Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRONG
LĨNH VỰC KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán
1.1. Tình hình phát triển kinh tế
Công cuộc đổi mới nền kinh tế, giảm dần vai trò kinh tế nhà
nước thông qua hoạt động cổ phần hóa và phát triển kinh tế tư nhân
dẫn đến nhu cầu vốn cho phát triển ngày càng gia tăng. Thị trường
chứng khoán Việt Nam ra đời đã trở thành một kênh huy động vốn
hiệu quả cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thị trường
chứng khoán cũng phát triển và hoàn thiện, tạo nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp tham gia. Sự ra đời của các CTCK không chỉ đóng vai
trò cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát
hành huy động vốn một cách nhanh chóng, mà còn cung cấp các dịch
vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định. Công ty chứng
khoán với lợi thế chuyên môn hoá, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp
sẽ thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm kiếm đối tác và làm trung
gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí
trong từng giao dịch. Do nhu cầu của nhà đầu tư và sự phát triển của
TTCK, các loại hình dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng
ngày càng đa dạng. Các mảng hoạt động như tư vấn niêm yết, tư vấn
phát hành, bảo lãnh phát hành có sự cạnh tranh khá quyết liệt không
chỉ trên mức phí áp dụng mà còn phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức
phát hành và tổ chức tư vấn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam
Chứng khoán 85 tham gia vào TTCK là các CTCK, UBCKNN là cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động; giám sát hoạt động kinh doanh; tiến hành tranh tra và xử lí các vi phạm của CTCK theo Luật Chứng khoán nhằm đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH CHỨNG KHOÁN 1. Các yếu tố ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán 1.1. Tình hình phát triển kinh tế Công cuộc đổi mới nền kinh tế, giảm dần vai trò kinh tế nhà nước thông qua hoạt động cổ phần hóa và phát triển kinh tế tư nhân dẫn đến nhu cầu vốn cho phát triển ngày càng gia tăng. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời đã trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thị trường chứng khoán cũng phát triển và hoàn thiện, tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia. Sự ra đời của các CTCK không chỉ đóng vai trò cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng, mà còn cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định. Công ty chứng khoán với lợi thế chuyên môn hoá, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm kiếm đối tác và làm trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch. Do nhu cầu của nhà đầu tư và sự phát triển của TTCK, các loại hình dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng ngày càng đa dạng. Các mảng hoạt động như tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành, bảo lãnh phát hành có sự cạnh tranh khá quyết liệt không chỉ trên mức phí áp dụng mà còn phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức phát hành và tổ chức tư vấn. 1.2. Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán Việt Nam được hình thành và bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2000, đến nay sau hơn 10 năm vận hành đã từng 86 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam bước có sự phát triển theo hướng hiện đại, tính minh bạch trong thông tin ngày càng cao và trình độ của nhà đầu tư cũng được nâng cao dần. UBCKNN hiện đang xây dựng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu là phát triển về quy mô, chất lượng hoạt động cho thị trường chứng khoán, duy trì sự ổn định và an toàn cho thị trường vốn. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho TTCK hoạt động cũng từng bước được hoàn chỉnh. Các nội dung cụ thể của chiến lược này bao gồm việc phát triển hàng hóa cho thị trường chứng khoán, phát triển thị trường giao dịch chứng khoán, phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, phát triển tổ chức phụ trợ, phát triển nhà đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin TTCK, hội nhập quốc tế về thị trường chứng khoán và quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán. Nhìn chung, hiện nay sự phát triển của thị trường chịu tác động của yếu tố đòn bẩy tài chính và các công cụ hỗ trợ nhà đầu tư. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán. Đòn bẩy tài chính được hiểu là việc công ty chứng khoán cho phép nhà đầu tư được giao dịch ký quỹ, theo đó chỉ phải bỏ ra một phần của tổng số tiền để mua chứng khoán (theo tỷ lệ ví dụ 50/50, 20/80) là có thể tham gia giao dịch, và trong một số trường hợp thì lại có thể thực hiện bán trước khi cổ phiếu chính thức về tài khoản. Các dịch vụ đơn giản khác như thanh toán nhanh (còn gọi là ứng trước tiền) cũng được các công ty tích cực sử dụng để nhà đầu tư có tiền ngay sau khi bán chứng khoán chứ không phải chờ 3 ngày như trước đây. Điều này đã khiến cho thanh khoản của thị trường tăng rất mạnh trong năm 2009 và làm nguồn thu từ phí giao dịch của các công ty chứng khoán tăng cao. Cấu trúc thị trường cũng thay đổi theo do các CTCK rất linh hoạt trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính nhằm thu hút khách hàng. Việc sử dụng công cụ này lại phụ thuộc vào tiềm năng tài chính của CTCK và chính vì vậy đã tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các công ty lớn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về chứng khoán các CTCK không được phép cung cấp các dịch vụ này. Tính chuyên nghiệp và trình độ phát triển ngày càng cao của TTCK khiến các doanh nghiệp trong ngành phải liên tục tự đổi mới để tồn tại. Việc sử dụng tiên phong các sản phẩm mới cũng đang là xu Chứng khoán 87 hướng cạnh tranh giữa các CTCK và trở thành chuẩn chung của ngành, khiến cạnh tranh giữa các CTCK trở nên gay gắt hơn. Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, hiện nay các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đã được phép tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam dưới hình thức liên doanh (vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài tại CTCK không quá 49%). Đã có một số CTCK nước ngoài (Morgan Stanley, Kim Eng, Mirae) tiến hành mua cổ phẩn của các CTCK trong nước. Với kinh nghiệm hoạt động trên thị trường chứng khoán quốc tế ở trình độ phát triển cao hơn cùng với tiềm lực tài chính mạnh, chắc chắn họ sẽ có chiến lược kinh doanh mới làm tăng tính cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. 1.3. Kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung. Nhận thức được điều đó, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cũng như tạo điều kiện cho sự hình thành của thị trường chứng khoán. Theo Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ thông qua ngày 02 tháng 8 năm 2007, là bộ phận chủ đạo trong đó thị trường chứng khoán sẽ được phát triển theo hướng sau đây: - Mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại trái phiếu. - Đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. - Phát triển các loại chứng khoán phái sinh. Đối với các định chế trung gian và dịch vụ thị trường, tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường. Cụ thể đối với các CTCK, ngày 20 tháng 11 năm 2006, UBCKNN đã ban hành quyết định phát triển CTCK giai đoạn 2006 - 88 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 2010. Theo đó, cần nâng cao quy mô và năng lực của các CTCK đã được cấp phép, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản yêu cầu nâng cao về vốn pháp định đối với các CTCK, đặc biệt yêu cầu đối với những nghiệp vụ đòi hỏi vốn lớn như bảo lãnh phát hành và tự doanh; các quy định tiêu chuẩn tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán hay cung cấp các dịch vụ mới. Tóm lại có thể thấy rằng, cơ quan quản lý nhà nước một mặt tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của CTCK, bên cạnh đó vẫn tăng cường giám sát chất lượng hoạt động của dịch vụ này. Điều này đã thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các CTCK khi mà mở rộng thị trường tạo cơ hội cho các công ty mới gia nhập, đồng thời nâng cao năng lực hoạt động, buộc các CTCK phải tự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức lẫn cách thức hoạt động, tạo ra những sản phẩm mới tăng tính cạnh tranh trên thị trường. 1.4. Các rào cản gia nhập thị trường Để duy trì tính cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp mới cần phải có khả năng gia nhập, đồng thời các doanh nghiệp hiện tại cần phải có cơ hội mở rộng hoặc rút khỏi thị trường. Nếu có rào cản ngăn chặn hoặc trì hoãn việc gia nhập một cách đáng kể, hoặc khiến cho chi phí gia nhập thị trường trở nên tốn kém thì các doanh nghiệp hiện tại hoàn toàn có thể chi phối được thị trường. Việc gia nhập, hoặc khả năng gia nhập thị trường của những doanh nghiệp mới, có thể hạn chế được sức mạnh đối với thị trường của các doanh nghiệp này. Do đó, các rào cản gia nhập có ảnh hưởng rất lớn tới tính cạnh tranh trên thị trường. Rào cản gia nhập thị trường được hiểu là các yếu tố ngăn cản sự gia nhập của các doanh nghiệp mới vào một ngành công nghiệp hoặc một thị trường ngay cả khi các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường đó kiếm được lợi nhuận lớn. Điều 8 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh cũng đã nêu rõ các yếu tố được coi là rào cản gia nhập thị trường. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát hơn Báo cáo sẽ xem xét các rào cản gia nhập lĩnh vực kinh doanh chứng khoán theo Khuôn khổ đánh giá cạnh tranh. Theo đó, các rào cản được phân thành 3 Chứng khoán 89 nhóm chính đó là rào cản tự nhiên, rào cản chiến lược và rào cản pháp lý chính sách. Rào cản tự nhiên bắt nguồn từ việc doanh nghiệp phải sở hữu nguồn lực hay công nghệ nào đó để có thể tham gia vào thị trường. Các rào cản này bao gồm hiệu quả kinh tế của quy mô, sự khó khăn khi tiếp cận công nghệ, nguyên liệu thô, các kênh phân phối hay những chi phí chìm mà doanh nghiệp không thể thu hồi nếu quyết định rút lui khỏi thị trường. Rào cản chiến lược bắt nguồn từ những biện pháp, hành vi của các doanh nghiệp hiện tại có mặt trên thị trường nhằm cản trở việc gia nhập mới. Có thể thấy rõ rằng, đối với lĩnh vực kinh doanh chứng khoán không xuất hiện các loại rào cản này mà tập trung chủ yếu vào các rào cản pháp lý chính sách do cung cấp dịch vụ chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện (theo quy định của Nghị định số số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện) và chịu sự quản lý của cơ quan chuyên ngành là UBCKNN. Các rào cản về pháp lý chính sách cụ thể như sau: 1.4.1. Rào cản về vốn Theo Nghị định số 14/2007/NĐ-CP thì yêu cầu về vốn pháp định đối với các nghiệp vụ của công ty chứng khoán được quy định như sau: Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng; Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng; Bảo lãnh phát hành: 165 tỷ đồng; Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng, nghĩa là tổng cộng ở mức 300 tỷ VNĐ. Yêu cầu về vốn này liên tục tăng từ mức ban đầu là 43 tỷ, sau đó lên 170 tỷ và cuối cùng là mức 300 tỷ như hiện nay. Nhiều công ty trong năm 2009 đã phải xin rút bớt các nghiệp vụ kinh doanh, chỉ để lại các nghiệp vụ yêu cầu ít vốn như môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán. 1.4.2. Rào cản về chính sách phát triển thị trường Với việc số công ty chứng khoán hiện khá lớn (trên 100 công ty), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã nhiều lần bày tỏ quan điểm không khuyến khích việc tiếp tục ra đời của các công ty chứng khoán. Ngoài ra, các quy định về cấp phép cũng lại chính là rào cản cho các doanh nghiệp. Ví dụ Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC quy định "trong vòng 6 tháng kể từ ngày được chấp thuận nguyên tắc, tổ chức xin cấp 90 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam phép thành lập và hoạt động CTCK phải hoàn tất việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và phong toả vốn pháp định"; "CTCK phải chính thức hoạt động trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động". Nhiều công ty xin được cấp phép trong năm 2008 nhưng do điều kiện thị trường đi xuống đã không thể đi vào hoạt động trong thời hạn quy định và phải xin cấp phép lại từ đầu. 1.4.3. Rào cản về thu hút khách hàng Khác với các lĩnh vực kinh doanh khác, với quy định một cá nhân chỉ được mở một tài khoản giao dịch, việc gia nhập thị trường của các công ty mới vào lĩnh vực cung ứng dịch vụ chứng khoán là rất khó khăn trong việc xây dựng hệ thống khách hàng. Đối với các lĩnh vực cũng có độ cạnh tranh cao như dịch vụ ngân hàng, thông tin di động, internet một khách hàng có thể sử dụng dịch vụ của nhiều hãng khác nhau cùng một lúc và có thể tự đưa ra quyết định cuối cùng về việc chọn lựa của mình, thì điều này là không tưởng đối với các công ty chứng khoán. Các công ty mới gia nhập thường hoặc phải dựa trên các khách hàng có quan hệ sẵn có đối với công ty mình để làm cơ sở phát triển (ví dụ như các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại thì bắt đầu phát triển hệ thống khách hàng từ các khách hàng của ngân hàng mẹ, các công ty chứng khoán khác thì dựa trên chính những khách hàng của cổ đông sáng lập). Việc thu hút khách hàng từ các công ty khác khá khó khăn do phải cung cấp được những ưu đãi đủ lớn, mà điều này thường dẫn tới việc ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận của công ty. Việc chuyển đổi tài khoản chứng khoán cũng không phải là việc dễ dàng có thể thực hiện được do thủ tục chuyển đổi khá phức tạp, hơn nữa sẽ mất đi cơ hội đầu tư. 1.4.4. Rào cản về nguồn nhân lực Là ngành dịch vụ liên quan đến lĩnh vực tài chính nên nguồn nhân lực của CTCK phải đáp ứng những yêu cầu theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau: Giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán phải có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Để có thể đạt được chứng chỉ hành nghề, các cá nhân phải đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 79 Luật Chứng khoán cũng như Quy chế hành nghề chứng khoán được Bộ Tài chính ban hành theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC. Các CTCK luôn cạnh Chứng khoán 91 tranh để thu hút nguồn nhân lực đầu vào. Giai đoạn 2006 - 2007, khi mà các CTCK tăng trưởng nhanh thì hiện tượng thiếu hụt nhân sự ở CTCK đã xảy ra. Đây cũng là một trong số những nguyên nhân khiến một số CTCK được cấp phép nhưng không thể đi vào hoạt động. Khoản 2 Điều 5 Quy chế Tổ chức và hoạt động của CTCK sửa đổi đã quy định rõ trong vòng 6 tháng kể từ ngày được chấp thuận nguyên tắc, CTCK ngoài việc hoàn tất việc đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật và phong tỏa vốn pháp định, còn phải chuẩn bị đủ người hành nghề chứng khoán. 2. Thực trạng hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực dịch vụ đặc thù nên hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực này có một số đặc điểm khác với các lĩnh vực dịch vụ tài chính khác. 2.1. Đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán Theo quy định về quy chế giao dịch của các SDGCK, nhà đầu tư (NĐT) chỉ được có một tài khoản giao dịch chứng khoán và chỉ được mở tại một công ty chứng khoán duy nhất. Do đó, cạnh tranh giữa các CTCK trong lĩnh vực môi giới chứng khoán để thu hút các NĐT mở tài khoản và tiến hành giao dịch tại công ty là rất lớn. Cụ thể như sau: 2.1.1. Công nghệ và thông tin đóng vai trò rất quan trọng Trong giao dịch chứng khoán, bên cạnh yếu tố về giá và lượng mua/bán, lệnh của NĐT được khớp sẽ ưu tiên về yếu tố thời gian. Khi các NĐT sử dụng dịch vụ của CTCK họ sẽ quan tâm nhiều đến việc, các lệnh khi đưa ra sẽ khớp được bao nhiêu, tỷ lệ rớt lệnh nhiều hay ít. Hoạt động của CTCK lại phụ thuộc rất nhiều ... hiên, có thể nhận diện một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong ngành ngân hàng như sau: 3.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn Khi đưa ra các chương trình khuyến mại, quảng cáo, một số ngân hàng đã đưa những thông tin không đầy đủ, mập mờ gây hiểu lầm cho khách hàng. Chẳng hạn thông tin miễn phí sử dụng thẻ đến 45 ngày cho khách hàng sử dụng thẻ. Nhưng trong quá trình cung cấp dịch vụ, các nhân viên không giải thích cặn kẽ về thời gian này khiến cho nhiều khách hàng bị nhầm lẫn về thời gian được hưởng miễn lãi và thời gian tính lãi. Hoặc các nhà cung cấp chưa công khai minh bạch hóa các mức phí khác nhau khi phát hành thẻ, các phụ phí phát sinh như phí nhắn tin, phí quản lý tài khoảndẫn đến tình trạng người sử dụng thẻ không nắm được thông tin và chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng. Một số chương trình khuyến mại không được công bố giải thưởng sau cùng và không rõ có khách hàng nào trúng giải hay không. Tuy nhiên, xét về bản chất thì các hành vi trên không thuộc chỉ dẫn gây nhầm lẫn một cách trực tiếp, mà nó liên quan tới hành vi “công bố thông tin không rõ ràng, trung thực”. 40 nghi-bau-lai-toan-bo-hdqt-sacombank/ Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 180 3.3.2 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Giảm giá khi sử dụng dịch vụ, trả góp lãi suất 0% tại một số địa điểm cung cấp dịch vụ, cộng điểm khi sử dụng dịch vụ để tặng tiền... là các chương trình khuyến mại được ngân hàng sử dụng thường xuyên. Hiện nay, các hành vi khuyến mại đều tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng. IV. ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Đánh giá môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng 1.1 Đánh giá môi trường pháp lý và các rào cản pháp lý Các rào cản pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng khá cao, để thành lập một ngân hàng mới phải đáp ứng rất nhiều điều kiện như đã nêu tại phần rào cản gia nhập thị trường, nhưng các rào cản để các ngân hàng đã thành lập tham gia vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thẻ lại rất thấp. Thực chất, dịch vụ thẻ là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một ngân hàng, khung pháp lý trong lĩnh vực này có một số điểm cần lưu ý sau: Thứ nhất, việc phát hành thẻ ngân hàng là phương tiện để các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và là một trong những hoạt động ngân hàng cơ bản. Dưới góc độ thị trường, việc phát hành thẻ là một phần trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, cụ thể là các ngân hàng. Với tư cách đó, hoạt động phát hành thẻ gắn liền là hoạt động thanh toán qua tài khoản, sẽ tạo nên quan hệ cạnh tranh giữa các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của họ. Thứ hai, với phạm vi chủ thể được phát hành thẻ theo Luật Các tổ chức tín dụng như đã nêu, hoạt động cạnh tranh trong việc phát hành thẻ chỉ giới hạn giữa các tổ chức tín dụng là các ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Giới hạn này thu hẹp phạm vi cạnh tranh trong hoạt động phát hành thẻ và phạm vi cạnh tranh liên quan đến thẻ ngân hàng phụ thuộc vào khả năng tham gia của các chủ thể có liên quan đến việc hoạt động thanh toán qua tài khoản của các ngân hàng. Tuy nhiên, về cơ bản, chủ thể của hoạt động thanh Ngành thẻ ngân hàng 181 toán qua tài khoản chủ yếu là các ngân hàng trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Thứ ba, Luật Các tổ chức tín dụng - với tư cách là luật chuyên ngành tạo nên khung pháp lý cho thị trường tín dụng nói chung và cho hoạt động thanh toán qua tài khoản nói riêng. Khung pháp lý này mang chức năng định hình thị trường với các quy định về việc thành lập các tổ chức tín dụng, chức năng và quản lý nội bộ cũng như những quy định cơ bản về hoạt động ngân hàng. Các quy định này không mang nặng nội dung điều tiết cạnh tranh mà cơ bản chỉ đặt ra cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, từ những quy định mang tính nguyên tắc này, nhiều văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết được ban hành làm rõ diện mạo của môi trường cạnh tranh trong hoạt động này. Với việc dễ dàng gia nhập vào thị trường thẻ, dự kiến trong tương lai số lượng ngân hàng tham gia vào thị trường này sẽ còn gia tăng. 1.2 Đánh giá mức độ cạnh tranh Số lượng ngân hàng có sự tăng và giảm, tăng lên trong các năm trước 2010 do có sự tăng trưởng nóng trong ngành tài chính ngân hàng và giảm do cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn tới ảnh hưởng sâu sắc tới ngành ngân hàng, tình trạng nợ xấu gia tăng và khó xử lý cùng với việc xiết chắt quản lý, các biện pháp kiểm soát lãi suất và việc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước dẫn tới các ngân hàng yếu kém đã phải tự nguyện mua bán sáp nhập với nhau như phân tích tại phần tập trung kinh tế. Hiện nay đề án tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng vẫn đang được Ngân hàng Nhà nước triển khai, do đó xu hướng trong ngành ngân hàng vẫn là giảm về mặt số lượng trên thị trường. Tuy nhiên, xét trong thị trường kinh doanh thẻ, do các rào cản gia nhập thị trưởng thẻ rất thông thoáng, hiện nay mới chỉ có 52 ngân hàng đăng ký tham gia phát hành thẻ. Lĩnh vực thẻ cũng là xu hướng phát triển trong tương lai cùng với chủ trương phát triển dịch vụ chi Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 182 tiêu không dùng tiền mặt của Nhà nước, trong tương lai số lượng các ngân hàng gia nhập vào thị trường kinh doanh thẻ sẽ còn tăng lên. Xét về mức độ tập trung trong ngành ngân hàng. Như đã phân tích, mức độ tập trung trong toàn ngành ngân hàng là tương đối cao, nhưng đã có sự sụt giảm đáng kể trong thời gian qua. Chỉ số tập trung CR3, CR4 của toàn ngành cũng như trong lĩnh vực thẻ được xác định dưới ngưỡng 65% và 75% theo quy định của Luật Cạnh tranh để xác định nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường. Mức độ cạnh tranh được đánh giá ở mức tương đối. Về phương thức cạnh tranh. Phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực thẻ còn đơn giản, chủ yếu vẫn cạnh tranh qua kinh nghiệm thị trường và mạng lưới hoạt động. Các công cụ cạnh tranh được các ngân hàng sử dụng trong thời gian qua chủ yếu là lãi suất, quảng cáo, đa dạng hoá sản phẩm, hệ thống mạng lưới kênh phân phối dẫn tới các ngân hàng thường có chiến lược kinh doanh, sản phẩm dịch vụ thẻ tương đối giống nhau, nên chưa tạo ra được sự khác biệt riêng trong chiến lược kinh doanh của mình. Như đã phân tích tại các phần nêu trên của Báo cáo, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực thẻ giữa các ngân hàng là vô cùng gay gắt do sự chênh lệch ưu thế về vốn, dư nợ tín dụng và doanh số phát hành thẻ. Khối ngân hàng thương mại nhà nước luôn dẫn đầu trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng nói chung và kinh doanh thẻ nói riêng. Việc Nhà nước tích cực thực hiện cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước đã phần nào làm giảm bớt nhiệt cho thị trường kinh doanh thẻ nhưng vẫn chưa thể làm giảm bớt sức ảnh hưởng của các ngân hàng này trên thị trường. Các dấu hiệu của hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực thẻ xuất hiện chưa rõ ràng, song dưới một số hình thức như báo cáo đã nêu cũng có nhiều nguy cơ vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Tóm lại, môi trường cạnh tranh trong ngành ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực dịch vụ thẻ nói riêng là một môi trường tương đối cạnh tranh. Các quy định pháp luật trong lĩnh vực này rõ ràng, chặt chẽ. Về mức độ tập trung, đây là một ngành có mức độ tập trung Ngành thẻ ngân hàng 183 không quá thấp và cũng không quá cao. Do đó, các hành vi cạnh tranh trên thị trường khá mạnh mẽ, tuy nhiên chưa nghi nhận những vi phạm trong ngành. 2. Khuyến nghị 2.1 Về chính sách và pháp luật Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định chuyên ngành trong việc kinh doanh và cạnh tranh của các ngân hàng trong lĩnh vực thẻ Nhìn chung hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ đã được ban hành tương đối đủ để điều tiết lĩnh vực này, tuy nhiên vẫn còn thiếu các quy định cụ thể cần được hoàn thiện, cụ thể: Cần hoàn thiện các quy định cho từng loại thẻ riêng biệt. Hiện nay các quy định về việc phát hành, sử dụng thẻ mới được ban hành để áp dụng chung cho các loại thẻ, trong khi đó thị trường đang tồn tại nhiều loại thẻ khác nhau, nhiều chủ thể khác nhau như cá nhân và tổ chức, người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam... Chẳng hạn đối với thẻ tín dụng, mỗi khách hàng có quyền mở một hoặc nhiều tài khoản tiền gửi ở một hay nhiều nơi cư trú, nơi đặt trụ sở chính hay nơi khác tùy theo nhu cầu sử dụng trừ trường hợp có quy định khác. Quy định này tạo điều kiện cho việc cạnh tranh của các ngân hàng, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có sự lựa chọn sản phẩm tốt nhưng cũng có thể tạo ra những rủi ro. Riêng đối với chủ thẻ là tổ chức, cũng cần có các quy định về cơ chế sử dụng thẻ thông qua người đại diện, vấn đề phân định trách nhiệm của cá nhân sử dụng thẻ với pháp nhân là chủ thẻ, vấn đề bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin, vấn đề phân định nghĩa vụ gánh chịu rủi ro giữa các bên. Hoàn thiện thêm quy định về phí dịch vụ thẻ khác được quy định tại Thông tư số 35/2012/TT-NHNN quy định về phí dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Thông tư số 35/2012/TT-NHNN đã quy định rõ ràng nguyên tắc thu phí dịch vụ, trách nhiệm của tổ chức phát hành thẻ (Phí phát hành thẻ, phí thường niên, phí giao dịch ATM như vấn tin tài khoản (không in chứng từ), in sao kê tài khoản hoặc in chứng từ vấn tin tài khoản, rút tiền mặt, chuyển khoản, giao dịch khác tại ATM và Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 184 cuối cùng là phí dịch vụ thẻ khác Mặc dù tại Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng quy định rõ “Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”. Tuy nhiên các ngân hàng cũng chưa công bố rõ ràng cho khách hàng biết nhiều loại phí dịch vụ như phí “giao dịch khác tại ATM” và “phí dịch vụ thẻ khác”... Người tiêu dùng vẫn không biết được chính xác các mức phí phải trả dành cho các giao dịch không nằm trong biểu phí cố định. Ngoài ra để tạo điều kiện phát triển thị trường thẻ, cần bổ sung các quy định về sự liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ với các ngân hàng như dịch vụ điện, nước, internet, truyền hình... Nhiều cơ sở có đủ điều kiện chấp nhận thanh toán thẻ như các siêu thị lớn, khách sạn, nhà hàng. nhưng chưa sẵn sàng hợp tác với ngân hàng về thanh toán thẻ. Thứ hai, cần xây dựng những quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, cụ thể: Cục Quản lý cạnh tranh và Ngân hàng Nhà nước cần có sự hợp tác trong việc xây dựng các quy định làm căn cứ tính thị phần và xác định thị trường liên quan theo quy định của Luật Cạnh tranh, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba, cần tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan điều tiết ngành là Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi Luật Cạnh tranh cũng như Luật Các tổ chức tín dụng, trong việc hoạch định chính sách chung giữa hai ngành luật trong lĩnh vực ngân hàng. Hai cơ quan cần có cơ chế hợp tác cụ thể, đặc biệt trong việc trao đổi thông tin giữa hai cơ quan để có sự giám sát cần thiết, kịp thời trong lĩnh vực ngân hàng trong cả quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng, cụ thể là: Quá trình gia nhập thị trường: cần xây dựng một cơ sở dữ liệu chung về số lượng ngân hàng, cấu trúc thị trường để giám sát hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Ngành thẻ ngân hàng 185 Quá trình kinh doanh: giám sát, phát hiện các yếu tố và hiện tượng tiềm ẩn của hành vi phản cạnh tranh là đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh như dấu hiệu của các thỏa thuận dọc/ngang gây hạn chế cạnh tranh hay nguy cơ lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh của các ngân hàng có sức mạnh thị trường. Trong quá trình giám sát, khi phát hiện các yếu tố và dấu hiệu có thể tác động tới môi trường cạnh tranh, các cơ quan quản lý nhà nước (Ngân hàng Nhà nước và Cục Quản lý cạnh tranh) cần có tham vấn kịp thời với các ngân hàng để ngân hàng tự điều chỉnh các hành vi cạnh tranh của mình. 2.2 Đối với các ngân hàng: Hiện nay, Luật Cạnh tranh đã đi vào cuộc sống hơn 7 năm. Đối tượng điều chỉnh của Luật là tất cả các cá nhân và doanh nghiệp kinh doanh, trong đó bao gồm cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, theo Báo cáo kết quả khảo sát mức độ nhận thức của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh41 thì tỷ lệ doanh nghiệp nhận biết đến Luật Cạnh tranh là chưa cao, chỉ chiếm 69,8%. Điều này cũng giải thích vì sao một số hiệp hội, doanh nghiệp đã vô tình vi phạm Luật Cạnh tranh mà không biết. Do đó, việc nâng cao nhận thức về Luật Cạnh tranh giúp các ngân hàng: Không vô tình vi phạm Luật Cạnh tranh; Biết sử dụng công cụ Luật Cạnh tranh để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Đánh giá được những tác động và hệ quả do môi trường cạnh tranh bị bóp méo gây ra. Việc nâng cao nhận thức cần được triển khai trên mọi phương diện như tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật; phát hành các ấn phẩm về pháp luật cạnh tranh để cập nhật thông tin cho các ngân hàng. 41 Báo cáo Khảo sát mức độ nhận thức của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương thực hiện năm 2009 được tiến hành bằng phiếu điều tra và khảo sát sâu trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế (bao gồm cả lĩnh vực ngân hàng) trên phạm vi cả nước. Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 186 2.3 Đối với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Thẻ Việt Nam Các hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ có vai trò to lớn trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của mình mà còn cần thể hiện vai trò to lớn của mình trong việc thực thi pháp luật. Các hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề cần làm tốt hơn nữa vai trò hợp tác tự quản giữa các doanh nghiệp ngân hàng, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật đến các thành viên hiệp hội, tránh can thiệp sâu vào chiến lược kinh doanh của từng thành viên. Đặc biệt, trong lĩnh vực cạnh tranh, hiệp hội có thể thực hiện các buổi tọa đàm, làm việc hoặc tham vấn với cơ quan cạnh tranh về các vấn đề có liên quan để bảo vệ quyền lợi của hội viên trong kinh doanh cũng như nâng cao nhận thức của hội viên về pháp luật cạnh tranh. Ngành thẻ ngân hàng 187 Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam Chịu trách nhiệm nội dung Cục Quản lý Cạnh tranh Chịu trách nhiệm xuất bản Phó giám đốc phụ trách Nguyễn Minh Huệ NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG Trụ sở: 46 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: 04.39387165 Fax: 04.39387164 E-mail: nxbct@moit.gov.vn Biên tập: Trương Hữu Thắng Chế bản: Nguyễn Sinh Trình bày bìa: Minh Vương Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam 188 In 1.000 cuốn, khổ 16 x24cm tại Công ty Cổ phần in Hà Nội Số đăng kí kế hoạch xuất bản: 1597-2014 /CXB/08-497/CT Số Quyết định xuất bản: 98/QĐ-NXBCT ngày 10 tháng 12 năm 2014 In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2014 Mẫu số ISBN: 978-604-931-054-6
File đính kèm:
- danh_gia_canh_tranh_trong_mot_so_nganh_dich_vu_cua_viet_nam.pdf