng hoảng kinh tế 
thế giới, Nhà nước Pháp ban hành Sắc lệnh 
năm 1931, 1933, 1936. So với Sắc lệnh năm 
1912, các sắc lệnh này đã thu hẹp quyền thăm 
dò và sở hữu mỏ nhưng thực chất Chính quyền 
thuộc địa lại tập trung quyền khai mỏ vào 
những kẻ có khả năng kỹ thuật và tài chính 
nhất. Vì vậy, ngành công nghiệp mỏ của thực 
dân Pháp ở Việt Nam càng có điều kiện lớn 
mạnh về quy mô, sản lượng, giá trị sản phẩm. 
Cuối thế kỷ XIX và đặc biệt đầu thế kỷ XX 
hoạt động thăm dò, xin cấp giấy phép khai 
thác, nhượng mỏ diễn ra ồ ạt ở nước ta. 
2.2.2. Hoạt động thăm dò mỏ kim loại ở Lào Cai 
Với mục đích khai thác những nguồn tài 
nguyên khoáng sản quý giá của Việt Nam nói 
chung và tỉnh Lào Cai nói riêng, tư bản Pháp 
rất chú trọng trong việc đầu tư hoạt động 
thăm dò mỏ. Thăm dò mỏ là giai đoạn đầu 
của quá trình khai khoáng. Trong quá trình 
này, tư bản Pháp phải đầu tư vốn, có đơn xin 
đăng ký thăm dò mỏ, nộp lệ phí thăm dò theo 
quy chế mỏ đã đặt ra, phải trang bị phương 
tiện kỹ thuật thăm dò và phải thuê nhân công. 
Kết quả của hoạt động thăm dò mỏ sẽ quyết 
định các giai đoạn tiếp theo của quá trình khai 
khoáng. Nếu thăm dò tìm thấy chất liệu mỏ có 
giá trị, trữ lượng nhiều, lúc này nhà tư bản có 
năng lực về tài chính và chuyên môn kỹ thuật 
sẽ tiếp tục đầu tư khai thác mỏ. Nếu thăm dò 
có kết quả nhưng nhà tư bản không đủ năng 
lực về tài chính và chuyên môn kỹ thuật để 
đầu tư khai thác thì sẽ thực hiện chuyển 
nhượng mỏ cho người khác. 
Nhận thấy hệ thống giao thông còn hạn chế, 
gây khó khăn cho hoạt động khai mỏ ở Lào 
Cai. Chính quyền thực dân cho xây dựng 
tuyến sắt Hà Nội - Lào Cai (1906), tuyến 
đường sắt Lào Cai - Vân Nam (1910). Tuyến 
đường sắt Hải Phòng - Lào Cai - Vân Nam trở 
thành tuyến đường giao thông huyết mạch nối 
liền vùng Tây Nam Trung Quốc qua Lào Cai 
về với cảng biển Hải Phòng. Ngoài ra, một số 
tuyến đường bộ cũng được đầu tư, mở rộng 
[6, tr. 39-40]. Hệ thống giao thông đường sắt, 
đường bộ hoàn chỉnh góp phần phát triển 
ngành công nghiệp khai khoáng ở Lào Cai. 
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất 
(1897-1914), Lào Cai có tới 285 đơn xin thăm 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 111 
dò khoáng sản [6, tr. 41]. Trong đó, khoáng 
chất mỏ kim loại được khảo sát thăm dò ngay 
cuối thế kỷ XIX và diễn ra liên tục đầu thế kỷ 
XX. Dưới đây là một số mỏ kim loại đã được 
khảo sát thăm dò trên vùng đất Lào Cai. 
Mỏ sắt Bản Vược 
Mỏ sắt Bản Vược cách đồn Bát Xát và Trinh 
Thường 2 km. Đây là mỏ được điều tra, thăm 
dò sớm nhất ở Lào Cai [7]. 
Tháng 2/1896, kỹ sư mỏ Zeclère khi có được 
thông tin về mỏ Bản Vược đã tới thăm dò. 
Tháng 3/1898, Zeclère viết báo cáo cho Toàn 
quyền Đông Dương về kết quả điều tra. Từ 
thông tin đó, tháng 10/1896, Bélard, kỹ sư mỹ 
nghệ và công nghiệp (Ingénieur des Ats et 
Manufactures), do Ủy ban Rèn từ Chính quốc 
gửi sang thuộc địa đã tới Bản Vược điều tra. 
Việc điều tra cho thấy mỏ Bản Vược trải rộng 
trên một cánh đồng cạnh sông Hồng ở độ cao 
từ 30 m đến 100 m. Đây là mỏ có giá trị rất 
lớn về công nghiệp, với hàm lượng kim loại 
cao, được thể hiện dưới dạng magnétide hay 
oxít sắt (Fer oxydules), trong đó phần lớn là 
quặng sắt, tụ thành từng khối lớn (compacte 
cristalline), với màu xám của sắt và tiếng kêu 
rất rõ nét của kim loại, trữ lượng từ 2.200 tấn 
đến 2.600 tấn. Việc khai thác mỏ này không 
mấy khó khăn, cũng không tốn kém do không 
phải xây dựng hầm lò, dễ tuyển mộ nhân công 
vì người Việt không thích làm việc dưới hầm 
lò và dễ chấp nhận khai thác lộ thiên [8]. 
Ngay khi điều tra xong, Bélard đã quyết định 
làm tờ khai xin cấp phép cho một khu thăm 
dò và được Thống sứ Bắc Kỳ chấp nhận qua 
tờ thư ngày 24/10/1898. Tháng 11/1898, 
Bélard về Pháp, trình mẫu quặng cho Ủy ban 
Rèn và khi Ủy ban này từ chối can thiệp, ông 
ta đã quyết định tự khai thác bằng nguồn vốn 
riêng và bằng nhân công người bản xứ trong 
vùng, với mức lương khoảng 0,20 đồng/ngày 
và năng suất của một người có thể là một mét 
khối/ngày, chi phí sẽ là khoảng 0,50 francs 
cho 6 tấn [8]. 
Với những dự định ban đầu có vẻ khả quan, 
Bélard định sẽ chế biến sắt tại chỗ và sẽ xây 
dựng các lò nung ở Bản Vược. Bélard cho 
rằng việc lập một trung tâm công nghiệp tại 
thung lũng sông Hồng sẽ chỉ có thể là một sự 
kiện rất tốt. Đó sẽ là hạt nhân thu hút dân cư 
đến cư trú vì dân vùng cao sẽ xuống, ít nhất là 
vào mùa đông, dân từ Vân Nam cũng sẽ di cư 
đến đây. Hơn nữa, lò cao sẽ giúp cho việc 
buôn bán sắt được đảm bảo và hấp dẫn [8]. 
Với những việc làm và dự định của Bélard, 
Pháp muốn biến mỏ Bản Vược thành một 
trung tâm công nghiệp khai thác sắt từ việc 
xây các lò cao luyện sắt bằng nhân công 
người Việt, người Hoa và bằng than của Vân 
Nam, Trung Quốc. 
Ngày 23/5/1900, bản báo cáo sơ bộ về mỏ sắt 
Bản Vược được gửi từ Lào Cai về cho Chính 
quyền thuộc địa để triển khai kế hoạch. 
Cuối cùng, những kết quả điều tra, kiểm kê về 
mỏ kim loại ở Bắc Kỳ trong thời kỳ cuối thế 
kỷ XIX được trình bày trong Báo cáo về một 
kim loại ở Đông Dương (Rapport sur les 
gisements métallifères de l’Indochine 1901). 
Bản báo cáo trình bày các kết quả, phân tích 
cấu tạo hóa học các chất mỏ: sắt, đồng, chì, 
vàng, kẽm, bạc, thủy ngân (mercure) được 
phát hiện ở các xứ của Đông Dương mà chủ 
yếu là Bắc Kỳ. 
Theo đó, ở Bắc Kỳ có hai loại mỏ sắt: 
Oligiste và Magnétite. 
Sắt thuộc loại Oligiste (Fe203) có các mỏ: Mỏ 
Xát ở Cao Bằng, có hàm lượng sắt là 56%; 
mỏ sắt ở Thái Nguyên, rất tinh khiết, hàm 
lượng 70%. 
Sắt thuộc loại Magnétite (Fe304) là mỏ Bản 
Vược. Mỏ gần Bát Xát, trên bờ sông Hồng, 
cách Lào Cai 20 km về phía Đông Bắc [9]. 
Như vậy, việc khảo sát thăm dò mỏ sắt Bản 
Vược cuối thế kỷ XIX là sự chuẩn bị cho việc 
tổ chức khai thác sắt của tư bản Pháp ở Lào 
Cai đầu thế kỷ XX. 
Mỏ kẽm (Mỏ Marie Thérèse): Ngày 
10/11/1896, Francois Dupont đã gửi lá đơn 
đến Tư lệnh Tiểu quân khu Lào Cai về việc 
xác nhận khu mỏ mà ông tìm kiếm và một 
khoản tiền nộp kèm theo đơn. Khoáng sản tìm 
kiếm được là kẽm, tại thôn Nậm Chảy, thuộc 
Kéchan, tỉnh Lào Cai. 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 112 
Hồ sơ RST 77133 về Đơn xin cấp phép thăm 
dò mỏ ở Lào Cai ghi chép: Ông Francois 
Dupont tìm được mỏ và đặt tên là mỏ “Marie 
Thérèse”; khu mỏ được thăm dò nằm trên 
lãnh thổ của thôn Nậm Chảy, thuộc Kéchan, 
tỉnh Lào Cai; nghĩa vụ đóng phí và các thủ tục 
đã được Dupont thực hiện theo đúng quy định 
của sắc lệnh ngày 16/10/1888, đặc biệt của 
năm 1896 [10]. 
Mỏ vàng 
Mỏ Élisa: Ngày 9/7/1898, Lichtenfelder 
William công bố về khoáng chất vàng mà ông 
tìm được ở khu vực giữa các làng Trinh 
Thuong và Ni - Thi. 
Hồ sơ 77133 ghi chép: Lichtenfelder William, 
kiều dân, đang sinh sống tại Hà Nội, số 56 phố 
Jules Ferry (Hàng Trống) và hiện đang cư trú 
tại Lào Cai đã tìm được mỏ vàng và đặt tên là 
“Élisa”. Mỏ nằm giữa các làng Trinh Thuong 
và Ni - Thi. Địa điểm mỏ Élisa được đánh dấu 
bằng một nẹp gỗ kích cỡ 0,08 m x 0,08 m và 
dài 3 m, chôn dưới đất 0,7 m, có 1 biển bằng 
ván nhỏ kích thước 0,3 m x 0,4 m... [10]. 
Cuộc thăm dò, khảo sát Pol: Theo hồ sơ 77133 
ghi lại, năm 1901, Laire Hector công bố 
khoáng chất vàng tìm thấy, công bố về bán 
kính và khu vực thăm dò (chỗ giao nhau giữa 
Ngoi Nhat Son và con đường từ Lào Cai tới 
ngôi làng Phat Son. Chỗ này nằm cách khoảng 
250 m từ chỗ ngã rẽ của con đường Lào Cai – 
Bat Xat và Lào Cai – Nhat Son)... [10]. 
Khu mỏ Lilly: Năm 1911, Bà Nguyễn Thị Ba 
gửi cho Công sứ Pháp tại Lào Cai lá đơn về 
khoáng chất vàng tìm được, tên mỏ vàng Lilly, 
khu vực và bán kính mỏ vàng đã khảo sát [11]. 
2.3. Một số nhận xét 
Việc các nhà tư bản Pháp nộp đơn xin thăm 
dò mỏ nêu trên cho thấy Lào Cai là tỉnh giàu 
tiềm năng khoáng sản. Đó là nguyên nhân thu 
hút nhiều người Pháp, thậm chí có cả người 
Việt đổ xô về Lào Cai thăm dò, tìm kiếm 
nguồn tài nguyên nơi đây. 
Số đơn xin và được cấp phép thăm dò ở Lào 
Cai ngày càng nhiều và liên tục. Hoạt động 
thăm dò mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai không 
những tăng mà còn mang tính chất dồn dập. Ở 
Lào Cai cũng như một số tỉnh thượng du Bắc 
Kỳ đã xảy ra hiện tượng “cơn sốt mỏ”. Hàng 
nghìn nhà địa chất, doanh nghiệp lặn lội ở các 
cánh rừng, đầu núi tìm kiếm, thăm dò tài 
nguyên khoáng sản. Năm 1912 ở Lào Cai có 78 
đơn xin khai mỏ, năm 1929 có 408 đơn và đến 
năm 1932 có tới 714 đơn xin thăm dò khai mỏ. 
Năm 1935 có 742 đơn xin thăm dò mỏ [12]. 
Với quy chế mỏ đặt ra ở Đông Dương, 
Chính quyền thực dân Pháp đã tạo nên cơ sở 
pháp lý để từng bước đẩy mạnh hoạt động 
thăm dò, khai thác mỏ ở nước ta, trong đó có 
tỉnh Lào Cai. 
3. Kết luận 
Ngay khi đặt ách thống trị lên nước ta, thực 
dân Pháp đã nhanh chóng ban hành quy chế về 
khai mỏ. Đây là cơ sở Pháp lý giúp cho Pháp 
đẩy mạnh quá trình khai thác mỏ nước ta. 
Lào Cai là một tỉnh có nguồn tài nguyên thiên 
nhiên phong phú, đa dạng. Do vậy, ngay sau 
khi thiết lập bộ máy cai trị ở Lào Cai, chính 
quyền thực dân đã cho xây dựng cơ sở hạ 
tầng phục vụ cho mưu đồ bóc lột, khai thác 
nguồn lợi khoáng sản ở Lào Cai. 
Hoạt động thăm dò, khảo sát mỏ khoáng sản 
kim loại ở Lào Cai bắt đầu diễn ra vào cuối 
thế kỷ XIX. Trong đó, mỏ sắt Bản Vược được 
coi là mỏ sắt được khảo sát thăm dò sớm nhất 
ở Lào Cai. 
Đầu thế kỷ XX, hoạt động thăm dò mỏ ở Lào 
Cai diễn ra nhiều hơn so với cuối thế kỷ 
XIX, nhiều mỏ kim loại vàng, kẽm được tìm 
thấy. Đây là bước khởi đầu quan trọng cho 
tư bản Pháp đưa ra quyết định có tiếp tục 
khảo sát, thăm dò và khai thác các mỏ kim 
loại này hay không. 
Với mục đích chiếm đoạt nguồn tài nguyên 
khoáng sản mỏ ở Lào Cai, đặc biệt là mỏ kim 
loại có giá trị. Hoạt động khảo sát, thăm dò và 
khai thác mỏ trên địa bàn tỉnh Lào Cai diễn ra 
liên tục trong suốt thời kì Pháp thuộc. 
Lời cảm ơn 
Bài báo là sản phẩm của đề tài khoa học và 
công nghệ cấp Đại học mã số ĐH2017-TN06-
11 do tác giả là chủ nhiệm đề tài. 
Nguyễn Đại Đồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 107 - 113 
 Email: jst@tnu.edu.vn 113 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. Lao Cai Provincial Party Executive 
Committee, History of Lao Cai Provincial 
Party Committee (1947-2007). National 
political publishing house, Ha Noi, 2010. 
[2]. B. N. Thach, Exploration and mining 
activities of French capital in Hoa Binh 
province from 1886 - 1939, Summary report 
on ministerial-level science and technology 
topics, Ha Noi, 2013. 
[3]. T. T. Ta, “French colonists seized control of 
the mining industry in Vietnam in the late 
nineteenth century,” Historical Studies, vol. 1, 
pp. 43-48, 2015. 
[4]. T. T. Ta, “Regulation on concessions and mining 
was issued by the French colonialists in Vietnam 
from the late nineteenth century to 1945,” 
Historical Studies, vol. 6, pp. 34-43, 2017. 
[5]. T. T. Ta, Mining industry in Viet Nam under 
the French colonialization. Social sciences 
publishing house, Ha Noi, 2018. 
[6]. Lao Cai Department of Industry, Lao Cai 
industrial history 1959 - 2004, Lao Cai, 2004. 
[7]. Demande d'autorisation de recherche des 
mines en périmètre réservé ''Ban Vuoc'' dans 
la commune de Dong Quan, secteur de Bat 
Sat - province de Laokay, formulée par 
Rélard- ingénieur civil à Paris, 1898, Profile 
number 9591, TTLTQG I, Ha Noi. 
[8]. Renseignements sur les gisements de fer au 
Tonkin et minière à 1900, GGI 2471, 
TTLTQG I, Ha Noi. 
[9]. Rapport sur les gisements métallifères de 
l’Indochine 1901, GGI 2578, TTLTQG I, Ha 
Noi. 
[10]. Demandes d'autorisation de recherche de 
mines en périmères réservés à Laokay, 
formulées par les Européens, classés par 
ordre alphabétique de nom de D à L, en 1897, 
1898 et 1907. Profile number 77133, National 
Archives Centre N1, HN. 
[11]. Demandes d'autorisation de recherche de 
mines en périmètres réservés à Laokay, 
formulées par les Européens, classés par 
ordre alphabétique de nom de B à S, en 1911. 
Profile number RST 77135, National 
Archives Centre N1, HN. 
[12]. Report of the French Ambassador to Lao Cai 
Profile number RST 74424, National Archives 
Centre N1 , Ha Noi. 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_tham_do_mo_kim_loai_cua_tu_ban_phap_o_lao_cai_cuoi.pdf