Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện nhi Thanh Hoá

TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ. Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ có con bị sốt điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 110 bà mẹ có con bị sốt mới nhập khoa hô hấp điều trị từ ngày 10/06/2013 đến ngày 20/07/2013 bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả: Trong số 110 bà mẹ có 33,6% bà mẹ có kiến thức đúng, 23,6% bà mẹ có hành vi đúng, 68,1% bà mẹ lo lắng, lúng túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần I, các bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao (77,3%), hành vi đúng 80,9%, số bà mẹ lo lắng, lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ lần II tỉ lệ bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên rất cao 94,5%, hành vi đúng 93,6%, số bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%. Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ sốt trong bệnh viện cũng như trong cộng đồng là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Hiệu quả của chương trình đó là nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ

pdf 7 trang yennguyen 4180
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện nhi Thanh Hoá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện nhi Thanh Hoá

Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện nhi Thanh Hoá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 53
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC SỨC KHOẺ  
CHO BÀ MẸ CÓ CON BỊ SỐT TẠI KHOA HÔ HẤP  
BỆNH VIỆN NHI THANH HOÁ 
Trương Thị Thuỳ Dung* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ. Đánh giá hiệu quả chương 
trình giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ có 
con bị sốt điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 110 bà mẹ có con bị sốt mới nhập khoa 
hô hấp điều trị từ ngày 10/06/2013 đến ngày 20/07/2013 bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. 
Kết quả: Trong số 110 bà mẹ có 33,6% bà mẹ có kiến thức đúng, 23,6% bà mẹ có hành vi đúng, 68,1% bà 
mẹ lo lắng, lúng túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần I, các bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao 
(77,3%), hành vi đúng 80,9%, số bà mẹ lo lắng, lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ lần II tỉ lệ bà 
mẹ có kiến thức đúng tăng lên rất cao 94,5%, hành vi đúng 93,6%, số bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%. 
Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ sốt trong bệnh 
viện cũng như trong cộng đồng là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Hiệu quả của chương trình đó là nâng 
cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ. 
Từ khóa: Giáo dục sức khoẻ, sốt. 
ABSTRACT 
EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF EDUCATION PROGRAME  
FOR MOTHERS WHO HAVE FEVER’S CHILDREN  
IN RESPIRATORY DEPARTMENT, THANH HOA PEADIATRIC HOSPITAL 
 Truong Thi Thuy Dung* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 53 ‐ 59 
Objectives: To survey knowledge, behavior and attitude of mothers who take care children, to evaluate the 
effectiveness of education program, to develop the knowledge, behavior of mothers.  
Methods: Cross  –  descriptive  study;  interview with  questionnaire  for  110 mothers who  have  childrens 
admitted in respiratory department from 10/6/2013 – 20/7/2013. 
Results: This study revealed that before education program, 33.6% mothers have right knowledge, 23.6% 
mothers have right behavior, and 68.1% mothers often feel anxiety, confuse and worry when the children have 
fever. After the first program, mothers who have right knowledge have growth up to 73.3%, right behavior up to 
80.9%, only 2.7% mothers claimed  that  they  still  feel anxiety. After  the  second program, mothers have  right 
knowledge and right behavior have growth up to 94.5% and 93.5% respectively. Only 0.9% mother felt worry 
and anxiety. 
Conclusion: Education program to providing knowledge, behavior, skill to mother in order to taking care 
patients  in  the hospitals and  in  the community are necessary and benefit. The effectiveness of  this program  is 
improving the knowledge, behavior for mother to take care their children.  
Key words: Knowledge, behavior, attitude, fever. 
* Bệnh viện Nhi Thanh Hóa. 
Tác giả liên lạc: CNĐD Trương Thị Thùy Dung, ĐT: 0974280246, Email: xuan0271984@yahoo.com  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  54
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốt  là  triệu chứng  thường gặp nhất của  trẻ 
em, hầu hết sốt là hậu quả của nhiễm khuẩn (vi 
khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm). Trẻ sốt > 39°C 
tỉ  lệ co giật  là 42,2%,  trong đó có 10% số ca co 
giật kết thúc để lại di chứng.  
Do  lạm  dụng  thuốc  hạ  sốt  nên  tình  trạng 
ngộ độc paracetamol có xu hướng gia tăng. Tỉ lệ 
tử vong do ngộ độc Paracetamol đứng hàng thứ 
2 trong các trường hợp ngộ độc thuốc. 
Là người trực tiếp chăm sóc trẻ, vì vậy việc 
nâng cao nhận thức, thái độ hành vi của các bà 
mẹ  trong  việc  chăm  sóc  trẻ  sốt  có  ý  nghĩa  vô 
cùng to lớn. Nó làm giảm biến chứng, rút ngắn 
thời gian điều trị, giảm chi phí điều trị, giảm mệt 
mỏi,  căng  thẳng  cho người bệnh và  thân nhân 
người  bệnh,  làm  giảm  tỉ  lệ  tử  vong  do  dùng 
thuốc chưa đúng. Mặt khác lợi ích của giáo dục 
sức khỏe (GDSK) đối với nhân viên y  tế  là  làm 
giảm cường độ làm việc, tăng thêm sự hài lòng 
của người bệnh. Đồng  thời góp phần nâng cao 
nhận thức của cộng đồng nói chung về chăm sóc 
sức khoẻ  trẻ em. Như vậy vai  trò của giáo dục 
sức khoẻ cho các bà mẹ là rất to lớn. Tuy nhiên 
chưa  có một nghiên  cứu nào về vấn  đề này  ở 
Thanh Hoá. 
Do đó chúng  tôi  tiến hành nghiên cứu này 
trên các bà mẹ có con < 5 tuổi bị sốt điều trị tại 
khoa hô hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá. 
Mục tiêu nghiên cứu  
Mô  tả một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  nhận 
thức,  thái  độ, hành vi  của  các bà mẹ  có  con bị 
sốt.  
Đánh giá những thay đổi về kiến thức,  thái 
độ, thực hành của các bà mẹ có con bị sốt sau khi 
được GDSK về chăm sóc trẻ sốt. 
TỔNG QUAN 
Sốt  khi  thân  nhiệt  đo  ở  hậu môn  ≥  37,8°C 
tương đương nhiệt độ ở miệng là ≥ 37,5°C, cặp ở 
nách là ≥ 37,2°C. 
Dụng cụ đo thân nhiệt trong nghiên cứu này 
là nhiệt kế thuỷ ngân. Vị trí đo thân nhiệt là ở hố 
nách. 
Hành vi đúng của các bà mẹ về chăm sóc trẻ 
sốt  bao  gồm: Chườm  ấm  cho  trẻ, mặc  thoáng 
quần áo, cho  trẻ uống  thêm nước và  điện giải. 
Sử dụng  thuốc hạ sốt đúng cách. Xử  trí co giật 
do sốt cao. 
Kỹ thuật chườm ấm: cho trẻ nằm ngửa trên 
giường,  pha  và  kiểm  tra  nước  ấm  (t0  khoảng 
37°C). Nhúng 5 khăn vào thau nước ấm, vắt hơi 
ráo.  Đặt  2 khăn  ở hõm nách,  2 khăn  ở bẹn và 
một khăn lau khắp người. Thay khăn mỗi 2 – 3 
phút. 
Thực  hành  sử  dụng  thuốc  hạ  sốt:  cho  trẻ 
uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ ≥ 38,5°C, liều 10 – 
15 mg/kg cân nặng, khoảng cách thời gian giữa 
các lần dùng thuốc là 4 – 6 giờ.  
Xử trí co giật do sốt cao: Khi trẻ co giật, đặt 
trẻ ở tư thế nằm ngửa đầu nghiêng một bên, nới 
rông quần áo, không giữ  tay hay chân  trẻ. Đặt 
một vật mềm chèn giữa hai hàm răng (với trẻ có 
răng). Hút đờm rãi nếu tăng tiết. theo dõi tím tái. 
Đưa trẻ đến cơ sở y tế. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
110 bà mẹ  có  con < 5  tuổi bị  sốt mới nhập 
viện  điều  trị  tại  khoa  hô  hấp  Bệnh  viện  Nhi 
Thanh  Hoá  thời  gian  từ  10/06/2013  đến 
20/07/2013. 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp mô tả cắt ngang. 
Lập bảng phỏng vấn các bà mẹ bằng bộ câu 
hỏi thiết kế sẵn. 
GDSK về chăm sóc  trẻ sốt cho các bà mẹ 2 
lần/tuần.  
Phỏng vấn lần 1: lần 2: lần 3 tương ứng với 
trước GDSK: Sau GDSK  lần 1: sau GDSK  lần 2. 
Có bổ sung câu hỏi về  lợi  ích của chương trình 
GDSK  đối với bà mẹ, kiến nghị  của bà mẹ về 
chương trình GDSK trong GDSK lần 2. 
Xử lý số liệu 
 Sử  dụng  phương  pháp  thống  kê  thông 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 55
thường. 
 Xử lý số liệu bằng các phần mềm Excell. 
KẾT QUẢ 
Các yếu tố liên quan đến nhận thức, hành 
vi, thái độ của các bà mẹ 
Bảng 1. Phân bố theo độ tuổi. 
Tuổi N % 
18 – 35 tuổi Kiến thức đúng 25 30,9 
n = 81 Hành vi đúng 16 19,8 
> 35 tuổi Kiến thức đúng 12 41,4 
n = 29 Hành vi đúng 10 34,5 
* Nhận xét: Nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh 
đẻ 18 – 35 tuổi chiếm tỉ lệ cao 73,6%. Xong tỉ lệ 
bà mẹ trong độ tuổi này có hành vi đúng chiếm 
tỉ lệ thấp 19,8%, kiến thức đúng chỉ chiếm 30,9%. 
Như vậy bà mẹ tuổi càng cao kỹ năng chăm sóc 
con đúng càng cao. 
Bảng 2. Trình độ văn hoá. 
Trình độ văn hoá N % 
Từ cấp II trở xuống 
n = 64 
Kiến thức đúng 20 31,3 
Hành vi đúng 13 20,3 
Cấp III trở lên 
n = 46 
Kiến thức đúng 17 37,0 
Hành vi đúng 13 26,1 
 * Nhận  xét: Qua  kết  quả  nghiên  cứu  cho 
thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa  trình độ học 
vấn với kiến thức đúng và hành vi đúng của bà 
mẹ. 
Bảng 3. Đặc điểm về nghề nghiệp. 
Nghề nghiệp N % 
Tự do và nông nghiệp 
N = 49 
Kiến thức đúng 9 37,5 
Hành vi đúng 6 24,7 
Công nhân 
N = 22 
Kiến thức đúng 10 45,5 
Hành vi đúng 7 31,8 
Công chức, viên chức 
N = 39 
Kiến thức đúng 18 46,1 
Hành vi đúng 13 33,3 
 * Nhận xét: Nhóm bà mẹ  làm nông nghiệp 
và nghề tự do chiếm số lượng lớn nhưng lại có 
hành vi đúng và kiến thức đúng thấp hơn nhóm 
bà mẹ là công chức, viên chức. 
52.7
23.6
57.2
31.8
6.3
12.7
0
10
20
30
40
50
60
Ti vi Internet Không
có TT
Nguồn TT
Biểu đồ 1. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà 
các bà mẹ đã tiếp cận. 
* Nhận xét: Kết quả biểu đồ 1 cho thấy bà mẹ 
tiếp cận nguồn thông tin từ tivi,  internet  là chủ 
yếu. 
3.6 0.9 4.5
91
00
20
40
60
80
100
Tivi Bâo Internet NVYT Khác
Nguồn TT
Biểu đồ 2. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà 
các bà mẹ mong muốn được tiếp cận nhất.  
 * Nhận  xét:  91% bà mẹ mong muốn  được 
tiếp cận nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt từ 
chương trình GDSK do nhân viên y tế trực tiếp 
thực hiện. 
Đánh giá kiến thức chăm sóc trẻ sốt của các 
bà mẹ trước và sau khi GDSK. 
Bảng 4. Kiến thức về định nghĩa sốt. 
Định nghĩa sốt 
Trước 
GDSK 
Sau GDSK 
lần 1 
Sau GDSK 
lần 2 
n % n % n % 
Sờ bằng tay thấy nóng 14 12,7 5 4,6 0 0 
Đo nhiệt độ ở nách ≥ 
37,2°C 37 33,6 98 89,1 104 94,5
Đo nhiệt độ ở nách ≥ 
38,5°C 48 43,7 7 6,3 6 5,5 
Không biết – ý kiến khác 11 10,1 0 0 0 0 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  56
 * Nhận  xét: Trước GDSK  đa  số  các bà mẹ 
hiểu sai về định nghĩa sốt  (66,4%), có 12,7% bà 
mẹ chỉ sờ bằng tay thấy ấm đã nhận định con bị 
sốt. Sau GDSK không có bà mẹ nào không kẹp 
nhiệt độ mà nhận định con bị sốt, 94,5% bà mẹ 
hiểu đúng định nghĩa sốt.  
Trước GDSK chỉ có 20% bà mẹ nghĩ rằng sốt 
có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm. phần lớn 
bà mẹ cho  rằng  sốt do  trẻ mọc  răng hoặc  thay 
đổi thời tiết. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu đúng 
nguyên nhân gây sốt. 
Bảng 5.Nguyên nhân gây sốt. 
Nguyên nhân gây sốt
Trước 
GDSK 
Sau GDSK 
lần 1 
Sau GDSK 
lần 2 
n % n % n %
Thay đổi thời tiết 62 56,4 0 0 0 0 
Bệnh truyền nhiễm 22 20 110 100 110 100
Mọc răng 15 13,6 2 1,8 0 0 
Không biết 24 21,8 0 0 0 0 
Biểu đồ 3. Thời điểm đưa con đến cơ sở y tế khám 
* Nhận xét: Trước GDSK hầu hết bà mẹ cho 
rằng đưa con đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt. 
Sau GDSK 94,5% bà mẹ xác định đúng và đủ các 
thời điểm đưa trẻ đến CSYT. 
4.7
40.4
0
7.1
47.8
1.8 4.6 0
92.7
0.9 0 1.8 0
98.2
0
0
20
40
60
80
100
Trước gdsk Sau gdsk 1 Sau gdsk 2
sốt cao ≥ 39°C
co giật
Tinh thần lơ
mơ-li bì
cả 3 dấu hiệu
trên
Không biết
Biểu đồ 4. Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ bị sốt. 
 * Nhận xét: Qua kết quả nghiên cứu ta thấy 
trước GDSK có 52,2% bà mẹ nhận biết đúng dấu 
hiệu nguy hiểm khi trẻ có sốt, trong số đó chỉ có 
7,1% bà mẹ nhận biết đúng và đủ các dấu hiệu 
10
0 01.8 0 0
15.5 12.7
0
6.3
77.3
94.5
60.6
10
5.55.8
0 0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Trước gdsk Sau gdsk 1 Sau gdsk 2
Sốt ≥ 38,5°C
Sốt nhe-vừa 3
ngày k đỡ
Co giật
Cả 3 ý trên
Đến csyt càng
sớm càng tốt
K đến csyt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 57
nguy hiểm, sau GDSK lần 2 tỉ lệ này đã tăng lên 
gần như tuyệt đối (98,2%). 
Đánh giá  thực hành  chăm  sóc  trẻ  sốt  của 
các bà mẹ trước và sau khi GDSK. 
Trước GDSK  6,3% bà mẹ  cho  rằng không 
cần xử trí gì khi trẻ bị sốt, 1,8% bà mẹ chườm 
đá  lạnh,  2,7%  bà mẹ mặc  thêm  quần  áo  cho 
con,  có  tới  82,7% bà mẹ  tự mua  thuốc hạ  sốt 
mà  không  hỏi  y  kiến  bác  sĩ.  Sau GDSK  gần 
như 100% bà mẹ xử trí trẻ sốt đúng cách. 
Bảng 6. Hành vi xử trí trẻ sốt. 
Xử trí khi trẻ bị sốt 
Trước 
GDSK 
Sau GDSK 
lần 1 
Sau GDSK 
lần 2 
n % n % n % 
Chườm ấm 68 61,8 110 100 110 100
Chườm đá, lạnh 2 1,8 0 0 0 0 
Mặc thêm quần áo 3 2,7 0 0 0 0 
Nới rộng-mặc thoáng 
quần áo 53 48,1 91 82,7 110 100
Bù nước điện giải 47 42,7 98 89,1 110 100
Tự mua thuốc hạ sốt 91 82,7 14 12,7 7 6,3
Đưa đến csyt càng 
sớm càng tốt 32 29 7 6,3 1 0,9
Không xử trí gì 7 6,3 0 0 0 0 
Bảng 7. Thực hành các kỹ thụât chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ trên mô hình.  
Thực hành đúng 
Trước GDSK Sau GDSK L1 Sau GDSK L2 
n % n % n % 
Chườm ấm 38 33,8 91 82,7 103 93,6 
Mặc thoáng quần áo 68 61,8 110 100 110 100 
Đo nhiệt độ 81 73,6 108 98,2 110 100 
Bù nước - điện giải 32 29 95 86,4 110 100 
Xử trí co giật 26 23,6 93 84,5 105 95,5 
Sử dụng thuốc 
Thời điểm dùng thuốc 28 25,4 91 82,7 104 94,5 
TG giữa các lần dùng thuốc 30 27,2 101 91,8 107 97,3 
Đúng hàm lượng 51 46,3 100 80,9 106 96,4 
Đúng đường dùng 42 38,2 96 87,3 109 99,1 
 * Nhận xét: Trước GDSK bà mẹ thực hành 
kỹ thuật chăm sóc trẻ sốt đúng hầu hết chiếm 
tỉ lệ thấp và rất thấp, sau GDSK hành vi chăm 
sóc  trẻ  sốt  đúng  tăng  lên  và  tăng  cao  sau 
GDSK lần 2. 
Đánh giá  thái độ của các bà mẹ có con bị 
sốt trước và sau khi GDSK. 
68.1
2.7 0.9
0
10
20
30
40
50
60
70
Trước GDSK Sau GDSK L1 Sau GDSK L2
Lo lắng, lúng
Biểu đồ 5:.Thái độ của các bà mẹ có con bị sốt. 
* Nhận xét: Tỉ lệ các bà mẹ lo lắng, lúng túng 
khi con bị sốt giảm rõ rệt sau khi được GDSK. 
Đánh  giá  lợi  ích  chương  trình GDSK  và 
kiến nghị của bà mẹ. 
 Tất  cả  bà mẹ  đều  nói  rằng  chương  trình 
GDSK do nhân viên y tế thực hiện rất hữu  ích, 
vừa  dễ  hiểu,  ngắn  gọn  và  là  nguồn  thông  tin 
đáng tin cậy. 100% bà mẹ mong muốn có tài liệu 
phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần trong 
một đợt điều trị. 
Bảng 8. Bảng đánh giá chung về kiến thức, thái độ, 
hành vi của các bà mẹ. 
Mức độ 
Trước 
GDSK 
Sau GDSK 
lần 1 
Sau GDSK lần 
2 
n % n % n % 
Kiến thức đúng 37 33,6 85 77,3 104 94,5 
Hành vi đúng 26 23,6 100 80,9 103 93,6 
Thái độ lo lắng, 
lúng túng 75 68,1 3 2,7 1 0,9 
 * Nhận xét: Sau GDSK lần 1 và lần 2 nhóm 
bà mẹ có kiến  thức đúng chung, hành vi đúng 
chung  tăng dần và  tăng  lên  rất  cao. Kiến  thức 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  58
đúng  chung  là  94,5%,  hành  vi  đúng  chung 
93,6%. Sau lần GDSK thứ 2 tỉ lệ bà mẹ có thái độ 
lo lắng, lúng túng khi con bị sốt giảm còn 0,9%. 
BÀN LUẬN 
Qua  kết  quả  điều  tra  cho  thấy  các  bà mẹ 
trong  độ  tuổi  sinh  đẻ  chiếm  tỉ  lệ  73,6%  là  cao 
hơn nhóm bà mẹ khác nhưng tỉ lệ bà mẹ có kiến 
thức đúng và hành vi đúng trong độ tuổi này lại 
chiếm tỉ lệ thấp hơn (19,8%). 
 Đa số các bà mẹ có trình độ văn hoá từ cấp 
II trở xuống (58,1%), phần đông các bà mẹ  làm 
nghề  nông  do  đó  cũng  ảnh  hưởng  đến  nhận 
thức  của  bà mẹ. Cho  nên  cần  có một  chương 
trình GDSK phù hợp nhằm nâng cao kiến thức, 
hành vi chăm sóc trẻ sốt phổ biến ở vùng nông 
thôn và cho nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh đẻ là 
việc làm rất cần thiết.  
 Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà bà 
mẹ  đã  tiếp  cận  được  chủ yếu qua  tivi  (52,7%), 
internet (57,2%). Thông tin tiếp cận từ nhân viên 
y tế chiếm tỉ  lệ thấp 31,8%. Xong có tới 91% bà 
mẹ trả lời rằng nguồn thông tin về chăm sóc trẻ 
sốt mà  họ mong muốn  được  tiếp  cận  nhất  là 
nguồn thông tin từ nhân viên y tế vì đó là nguồn 
thông  tin đáng  tin cậy nhất, vừa ngắn gọn vừa 
dễ hiểu.  
Đánh giá hiệu quả của GDSK 
Về kiến thức 
 Kiến thức về định nghĩa sốt: Trước GDSK 
chỉ  có  33,6% bà mẹ hiểu  đúng về  định nghiã 
sốt. Có tới 12,7% bà mẹ không kẹp nhiệt độ và 
chỉ sờ bằng tay thấy nóng đã nhận định con bị 
sốt. sau GDSK lần 1 có 89,1% bà mẹ hiểu đúng 
định nghĩa sốt, tỉ lệ này tăng cao sau GDSK lần 
2 (94,5%). 
 Nguyên nhân gây  sốt: Một  tỉ  lệ  lớn các bà 
mẹ trả lời sốt là do trẻ mọc răng, do thay đổi thời 
tiết, 21,8% bà mẹ không biết nguyên nhân. Chỉ 
có 20% bà mẹ nghĩ tới nguyên nhân bệnh truyền 
nhiễm. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu rõ hầu hết 
sốt đều có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm.  
 Việc đưa con đến cơ sở y tế: Hầu hết các bà 
mẹ nói  rằng  đưa  trẻ  đến  cơ  sở  y  tế  càng  sớm 
càng tốt, chỉ có 6,3% bà mẹ xác định đúng và đủ 
các thời điểm đưa trẻ đến cơ sở y tế. Sau GDSK 
lần  1  số  bà mẹ  xác  định  đúng  và  đủ  các  thời 
điểm đưa con đến cơ  sở y  tế  tăng  (77,3%),  sau 
GDSK lần 2 tỉ lệ này tăng cao 94,5%. 
 Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi  trẻ  sốt: 
Chỉ  có 7,1 % bà mẹ nhận biết  đúng và  đủ  các 
dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ sốt, tỉ lệ này tăng lên 
một cách rõ rệt 92,7% sau GDSK  lần 1, đặc biệt 
tăng cao sau GDSK lần 2.  
 Sau khi được GDSK, tỉ lệ bà mẹ có kiến thức 
đúng và đầy đủ tăng lên một cách có ý nghĩa. 
Về thực hành chăm sóc trẻ sốt 
 Tỉ  lệ  bà mẹ  chưa  biết  cách  chăm  con  như 
chườm  đá,  lạnh  (1,8%),  mặc  thêm  quần  áo 
(2,7%), tự mua thuốc hạ sốt khi chưa hỏi ý kiến 
bác sĩ  (82,7%) giảm đi một cách có ý nghĩa sau 
khi được GDSK.  
 Sau GDSK tỉ lệ bà mẹ thực hành chườm ấm 
đúng  cách  tăng  (từ  33,8%  lên  82,7%  và  sau 
GDSK  lần  2  tăng  lên  93,6%.  Sau  2  lần GDSK 
100% bà mẹ đo nhiệt độ đúng cách, 100% bà mẹ 
biết cách pha dung dịch điện giải và thực hành 
bù  nước  điện  giải  đúng.  Thực  hành  sử  dụng 
thuốc và xử  trí co giật đúng cũng  tăng cao sau 
GDSK. 
Về thái độ  
Tỉ  lệ  bà mẹ  có  thái  độ  lo  lắng,  lúng  túng 
giảm từ 68,1% xuống còn 2,7% sau GDSK lần 1 
và sau GDSK lần 2 là 0,9%. Tất cả các bà mẹ đều 
ghi nhận chương trình GDSK do nhân viên y tế 
thực hiện rất hữu ích, vừa dễ hiểu, ngắn gọn và 
là  nguồn  thông  tin  đáng  tin  cậy,  đã  cung  cấp 
những thông tin cần thiết cho bà mẹ trong việc 
nâng  cao  hiểu  biết  cũng  như  thực  hành  chăm 
sóc trẻ sốt từ đó giúp họ bớt lo lắng, bình tĩnh xử 
trí trẻ sốt tốt hơn. 100% bà mẹ mong muốn có tài 
liệu phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần 
trong một đợt điều trị. 
Giáo dục sức khỏe  là một công tác khó  làm 
và khó đánh giá kết quả, nhưng nếu  làm tốt sẽ 
mang  lại hiệu quả cao nhất với chi phí  ít nhất. 
Cũng từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy giáo 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 59
dục sức khỏe là một quá trình nên cần tiến hành 
thường xuyên, liên tục, lâu dài bằng nhiều biện 
pháp  khác  nhau  chứ  không  phải  là một  công 
việc có thể làm một lần là xong. Vì vậy, để thực 
hiện công tác giáo dục sức khỏe chúng ta phải có 
sự  đầu  tư  thích  đáng, hết  sức  kiên  trì  thì mới 
đem lại hiệu quả cao. 
KẾT LUẬN 
 Qua  đề  tài nghiên  cứu  cho  thấy: Trong  số 
110 bà mẹ tham gia nghiên cứu chỉ có 33,6% bà 
mẹ  có  kiến  thức  chung  đúng,  23,6%  bà mẹ  có 
hành vi đúng chung, 68,1% bà mẹ  lo  lắng,lúng 
túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần 1 các 
bà mẹ có kiến  thức đúng  tăng  lên với  tỉ  lệ cao 
(77,3%), hành vi đúng là 80,9%, số bà mẹ lo lắng, 
lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ 
lần 2 tỉ  lệ bà mẹ có kiến thức chung đúng  tăng 
lên rất cao 94,5%, hành vi đúng chung 93,6%, số 
bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%.  
 Sau  GDSK  có  sự  tăng  lên một  cách  có  ý 
nghĩa về  tỉ  lệ  các bà mẹ  có kiến  thức  đúng và 
thực hành đúng, giảm đi tỉ lệ bà mẹ lo lắng mất 
bình tĩnh khi trẻ sốt đặc biệt là sau GDSK lần 2. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa GDSK lần 1 và 
GDSK lần 2.  
 Kết quả cũng cho  thấy có mỗi  liên hệ có ý 
nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp, tuổi, trình độ 
học vấn, với kiến thức đúng và hành vi đúng. 
KIẾN NGHỊ 
 Giáo dục sức khỏe chính  là quá  trình dạy 
học có mối quan hệ qua  lại 2 chiều do đó sau 
mỗi lần GDSK cần đánh giá lại lượng thông tin 
bà mẹ thu thập được để kịp thời điều chỉnh bổ 
sung những thông tin thiếu sót qua GDSK lần 
sau. Như vậy GDSK không phải  chỉ  làm một 
lần là xong. 
 Nên  xây  dựng một  chương  trình  GDSK 
phù hợp và thực hiện phổ biến hơn ở các vùng 
nông  thôn và nhóm bà mẹ ở độ  tuổi sinh  đẻ. 
Cần có  tài  liệu phát  tay để bà mẹ  theo dõi và 
đọc lại nhiều lần.  
 Bệnh viện, y tế cơ sở cần xem chương trình 
GDSK là một nội dung của kế hoạch hoạt động 
cũng như  chỉ  tiêu phấn  đấu,  để  đưa hiệu  quả 
GDSK tới cộng đồng.  
 Chương trình GDSK phải được tổ chức thực 
hiện một  cách  thường  xuyên,  liên  tục,  lâu  dài 
bằng nhiều biện pháp khác nhau. 
 GDSK  nên  thực  hiện  ở  từng  khoa  phòng 
bệnh viện, tại cộng đồng dân cư, và làm sao cho 
các  chương  trình giáo dục  sức khỏe  thêm  sinh 
động và thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Vì 
vậy,  để  thực  hiện  công  tác  giáo  dục  sức  khỏe 
chúng  ta phải có sự đầu  tư  thích đáng, hết sức 
kiên trì thì mới đem lại hiệu quả cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bệnh viện Nhi Đồng 1 (2007). Kỹ thuật điều dưỡng nhi khoa. 
Nhà xuất bản y học, tr. 21 – 22.   
2. Bệnh viện nhi Trung Ương ‐ Viện nghiên cứu sức khoẻ trẻ em. 
Sốt ở trẻ em. Bài giảng chuyên khoa định hướng nhi. 
Ngày nhận bài báo:     09‐10‐2013. 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11‐11‐2013. 
Ngày bài báo được đăng:    16‐12‐2013. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_chuong_trinh_giao_duc_suc_khoe_cho_ba_me_c.pdf