Đào tạo và nghiên cứu công tác xã hội ở Việt Nam - Nhìn lại và triển vọng

Tóm tắt. Công tác xã hội là một ngành đào tạo được đưa vào giảng dạy gần đây

trong hệ thống đào tạo nghề nghiệp ở Việt Nam. Dù mới, song nhu cầu đào tạo,

nghiên cứu, hoạt động xã hội lại rất cần thiết và đa dạng, phong phú. Hầu như các

trường Đại học (kể cả khối dân lập), các trường Cao đẳng và Trung cấp từ Bắc chí

Nam đều có mở ngành công tác xã hội. Thực tế hiện nay việc đào tạo, nghiên cứu,

giảng dạy, học tập và hợp tác về công tác xã hội cho các cấp đào tạo, ở mọi cơ sở

có đào tạo của nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Việc nhìn lại toàn diện chương trình,

đội ngũ, giáo trình tài liệu, nội dung giảng dạy, đổi mới phương pháp và sự kết nối

chia sẻ trong đào tạo và nghiên cứu trên phạm vi quốc gia và quốc tế là hết sức cần

thiết cho triển vọng của khoa học này.

pdf 8 trang yennguyen 1000
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo và nghiên cứu công tác xã hội ở Việt Nam - Nhìn lại và triển vọng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo và nghiên cứu công tác xã hội ở Việt Nam - Nhìn lại và triển vọng

Đào tạo và nghiên cứu công tác xã hội ở Việt Nam - Nhìn lại và triển vọng
27 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012 
ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM - 
NHÌN LẠI VÀ TRIỂN VỌNG 
Trần Xuân Bình 
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
Tóm tắt. Công tác xã hội là một ngành đào tạo được đưa vào giảng dạy gần đây 
trong hệ thống đào tạo nghề nghiệp ở Việt Nam. Dù mới, song nhu cầu đào tạo, 
nghiên cứu, hoạt động xã hội lại rất cần thiết và đa dạng, phong phú. Hầu như các 
trường Đại học (kể cả khối dân lập), các trường Cao đẳng và Trung cấp từ Bắc chí 
Nam đều có mở ngành công tác xã hội. Thực tế hiện nay việc đào tạo, nghiên cứu, 
giảng dạy, học tập và hợp tác về công tác xã hội cho các cấp đào tạo, ở mọi cơ sở 
có đào tạo của nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Việc nhìn lại toàn diện chương trình, 
đội ngũ, giáo trình tài liệu, nội dung giảng dạy, đổi mới phương pháp và sự kết nối 
chia sẻ trong đào tạo và nghiên cứu trên phạm vi quốc gia và quốc tế là hết sức cần 
thiết cho triển vọng của khoa học này. 
1. M đu 
Công tác xã hội (CTXH), với tư cách là một chuyên ngành, một ngành đào tạo 
cần thiết trong lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn đã được đưa vào giảng dạy gần 
đây trong hệ thống nghề nghiệp ở Việt Nam. Tuy còn trẻ nhưng nó rất được xã hội quan 
tâm, đón nhận bởi tính khoa học liên ngành và vai trò cung cấp hệ thống dịch vụ xã hội 
quan trọng. Khoa học này giúp các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và các 
nhà hoạt động thực tiễn trong mọi lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức lao 
động sản xuất, triển khai kỹ thuật công nghệ nhận thức và trực tiếp giải quyết các vấn 
đề xã hội đặt ra. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước đổi mới toàn diện và phát triển theo 
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Ngành CTXH tuy mới song nhu cầu đào tạo, nghiên cứu, hoạt động xã hội lại 
khá đa dạng, phong phú. Hầu hết các trường đại học (kể cả khối dân lập) và các trường 
Cao đẳng, Trung cấp từ Bắc chí Nam đều có mở ngành CTXH. Tuy nhiên, trên thực tế 
việc đào tạo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập CTXH hiện nay cho các cấp học, tại các 
cơ sở có đào tạo vẫn còn nhiều bất cập, cần phải luận bàn để tìm ra những giải pháp cần 
thiết, cấp bách cho triển vọng của ngành học này. 
28 
1. Thực trạng đào tạo, nghiên cứu Công tác xã hội và những vấn đề đặt ra 
1.1. Thực trạng chương trình đào tạo 
Đến nay, dù chương trình đào tạo ngành CTXH đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo 
thông qua cho các loại đối tượng Trung cấp, Cao đẳng, Đại học và Sau đại học. Song sự 
áp dụng tùy tiện chương trình này ở mỗi cấp, tại các cơ sở đào tạo và sự thiếu tính hợp 
lý trong liên thông hay đào tạo chuyên sâu, đào tạo nghề vẫn đang còn là những vấn đề 
phải bàn. Ðiều này đã ít nhiều ảnh hưởng tới lượng thông tin và những kỹ năng mà 
người học muốn nhận được một cách chính thống. Trong chương trình đào tạo, hàm 
lượng tri thức chuyên sâu về CTXH còn quá mỏng so với khối lượng kiến thức yêu cầu. 
Người học khi ra trường “vốn tri thức chuyên ngành CTXH” vẫn chưa đủ để tác nghiệp. 
Thực tế cán bộ nghiên cứu, giảng dạy CTXH ở Việt Nam đang tồn tại nhiều 
cách nghĩ, cách tiếp thu và tuân thủ chương trình khác nhau, do đó cách hiểu về cả cơ 
cấu các chuyên ngành lẫn nội dung của chúng chưa nhất quán. Sự khác biệt này không 
chỉ tồn tại giữa các cơ sở, mà thậm chí ngay trong một cơ sở đào tạo. Do vậy, cách kết 
cấu khối kiến thức trong mỗi chương trình cho các đối tượng tại các cơ sở ở nước ta 
đang còn khá khác biệt. Trong đào tạo tín chỉ, việc thống nhất lại cách hiểu và đối tượng 
cụ thể của nó để thiết kế mỗi chương trình đào tạo phù hợp, hiện đại, liên thông đang là 
vấn đề cấp thiết. 
Trong kết cấu chương trình phần đại cương còn nặng về lý thuyết, phần ứng 
dụng và thực hành kỹ năng còn hạn chế. Một bộ phận sinh viên đến năm cuối hoặc đã ra 
trường vẫn chưa đủ tự tin, vốn kiến thức và khả năng thực hành nghề nghiệp còn hạn 
chế. Do vậy số này hết sức lúng túng khi thực tập cuối khóa cũng như đáp ứng yêu cầu 
giải quyết các vấn đề đơn giản của xã hội đặt ra. Ðây là một thực tế đòi hỏi phải cải tiến 
chương trình đào tạo ở tất cả các cấp học, làm sao đào luyện kỹ năng nghiên cứu, ứng 
dụng và tác nghiệp phù hợp với từng loại đối tượng học viên. Vấn đề thống nhất chương 
trình đào tạo để từ đó tương đồng về giáo trình, giáo khoa, cách đánh giá kết quả học 
tập đang là nhu cầu bức thiết. 
1.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên 
Ðể giảng dạy tốt, bên cạnh chương trình giảng dạy thích hợp đáp ứng yêu cầu 
chung và yêu cầu của từng loại đối tượng, còn cần một đội ngũ giảng viên giỏi chuyên 
môn và nhiệt huyết. Thực tế nhìn lại đội ngũ giảng viên ngành CTXH ở nước ta còn 
thiếu chuyên môn và tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo chính quy, đúng chuyên 
ngành và thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp, đội ngũ Tiến sỹ, Thạc sỹ đều là những người 
chuyển đổi từ những chuyên ngành khoa học xã hội khác. Ðây là một nét đặc trưng cần 
chú ý nếu muốn tăng cường chất lượng công tác, nhất là công tác giảng dạy, nghiên cứu 
trong các Viện, Học viện và trong các trường Đại học. CTXH Việt Nam đang còn thiếu 
những chuyên gia giỏi, còn quá ít các chuyên gia đầu ngành, nhất là những chuyên gia 
nghiên cứu các lĩnh vực chuyên biệt, ứng dụng và tác nghiệp. 
29 
Tại nhiều cơ sở có đào tạo CTXH, giáo viên là những người có kinh nghiệm dạy 
các ngành khoa học khác như xã hội học, tâm lý học, sử học... song thời gian dành cho 
chuyên ngành lại chưa nhiều, chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu, hay qua đào tạo tập huấn 
ngắn hạn, dài hạn của các tổ chức phi chính phủ, hoặc tham gia các hoạt động xã hội 
trong cộng đồng và qua các công trình nghiên cứu của họ, vì thế không tránh khỏi có 
những hạn chế nhất định về chuyên môn. 
Trên bình diện lý thuyết, việc phát triển học thuật của khoa học này vẫn còn 
nhiều bất cập. Hầu hết cán bộ nghiên cứu, giảng dạy đang ở mức độ tiếp thu những tri 
thức CTXH của thế giới. Những đóng góp có tính sáng tạo để phát triển cơ sở lý luận 
cho khoa học này đang còn là vấn đề ở phía trước. Ðiều này khiến cho đào tạo, nghiên 
cứu, giảng dạy gặp không ít khó khăn. Ðây là một trong những hạn chế đáng phải lưu 
tâm nhất nếu muốn phát triển. Chúng ta đều biết nhân tố con người là chìa khóa mở ra 
và quyết định cho triển vọng ngành này. 
Ðào tạo cán bộ, nhân viên làm CTXH, nhất là đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu 
không chỉ tính đến một khối lượng kiến thức về phương diện lý thuyết (kiến thức đa 
ngành trong nước, các công ước và văn kiện thế giới về quyền con người, sự phát triển 
của xã hội...), mà còn quan trọng là phải đề cao kỹ năng thực hành, thực tế, đạo đức 
nghề và kỹ năng mềm. Do vậy, việc cấu tạo chương trình, giáo trình và các tài liệu liên 
quan phải đặc biệt tính đến những kỹ năng tiếp cận các đối tượng rất khác nhau bởi 
những đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi, hoàn cảnh xã hội, dân tộc, tôn giáo... cũng như 
các kỹ năng thâm nhập cuộc sống và tiếp cận đối tượng. 
1.3. Về phương pháp giảng dạy 
Khác với đào tạo tín chỉ, xưa nay giáo viên lên lớp truyền thụ kiến thức, còn 
người học thu nhận một cách thụ động, máy móc chấp nhận, ghi nhớ, sao chép giản đơn, 
không phát huy tính năng động, sáng tạo của mình, và chưa thể hiện được vai trò chủ 
thể nhận thức. Cách dạy này đã vô hình chung khuyến khích tính lười suy nghĩ, ỷ lại, 
trông chờ của người học. Trong khi đó, như đã phân tích ở trên, người học cần tích cực 
hóa qua các buổi thảo luận nhóm, thực hành các kỹ năng, tạo bầu không khí học tập... 
khiến cho việc tham gia bài học từ phía sinh viên sôi nổi, sinh động, phong phú điều đó 
ảnh hưởng không ít đến kết quả học tập của họ. Quá trình dạy và nhận thức của người 
học theo cách này sẽ trở nên sinh động, khắc phục được tình trạng dạy và học cứng 
nhắc một chiều. Điều này đòi hỏi người học phải đọc, làm bài, nghiên cứu lài liệu liên 
quan trước khi lên lớp mới chủ động tham gia xây dựng được bài học. 
Với đặc thù ngành, cùng với đổi mới phương pháp việc đổi mới phương tiện 
phục vụ cho giảng dạy và học tập, cũng như kinh phí cho việc nghiên cứu khoa học, 
thực tập, thực tế và xây dựng qui trình đánh giá kết quả học tập là vấn đề đang đặt ra tại 
các cơ sở đào tạo. 
30 
1.4. Người học và môi trường nghề nghiệp 
Mối quan hệ giữa hai quá trình dạy - học và với môi trường nghề nghiệp cũng là 
những vấn đề cần phải bàn. CTXH là một khoa học liên ngành và thâm nhập vào thực tế 
đời sống xã hội, nó đòi hỏi người học không chỉ chủ động, tích cực lĩnh hội các kiến 
thức chuyên ngành, mà còn phải vận dụng kiến thức liên ngành, cận ngành như: Xã hội 
học, Tâm lý học, Giáo dục học, Y học... để linh hoạt vận dụng, giải quyết những tình 
huống, những vấn đề xã hội cụ thể đặt ra. Do vậy mỗi đối tượng, cấp học khác nhau, 
người học phải chủ động chiếm lĩnh tri thức, thay đổi cách tư duy, cách học và khả năng 
ứng dụng, thực hành các kỹ năng vào thực tế. 
Trong quá trình đào tạo, việc tham gia nghiên cứu khoa học trong sinh viên là 
yêu cầu rất cần thiết và bổ ích. Đây là cơ hội cho người học tiếp cận với hoạt động 
nghiên cứu, nó đòi hỏi một sự nỗ lực, tính sáng tạo, chủ động tìm tòi, khám phá tri thức. 
Khi tính chủ động được phát huy thì hiệu quả của giáo dục mới được nâng cao. 
Thực tập thực tế cũng là một vấn đề quan trọng, là cơ hội giúp cho người học 
thâm nhập xã hội để trở thành “nhà CTXH” chuyên nghiệp. Thực tập thực tế một mặt 
vun đắp lòng đam mê, yêu thích nghề của người học, mặt khác giúp họ thực hành kiến 
thức đã được học để áp dụng vào thực tế. Ðây thực sự là một nhân tố tăng hiệu quả của 
quá trình đào tạo, đồng thời là cầu nối giữa đào tạo với môi trường nghề nghiệp. Mối 
tương tác này vừa giúp cho “xã hội vào trường học và trường học ra với xã hội”, vừa 
qua đó người học có được "sự thừa nhận của xã hội", cũng như giúp họ có kỹ năng thực 
hành tác nghiệp và tiếp cận việc làm khi ra trường. Một cơ sở đào tạo khoa học và hiện 
đại cần tính đến việc xây dựng “các điểm học tập CTXH” gắn liền với các môi trường 
cộng đồng xã hội phù hợp chương trình đào tạo, đối tượng đào tạo và giải quyết mối 
quan hệ nhà trường và xã hội. 
1.5. Tài liệu, giáo trình và thông tin tư liệu 
Thực tế ở nước ta hiện nay tại các cơ quan, đơn vị đang nghiên cứu và đào tạo 
CTXH chưa có một bộ giáo trình, tài liệu chuẩn nào. Hệ thống giáo khoa, giáo trình, tài 
liệu tham khảo về CTXH rất phong phú, đa dạng. Nhiều cơ sở đào tạo còn sử dụng các 
loại tài liệu khác nhau để làm giáo trình cho học viên, sinh viên. Người học càng đọc 
càng thấy mênh mông, hoang mang không biết lấy đâu làm chuẩn. Phần lớn những tài 
liệu này người đọc không được tiếp cận từ bản gốc mà đã qua sự khúc xạ bởi lăng kính 
của những học giả khác nhau, tạo nên tình trạng thiếu thống nhất, thiếu những quy chuẩn 
trong nghiên cứu, giảng dạy và học. 
Trước mắt, trong khi chưa có “tập giáo trình chuẩn” của Bộ Giáo dục - Đào tạo, 
các cơ sở đào tạo và nghiên cứu CTXH cần tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm rà soát lại 
hệ thống sách giáo khoa để xác định những tài liệu cơ bản nào có thể sử dụng chính đáp 
ứng chương trình đào tạo, nhằm thống nhất quan điểm, cách hiểu, tránh tình trạng cùng 
một vấn đề mỗi người hiểu theo những cách khác nhau. Điều này đang gây không ít khó 
khăn cho người dạy, người học và nghiên cứu. 
31 
Căn cứ chương trình đào tạo cho các cấp học, đối tượng học để cấu tạo hệ thống 
tri thức trong giáo trình, giáo khoa, tài liệu tham khảo sao cho nó phản ánh không chỉ là 
những hiểu biết về một nghề nghiệp, mà còn là một khoa học có tính độc lập với các 
khoa học khác. Đào tạo cử nhân chuyên ngành CTXH với cơ cấu kiến thức – lý thuyết, 
kỹ năng – thực hành như hiện nay là quá mỏng về chuyên ngành và sẽ không có một 
bản sắc chuyên môn rõ rệt về CTXH. Việc biên soạn, xuất bản giáo trình, giáo khoa, tài 
liệu tham khảo cho từng cấp học, đối tượng đào tạo và xây dựng hệ thống thông tin tư 
liệu về CTXH trong các cơ sở đào tạo, đồng thời chia sẻ để hình thành mạng lưới nghề 
là những câu chuyện cần phải tính đến ngay bây giờ. 
1.6. Hợp tác và mạng lưới Công tác xã hội 
Ở khu vực các nước nói tiếng Anh, các nước phát triển việc đào tạo, nghiên cứu 
và thực hành chuyên nghiệp CTXH đã có gần một thế kỷ nay, hầu hết tại đây đã có 
những trường đại học Công tác Xã hội với sự uyên bác và bề dày phát triển. Trong xu 
thế hội nhập quốc tế và hợp tác toàn diện hiện nay, xây dựng các dự án hợp tác, trao đổi 
về giáo viên, sinh viên, đào tạo và nghiên cứu khoa học đang mở ra nhiều cơ hội cho 
quá trình quốc tế hóa của ngành. 
Gần đây sự hợp tác trong nghiên cứu và giảng dạy giữa các cơ sở nghiên cứu, 
đào tạo tuy đã được mở rộng nhưng chưa thật thường xuyên, liên tục và hiệu quả. 
Cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu và đào 
tạo chính trong các hoạt động biên soạn giáo trình, thỉnh giảng, trao đổi kế hoạch 
đào tạo, trao đổi kinh nghiệm đào tạo và trao đổi kết quả nghiên cứu, làm sao các cơ 
sở đào tạo có được những thông tin đầy đủ để hoàn thành tốt nhất chức năng đào tạo 
và nghiên cứu của mình. 
2. Những đề xuất cho triển vọng 
- Cần tăng hàm lượng môn học CTXH trong các chương trình đào tạo để bảo 
đảm cho người học có đủ khối kiến thức ngành và chuyên ngành. Chuẩn hóa chương 
trình, giáo trình, giáo khoa, qui trình đào tạo, thi cử đang là vấn đề cần thiết cần thảo 
luận và sớm thống nhất trong “làng CTXH”. Ðây là trách nhiệm không chỉ của riêng 
các cơ sở đào tạo mà là của tất cả các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, đào tạo, ứng dụng. 
- Phải xây dựng chương trình đào tạo vừa tiên tiến, vừa phù hợp với thực tiễn 
Việt Nam. Cần có chương trình đào tạo chuẩn, liên thông, xác định phần nội dung đại 
cương, chuyên ngành, chuyên đề, chuyên biệt phù hợp, hiện đại đảm bảo chương trình 
đào tạo chuẩn cả bề rộng lẫn bề sâu và có sự cho phép tích hợp % đặc thù của mỗi 
vùng miền. 
- Chuẩn hóa dần đội ngũ giảng viên, nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn 
thông qua các đợt tập huấn tại các nước phát triển có kinh nghiệm về lĩnh vực CTXH và 
32 
nghiên cứu trong và ngoài nước. Ðể công tác đào tạo và đào tạo lại có kết quả cần tổ 
chức nhiều loại hình đào tạo khác nhau. Những cán bộ trẻ cần đưa đi đào tạo các khoá 
chính quy tập trung cả trong nước lẫn ngoài nước nhằm chính quy hoá. Rà soát lại đội 
ngũ đang giảng CTXH tại tất cả các cơ sở, phân loại đội ngũ cán bộ, giảng viên này 
theo chuyên môn đào tạo và theo năng lực thực tế để có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại 
phù hợp với yêu cầu thực tế đang đặt ra. 
- Cần đổi mới phương pháp giảng dạy từ truyền thống sang hiện đại, tích cực 
hóa sự tham gia tự giác, chủ động của người học. Cần có những môi trường học có đủ 
các phương tiện hiện đại phục vụ học tập. Hỗ trợ cho việc dịch các tài liệu nước ngoài, 
nhất là các tài liệu chuyên ngành, tham khảo cho thực tập ở cơ sở nhằm tích lũy kinh 
nghiệm và thực hành những kỹ năng cho người học. 
- CTXH không phải là Xã hội học, mà là một khoa học “cận ngành – nhóm 
ngành”, không trùng khớp mà chỉ có mối quan hệ khăng khít với Xã hội học mà thôi. Là 
một khoa học độc lập, CTXH có đối tượng riêng, có phương pháp riêng, cách tiếp cận 
riêng một chuyên ngành đào tạo. 
- Cũng không nên coi CTXH như hoạt động từ thiện, nhân đạo hay là sự làm 
phúc, ban ơn, cưu mang, theo đó nhấn mạnh các chuẩn mực đạo đức, luân lý, tín 
ngưỡng, tôn giáo để vô hình chung làm lu mờ đi tính khoa học và ý nghĩa thực tiễn 
của nó. 
- Hiện nay, tuy CTXH chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, nhưng 
viễn cảnh khoa học này đã thực sự có một vị thế trong danh mục các nghề đào tạo và 
trong đời sống xã hội. Trong tương lai, chắc chúng ta phải có trường đào tạo về CTXH 
(School of Social Work) và Hiệp hội Công tác xã hội Việt Nam và hòa mạng quốc tế. 
- Xúc tiến việc thành lập câu lạc bộ nghề nghiệp trong các cơ sở đào tạo, qua đó 
thực hiện các chương trình cải tiến phương pháp và nội dung đánh giá kết quả học tập, 
khuyến khích nghiên cứu khoa học trong sinh viên. Tổ chức các buổi giới thiệu sách 
mới vừa xuất bản cho sinh viên... và lên chương trình hoạt động tình nguyện xã hội. 
- Tăng cường tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học mở ra mối quan hệ và gặp gỡ 
để có cơ hội các nhà khoa học cùng nhau trao đổi, nhìn nhận, đánh giá điểm mạnh, chỗ 
yếu của chất lượng đào tạo, nghiên cứu, cũng như đội ngũ và chiến lược nhân lực, 
những chuyên gia tương lai ngành CTXH của nước nhà. 
3. Thay lời kết 
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập, 
hợp tác, cạnh tranh và nền kinh tế tri thức cùng với Khoa học Xã hội Nhân văn nói 
chung, hay các ngành cận kề như Xã hội học, Chính sách xã hội, CTXH cũng phải góp 
phần vào việc tăng hàm lượng tri thức trong các chính sách xã hội, trong các chương 
trình và dự án phát triển cộng đồng và quốc gia. Ðể nâng cao chất lượng các cơ sở đào 
33 
tạo, tăng cường vai trò của CTXH trong đời sống xã hội, cần tiếp tục tiêu chuẩn hóa 
toàn diện những điểm như phân tích ở trên. Muốn lớn mạnh, con đường đi tới là xây 
dựng mạng lưới nghề nghiệp. Qua đó liên kết, chia sẻ trong giảng dạy, giáo trình, sách 
giáo khoa, kết quả nghiên cứu khoa học, trong đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ, 
cũng như liên kết, liên thông và trao đổi sinh viên, giáo viên để tạo cơ hội phát triển, trở 
thành một lực lượng nghề khoa học và chuyên nghiệp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Ðình Bách, Ðổi mới hoàn thiện chính sách, Nxb. Quốc gia, Hà Nội 1993. 
2. Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên), Công tác xã hội ở miền Trung Việt Nam, Nxb. Thuận 
Hóa, Huế 2007. 
3. Phạm Xuân Nam, Ðổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp, Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội 1997. 
4. Trần Nhâm, Có một Việt Nam như thế - Ðổi mới và phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội, 1997. 
5. Nguyễn Thị Oanh, Mấy vấn đề phát triển xã hội, Khoa Phụ nữ học, Trường Đại học 
Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh 1994. 
6. Trung tâm Khoa học và Nhân văn Quốc gia, Luận cứ khoa học cho việc đổi mới, 
Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX 04, Hà Nội, 1994. 
7. Bùi Ðình Thanh, Chính sách xã hội: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Chương trình 
KHCN cấp Nhà nước KX- 04, Hà Nội, 1993. 
8. Trường Đại học Lao động Xã hội – Cơ sở 2, Đào tạo ngành Công tác xã hội: Nhân tố 
phát triển bền vững, Kỷ yếu ngày Công tác xã hội Thế giới, Tp. Hồ Chí Minh, 2010. 
9. Lê Văn Phú, Nhập môn Công tác xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004. 
10. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Tài liệu bồi dưỡng Công tác xã hội cho cán bộ cơ 
sở, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2007. 
TRAINING OF AND RESEARCH ON SOCIAL WORK IN VIETNAM – 
REVIEW AND PROSPECTS 
Tran Xuan Binh 
College of Sciences, Hue University 
Abstract. Social Work is one of the sciences which have been established in 
occupational systems in Vietnam recently. Despite the new areas, its training needs, 
research and social activities have been essential, diversified and abundant. Most 
34 
Universities (even private Universities) and Intermediate Colleges from the North 
to the South have opened departments of Social Work. In fact, the training, 
research, teaching and cooperation on social work at all levels as well as in all the 
training institutions in our country are still inadequate. The comprehensive view on 
the program, teaching staff, documentaries, curriculum, innovative methods and 
connection sharing in training and research at national and international levels is 
necessary and vital for the prospects of this science. 

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_va_nghien_cuu_cong_tac_xa_hoi_o_viet_nam_nhin_lai_va.pdf