An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ở Việt Nam hiện nay

1. Nguyên nhân thúc đẩy dòng người

lao động di cư từ nông thôn ra đô thị

Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, quá trình

đô thị hóa diễn ra nhanh chóng ở Việt

Nam, nông thôn thu hẹp dần, số lượng

nông dân không còn đất sản xuất và

thiếu việc làm ở nông thôn tăng cao, với

dân số đô thị tăng nhanh, diện tích đô thị

được mở rộng; tỷ lệ dân số đô thị tăng

từ 18,5% tổng dân số (TDS) năm 1990,

lên đến 25% TDS năm 2003, và đến

năm 2010, dân số đô thị khoảng hơn

30% TDS. Trong khoảng 30 năm, dân

số đô thị đã tăng lên 2,6 lần. Cùng với

quá trình gia tăng dân số đô thị là quá

trình mở rộng nhanh chóng diện tích đô

thị. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, diện

tích đô thị ở Việt Nam đã tăng từ 630

km2 năm 1995 lên 1380 km2 vào năm

2000 (tăng 2,2 lần trong 5 năm), dự kiến

tăng lên tới 2430 km2 vào năm 2010

(tăng 3,9 lần trong 15 năm) và tăng lên

tới 4600 km2 vào năm 2020. Theo Định

hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ

thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và

tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết

định số 445/QĐ-TTg ngày 07/04/2009,

đến năm 2015 tỷ lệ đô thị cả nước là

38%, đến năm 2020 là 45% (tương

đương với dân số đô thị khoảng 50 triệu

người); đến năm 2025 là 50%. Quá trình

tăng trưởng về kinh tế và đô thị hóa đi

liền với sự phân hóa và chênh lệch mức

sống về cơ hội việc làm và cơ hội tiếp

cận dịch vụ xã hội giữa các khu vực,

vùng miền gia tăng, nhất là giữa khu

vực nông thôn và đô thị.

Đô thị hóa nhanh tạo ra điều kiện và

cơ hội việc làm ngày càng nhiều hơn ở

khu vực đô thị, trong khi ở khu vực nông

thôn đang thừa rất nhiều lao động. Đó là

những yếu tố quan trọng thúc đẩy mạnh

mẽ dòng lao động di cư từ nông thôn ra

đô thị - một trong những dòng di cư

chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các dòng di

cư chủ yếu hiện nay ở Việt Nam.

pdf 10 trang yennguyen 960
Bạn đang xem tài liệu "An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ở Việt Nam hiện nay

An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ở Việt Nam hiện nay
An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ... 
 51 
AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG DI CƯ 
TỪ NÔNG THÔN RA ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
DƯƠNG CHÍ THIỆN* 
1. Nguyên nhân thúc đẩy dòng người 
lao động di cư từ nông thôn ra đô thị 
Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, quá trình 
đô thị hóa diễn ra nhanh chóng ở Việt 
Nam, nông thôn thu hẹp dần, số lượng 
nông dân không còn đất sản xuất và 
thiếu việc làm ở nông thôn tăng cao, với 
dân số đô thị tăng nhanh, diện tích đô thị 
được mở rộng; tỷ lệ dân số đô thị tăng 
từ 18,5% tổng dân số (TDS) năm 1990, 
lên đến 25% TDS năm 2003, và đến 
năm 2010, dân số đô thị khoảng hơn 
30% TDS. Trong khoảng 30 năm, dân 
số đô thị đã tăng lên 2,6 lần. Cùng với 
quá trình gia tăng dân số đô thị là quá 
trình mở rộng nhanh chóng diện tích đô 
thị. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, diện 
tích đô thị ở Việt Nam đã tăng từ 630 
km2 năm 1995 lên 1380 km2 vào năm 
2000 (tăng 2,2 lần trong 5 năm), dự kiến 
tăng lên tới 2430 km2 vào năm 2010 
(tăng 3,9 lần trong 15 năm) và tăng lên 
tới 4600 km2 vào năm 2020. Theo Định 
hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ 
thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và 
tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết 
định số 445/QĐ-TTg ngày 07/04/2009, 
đến năm 2015 tỷ lệ đô thị cả nước là 
38%, đến năm 2020 là 45% (tương 
đương với dân số đô thị khoảng 50 triệu 
người); đến năm 2025 là 50%. Quá trình 
tăng trưởng về kinh tế và đô thị hóa đi 
liền với sự phân hóa và chênh lệch mức 
sống về cơ hội việc làm và cơ hội tiếp 
cận dịch vụ xã hội giữa các khu vực, 
vùng miền gia tăng, nhất là giữa khu 
vực nông thôn và đô thị. 
Đô thị hóa nhanh tạo ra điều kiện và 
cơ hội việc làm ngày càng nhiều hơn ở 
khu vực đô thị, trong khi ở khu vực nông 
thôn đang thừa rất nhiều lao động. Đó là 
những yếu tố quan trọng thúc đẩy mạnh 
mẽ dòng lao động di cư từ nông thôn ra 
đô thị - một trong những dòng di cư 
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các dòng di 
cư chủ yếu hiện nay ở Việt Nam. 
2. Vài nét về người lao động di cư 
từ nông thôn ra đô thị(*) 
2.1. Qui mô 
Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra 
dân số và nhà ở năm 1999: Việt Nam có 
khoảng 4,5 triệu người di cư (chiếm 
khoảng 6,5% dân số), trong đó có 53% 
di cư đến đô thị (27% di cư từ nông thôn 
ra đô thị và 26% di cư từ đô thị đến đô 
thị). Số lượng di cư này (chưa bao gồm 
các hình thái di cư ngắn hạn, di cư theo 
thời vụ và di cư con lắc). Kết quả của 
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 
2009 cho biết: Việt Nam có khoảng 6,6 
(*) Tiến sỹ, Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 52 
triệu người di cư (chiếm khoảng 7,7% 
dân số), tăng khoảng 2,1 triệu người di 
cư so với năm 1999. Trong đó có 
khoảng 32% người di cư từ nông thôn ra 
các đô thị, (chưa bao gồm các hình thái 
di cư ngắn hạn, di cư theo thời vụ và di 
cư con lắc). Nếu tính cả số người di cư 
theo hình thái di cư thời vụ, di cư con 
lắc, di cư ngắn hạn, thì số lượng lao 
động di cư nông thôn – đô thị sẽ chiếm 
số lượng và tỷ lệ lớn hơn nhiều (dự đoán 
khoảng trên 50%). 
2.2. Nơi đến chủ yếu 
Nơi đến chủ yếu của dòng lao động di 
cư từ nông thôn ra đô thị trong khoảng 
20 năm gần đây chủ yếu tập trung ở một 
số thành phố lớn có tốc độ đô thị hóa 
nhanh, có mức tăng trưởng kinh tế cao, 
cụ thể như Thành phố Hồ Chí Minh 
(31%, thậm chí 50% dân số (DS) là 
người di cư trong 7/24 quận/huyện), Hà 
Nội (10% DS), Đà Nẵng (6,4% DS), ... 
Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 
dân số di cư đã làm tăng gấp đôi tổng 
dân số của 2 thành phố này. Theo thống 
kê của Quỹ Dân số Liên hợp quốc 
(UNFPA), năm 2005 người di cư nông 
thôn ra đô thị chiếm tới 1/3 dân số của 
Thành phố Hồ Chí Minh và 1/10 dân số 
của Hà Nội. 
Riêng thành phố Hà Nội, có tới 26.729 
hộ (106.458 người) chiếm tới 3,2% dân 
số Hà Nội cũ là người các tỉnh về Hà 
Nội mua nhà để cư trú và làm ăn sinh 
sống ổn định (có đăng ký tạm trú dài 
hạn, gọi là diện KT3); có 2.717 hộ 
(81.939 người) chiếm 2,8% dân số Hà 
Nội cũ là người các tỉnh về Hà Nội thuê 
nhà trọ, ở nhờ để làm việc ngắn ngày 
trong các doanh nghiệp, hoặc làm nghề 
tự do không ổn định (có đăng ký tạm trú 
ngắn hạn, gọi là diện KT 4); có 116.430 
người chiếm khoảng 4% dân số Hà Nội 
cũ là các học sinh, sinh viên các tỉnh về 
thuê nhà tạm trú để đi học. Ngoài ra, còn 
có khoảng từ 5.000 đến 10.000 người 
tạm trú vãng lai tại các nhà trọ rẻ tiền để 
làm việc theo thời vụ tại Hà Nội (thường 
không đăng ký tạm trú, gọi là diện KT0). 
Nơi thu hút nhiều người di cư nhất, 
chẳng hạn như Thành phố Hồ Chí 
Minh với tỷ suất di cư thuần là 116%, 
Đà Nẵng là 77,9%, Đồng Nai là 64,4% 
và Hà Nội là 50%. Có lẽ trường hợp 
đặc thù nhất là tỉnh Bình Dương với tỷ 
suất di cư thuần lên tới 341,7% do có 
một số lượng lớn các khu công nghiệp 
đóng ở đây. 
2.3. Một số đặc trưng chủ yếu của 
người lao động di cư từ nông thôn ra 
đô thị 
Di cư để nhằm mục đích chính tìm 
kiếm việc làm, lao động kiếm sống, tăng 
thu nhập và cải thiện cuộc sống. Bởi ở 
khu vực nông thôn đang rất thiếu việc 
làm, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp 
thấp, tỷ lệ nghèo đói cao; trong khi ở 
khu vực đô thị có nhiều cơ hội tìm được 
việc làm hơn, họ có thể cải thiện tình 
trạng nghèo khổ, mặc dù mức thu nhập 
của họ có thể thấp hơn so với người dân 
thành phố, nhưng cũng còn cao hơn thu 
nhập mà họ có thể thu được từ sản xuất 
nông nghiệp. Cụ thể, ở Thành phố Hồ 
Chí Minh, các nguyên nhân di cư: lý do 
kinh tế chiếm đến 79,7%; lý do hợp lý 
hóa/ xây dựng gia đình chỉ chiếm 10%; 
lý do học tập chỉ chiếm 5,1%. 
An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ... 
 53 
Phần lớn họ thuộc nhóm dân cư trẻ 
(18 - 30 tuổi). Đây là lực lượng lao động 
năng động nhất. Lý do chính khiến họ di 
cư ra đô thị là tìm kiếm việc làm. Tổng 
cục Thống kê nhận định, trong số lao 
động di cư, có tới 2/3 là lao động trẻ 
(15-19 tuổi). Tỷ lệ theo nhóm tuổi của 
lao động di cư đến Thành phố Hồ Chí 
Minh ở nhóm 20-24 tuổi chiếm đến 
39,2%, ở nhóm 25-29 tuổi chiếm 22,6% 
và ở nhóm 30-34 tuổi chiếm 13,1%. Đây 
là 3 nhóm đại diện cho nguồn nhân lực 
trẻ, trong đó lượng người nhập cư đang 
có xu hướng trẻ hóa, nhất là nhóm 20-24 
tuổi chiếm đến 39,2%. 
Đa số lao động di cư từ nông thôn ra 
đô thị chủ yếu là cá nhân, không di 
chuyển cùng gia đình. Một phần trong 
số họ chưa lập gia đình. Đối với những 
người đã lập gia đình, phần nhiều họ di 
cư một mình, không mang theo vợ (hoặc 
chồng) và con cái; gia đình họ vẫn ở tại 
nơi xuất cư. Trong số những người nhập 
cư đến Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ 
người nhập cư độc thân chiếm 51,4%, 
người nhập cư đã có gia đình chiếm 
46,2%. Có một tỷ lệ rất thấp người di cư 
đến Thành phố Hồ Chí Minh cùng với 
cả gia đình. Trong những người lao động 
di cư từ nông thôn ra đô thị, thì tỷ lệ nữ 
chiếm tới 54% và tỷ lệ nam là 46%. 
3. Thực trạng an sinh xã hội 
Hệ thống an sinh xã hội chính thức 
hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu 
mới về an sinh xã hội và nhất là chưa 
bao phủ được hết tất cả các nhóm dân số 
mới trong quá trình phát triển kinh tế - 
xã hội. Theo nhận định của Viện Khoa 
học lao động và Xã hội, Bộ Lao động, 
Thương binh và Xã hội, hệ thống an 
sinh xã hội chính thức hiện nay của Việt 
Nam còn có một số vấn đề lớn đang đặt 
ra cần phải giải quyết là: độ bao phủ của 
hệ thống an sinh xã hội hiện hành còn 
khiêm tốn; hệ thống chính sách chưa 
đầy đủ; hiệu quả thực hiện một số chính 
sách chưa cao; chất lượng cung cấp một 
số dịch vụ chưa đáp ứng yêu cầu; một 
bộ phận các đối tượng dễ bị tổn thương 
khó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; 
nguồn tài chính đảm bảo an sinh xã hội 
chưa đảm bảo để hỗ trợ mọi người dân 
có mức sống tối thiểu; chưa phát huy và 
huy động được hết tiềm năng của các 
đối tác xã hội trong tham gia thực hiện 
An sinh xã hội. Điều đó đòi hỏi phải xây 
dựng một hệ thống an sinh xã hội mới, 
đáp ứng được các nhu cầu và bao phủ 
được tất cả các nhóm dân cư, trong đó 
có nhóm người lao động di cư từ nông 
thôn ra đô thị. 
Các nghiên cứu và số liệu thống kê 
đều cho thấy, đa số lao động di cư không 
tham gia và không được hưởng bảo hiểm 
xã hội (hưu trí, y tế và thất nghiệp). Gần 
như toàn bộ (99%) lao động di cư không 
có bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm tai nạn 
lao động. Hầu hết lao động di cư tự do 
không có bảo hiểm thất nghiệp. Phần lớn 
lao động di cư từ nông thôn ra thành phố 
không có bảo hiểm y tế, mà nếu có thì 
cũng rất khó khăn trong việc tiếp cận hệ 
thống khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y 
tế. Cụ thể, ở Thành phố Hồ Chí Minh, 
kết quả điều tra cho thấy, có tới 59,2% số 
lượng người di cư đến Thành phố Hồ 
Chí Minh không có bảo hiểm y tế, trong 
đó tỷ lệ nữ chiếm 52,6% tổng số nữ di cư 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 54 
và nam giới chiếm 68,5% tổng số nam di 
cư không có thẻ bảo hiểm y tế. 
Hầu hết lao động di cư không có và 
không được hưởng các chế độ bảo hiểm 
dành cho người lao động (tai nạn lao 
động, thai sản, nghỉ ốm, bệnh nghề 
nghiệp...) tại nơi họ làm việc. Có khoảng 
70% lao động di cư không được hưởng 
bất cứ hình thức phúc lợi xã hội nào tại 
nơi làm việc. 
Hầu như lao động di cư chưa bao giờ 
được khám chữa bệnh hoặc kiểm tra sức 
khỏe định kỳ theo các chế độ an sinh xã 
hội chính thức. Khoảng 95% lao động di 
cư chưa bao giờ được đi khám chữa 
bệnh hoặc kiểm tra sức khỏe định kỳ. 
Phần lớn các chương trình, dự án hỗ 
trợ chính thức của Nhà nước (như các 
chương trình hỗ trợ giảm nghèo, đào 
tạo nghề, tìm việc làm, cứu trợ xã hội 
khi gặp rủi ro, tổn thương, v.v.) chỉ mới 
được thực hiện ở các cơ sở kinh tế 
thuộc khu vực chính thức ở các thành 
phố; còn những người lao động di cư từ 
nông thôn ra thành phố đều không thể 
tiếp cận và không được hưởng lợi từ 
các chương trình, dự án an sinh xã hội 
chính thức này. 
Thực trạng trên chỉ ra rằng: tuyệt đại 
đa số người lao động di cư từ nông thôn 
ra đô thị đang không được hưởng lợi từ 
hệ thống an sinh xã hội chính thức của 
Nhà nước. 
4. Các yếu tố liên quan đến an sinh 
xã hội 
Phần lớn những người lao động di cư 
từ nông thôn ra đô thị phải chấp nhận 
làm nhiều việc làm nặng nhọc, độc hại, 
trong điều kiện tồi tệ, bằng sức lao động 
giản đơn (làm thuê trong các công 
trường xây dựng, các cơ sở tái chế nhựa, 
may mặc, da giày, bán hàng rong, giúp 
việc gia đình, v.v... Cụ thể, trong số 
những lao động ngoại tỉnh nhập cư vào 
Hà Nội: 19,1% lao động di cư làm việc 
trong các cơ sở sản xuất rất nhỏ (dưới 
10 lao động), trong các tổ sản xuất tư 
nhân (như xây dựng, giày da, may mặc, 
sản xuất đồ nhựa...); 8,8% lao động di cư 
làm việc tạm tuyển trong các doanh 
nghiệp nhà nước; 13,0% lao động di cư 
làm phục vụ trong các nhà hàng, buôn 
bán rong, giúp việc gia đình, ...; 46,5% 
lao động di cư làm thuê tự do (xe ôm, 
bốc vác thuê ở các chợ, đào và đổ đất cát, 
hoặc ai thuê việc gì làm việc đó, v.v.). 
Nhìn vào số liệu trên, có thể thấy lao 
động di cư từ nông thôn ra đô thị ở Hà 
Nội đang phải chấp nhận những công việc 
mà người dân bản địa ít muốn làm. Đó 
thường là những công việc nặng nhọc, 
độc hại, không ổn định. Rất ít người được 
làm việc chính thức trong các doanh 
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp sản xuất - 
kinh doanh có qui mô lớn. 
Số liệu nghiên cứu ở Thành phố Hồ 
Chí Minh cũng cho thấy, tỷ lệ người di 
cư làm việc chủ yếu trong các loại hình 
kinh tế cá thể, các doanh nghiệp rất nhỏ 
(tiểu chủ) chiếm 35,1% và các doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 
30,9%, còn lại 27,4% làm việc trong các 
doanh nghiệp tư nhân nhỏ, trong khi đó 
ở khu vực nhà nước chỉ 5,7%. Các 
nghiên cứu về lao động di cư từ nông 
thôn ra các đô thị khác thời gian qua 
cũng cho thấy rằng, những người lao 
động di cư chủ yếu làm việc trong các 
An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ... 
 55 
cơ sở kinh tế thuộc khu vực phi chính 
thức, nhỏ lẻ (như các cơ sở kinh tế tư 
nhân có qui mô sản xuất kinh - doanh 
rất nhỏ, dưới 10 lao động); chỉ có một tỷ 
lệ rất nhỏ (khoảng từ 5 đến 10%) may 
mắn tìm được việc làm tạm thời trong 
các doanh nghiệp nhà nước. 
Một số nghiên cứu tại Thành phố Hồ 
Chí Minh cho thấy, có tới 58% nam giới 
lao động di cư chưa có hợp đồng lao 
động. Những lao động này chủ yếu làm 
việc ở các cơ sở kinh tế thuộc khu vực 
phi chính thức, nhỏ lẻ. Tại các khu công 
nghiệp, 80% nữ giới đã có hợp đồng lao 
động. Hợp đồng lao động là cơ sở pháp 
lý quan trọng để người lao động có thể 
tiếp cận tới bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y 
tế, bảo hiểm thất nghiệp và các hình 
thức hoặc chế độ bảo trợ xã hội chính 
thức khác dành cho người lao động theo 
luật định. Theo ủy ban Các vấn đề xã 
hội của Quốc hội, ở những nơi không có 
hợp đồng lao động, người sử dụng lao 
động thường không cảm thấy có nghĩa 
vụ phải cung cấp bảo hiểm xã hội và 
bảo hiểm y tế cho những người được 
tuyển dụng dựa trên hợp đồng bằng 
miệng hoặc hợp đồng không chính thức. 
Mặt khác, với những lao động di cư đã 
có hợp đồng lao động thì chủ sử dụng 
lao động thường trốn tránh thực hiện 
bảo hiểm xã hội (BHXH) và các phúc 
lợi xã hội đối với người lao động trong 
các cơ sở đó. Chính các yếu tố đó đã 
dẫn đến làm cho những người lao động 
di cư từ nông thôn ra đô thị không thể 
có bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp 
và không được hưởng lợi từ các chế độ, 
chính sách hỗ trợ, cứu trợ xã hội chính 
thức của Nhà nước. 
Phần lớn lao động di cư từ nông thôn 
ra đô thị do có trình độ học vấn thấp, 
trình độ tay nghề thấp, lại làm những 
công việc thuộc khu vực phi chính thức 
là chủ yếu, nên họ có thu nhập thấp và 
không ổn định (có thể bị mất việc làm 
bất cứ lúc nào). Chẳng hạn, các nghiên 
cứu ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: 
thu nhập bình quân khoảng 985.000đ/tháng 
đối với người lao động di cư ở độ tuổi 
15-29, 1.304.000đ/tháng đối với người 
lao động di cư ở độ tuổi 30 - 44 và 
1.100.000đ/tháng đối với người lao 
động di cư ở độ tuổi 45 - 59. Với mức 
thu nhập và mức sống thấp như trên, 
lao động di cư từ nông thôn ra đô thị 
kiếm sống cũng khó có thể bảo đảm an 
sinh cho mình trước những thách thức, 
áp lực của bản thân và gia đình họ. Họ 
trở thành nhóm dân cư rất dễ bị tổn 
thương và rủi ro trước những biến cố 
của cuộc sống. 
Điều kiện nhà ở của người lao động 
cũng được xem là một yếu tố quan trọng 
của an sinh xã hội đối với nhóm đối 
tượng này. Đa số họ phải sống trong 
những khu nhà trọ rẻ tiền, với điều kiện 
ở tạm bợ và tồi tệ (thiếu điện, thiếu nước 
sạch, điều kiện vệ sinh kém...). Có 48% 
người trả lời cho biết, trong số những 
khó khăn chính của lao động nhập cư là 
vấn đề nhà ở. Những người nhập cư vào 
Hà Nội thường phải thuê ở trong các 
khu nhà trọ rẻ tiền, như các khu nhà tập 
thể đã quá cũ nát, hoặc khu nhà trọ ven 
sông Hồng, thậm chí họ còn phải ở ngay 
tại nơi làm việc (các công trường xây 
dựng, các cơ sở sản xuất tư nhân ...). 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 56 
Ở các khu vực đó, điều kiện ở rất thiếu 
thốn (diện tích chật chội, thiếu ánh sáng, 
thiếu nước sạch, thiếu thoáng mát); điều 
kiện vệ sinh môi trường kém (gần nơi 
đổ rác thải, cống rãnh thoát nước thải, 
nhiều mùi hôi và ô nhiễm môi trường 
nặng nề). Điều này dẫn đến việc người 
lao động rất dễ bị tổn thương và chịu 
nhiều tác động tiêu cực về sức khỏe (cả 
sức khỏe vật chất và tinh thần). Phần 
lớn họ không có bảo hiểm y tế, không 
được hưởng những phúc lợi về chăm 
sóc sức khỏe tại nơi làm việc, họ không 
thể hoặc rất khó tiếp cận với hệ thống 
an sinh xã hội về y tế và chăm sóc sức 
khỏe từ phía Nhà nước dành cho các 
những người lao động. 
Hệ thống phân loại dân cư theo hộ 
khẩu hiện nay vẫn còn tồn tại, mặc dù có 
sự nới lỏng hơn từ năm 2006 – 2007. 
Trong khi đó, những người lao động di 
cư từ nông thôn ra đô thị hiện nay vẫn 
chỉ thuộc diện hộ khẩu KT3, KT4 và 
KT0; với hộ khẩu đó họ vẫn bị phân biệt 
đối xử về vị thế xã hội và vị thế pháp lý 
so với nhóm lao động bản địa. Cùng với 
hệ thống phân loại theo hộ khẩu như 
trên, các loại dịch vụ công mang tính 
chất an sinh xã hội (như cung cấp nhà ở, 
điện, nước sạch, điện thoại, giáo dục, y tế 
và chăm sóc sức khỏe...) vẫn đang dựa 
trên hệ thống phân loại theo hộ khẩu này. 
Điều đó tạo ra sự bất bình đẳng nghiêm 
trọng giữa những lao động nhập cư từ 
nông thôn ra đô thị so với người dân bản 
địa. Và đặc biệt hơn nữa là, phương thức 
thực hiện an sinh xã hội chính thức dựa 
trên cơ sở phân loại theo hộ khẩu đang 
tồn tại là một yếu tố quan trọng làm cho 
những người lao động di cư tự do từ 
nông thôn ra đô thị rất khó khăn (hoặc 
không thể) tiếp cận được với những 
chương trình, dự án, chế độ, chính sách 
an sinh xã hội chính thức của Nhà nước. 
Gần như 100% những người lao động 
di cư từ nông thôn ra đô thị không tham 
gia và không muốn tham gia vào các 
hoạt động của cơ quan chính quyền, các 
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội 
tự nguyện tại nơi đến (đô thị). Lý do chủ 
yếu của họ đưa ra là phải lao động kiếm 
sống suốt ngày, không có thời gian tham 
gia, hoặc không có tiền để tham gia 
đóng góp cho các tổ chức trên. Chính 
quyền và các tổ chức chính trị - xã hội 
tại địa phương lại là nơi thực hiện các 
chương trình an sinh xã hội chính thức. 
Vì thế, hai yếu tố này đã dẫn đến việc 
người lao động di cư từ nông thôn ra đô 
thị dường như bị bỏ rơi khỏi những 
chương trình, dự án, chính sách an sinh 
xã hội chính thức từ phía Nhà nước. 
Cuộc sống nơi đô thị đầy những khó 
khăn, thách thức, rủi ro, bất trắc, dễ bị 
tổn thương đối với người lao động di cư 
từ nông thôn ra đô thị. Vì thế, nhu cầu 
an sinh xã hội là rất lớn và thực sự cần 
thiết đối với họ. 
5. Nhu cầu về an sinh xã hội 
Những phân tích trên cho thấy, những 
người lao động di cư từ nông thôn ra đô 
thị hiện nay đang có nhu cầu được bảo 
đảm từ hệ thống an sinh xã hội chính 
thức. Những lĩnh vực quan trọng về an 
sinh xã hội đối với nhóm dân cư này qua 
các nghiên cứu như sau: 
- Việc làm và thu nhập: Nhu cầu cần 
có việc làm và dễ dàng tiếp cận được 
An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ... 
 57 
việc làm, có được thu nhập (trả công) 
một cách công bằng và ổn định như 
những công dân khác đang sinh sống ở 
các đô thị. 
- Giáo dục: Nhu cầu cần được học tập, 
đào tạo nghề và con cái được đi học, được 
bình đẳng như mọi nhóm dân cư khác. 
- Y tế: Nhu cầu được tiếp cận với hệ 
thống bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh 
tại nơi đang cư trú và làm việc. 
- Nhà ở: Nhu cầu về nhà ở với các 
điều kiện sống an toàn, ổn định, đảm 
bảo vệ sinh môi trường. 
- Các dịch vụ công (hành chính công, 
điện, nước, thông tin...): Nhu cầu cần được 
tiếp cận với các dịch vụ công một cách 
công bằng, nhanh chóng và thuận tiện. 
- Các hình thức bảo trợ và cứu trợ 
xã hội chính thức (bảo trợ, trợ giúp, trợ 
cấp, giúp đỡ, cứu trợ...): Nhu cầu cần 
được tiếp cận với hệ thống bảo trợ và 
cứu trợ xã hội chính thức khi gặp rủi ro 
từ phía chính quyền địa phương, các tổ 
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã 
hội tự nguyện và nhất là từ các doanh 
nghiệp, các chủ sử dụng lao động. 
Các nhu cầu chủ yếu nêu trên chỉ có 
thể được giải quyết dựa trên cơ sở xóa 
bỏ những rào cản, khó khăn, thách 
thức từ phía hệ thống các văn bản pháp 
luật, chính sách và chế độ của Nhà 
nước, của các doanh nghiệp, chính 
quyền địa phương, cộng đồng và các tổ 
chức xã hội. 
6. An sinh xã hội phi chính thức 
Nhóm lao động di cư từ nông thôn ra 
đô thị thực tế đang gặp nhiều khó khăn, 
rào cản, thách thức để có thể tiếp cận 
với hệ thông an sinh xã hội chính thức 
từ phía Nhà nước (các cấp). Bởi vậy, 
muốn bảo đảm cuộc sống tối thiểu nơi 
thànhh phố, họ phải dựa vào hệ thống an 
sinh xã hội phi chính thức là chủ yếu. 
Đó là những hình thức, phương thức 
giúp đỡ, hỗ trợ, cụ thể như sau: 
· Tự lo cho bản thân: Tự lo cho 
mình là yếu tố quan trọng nhất đối với 
người lao động di cư từ nông thôn ra đô 
thị. Bằng chứng là, chỉ có khoảng 1/3 số 
lao động di cư từ nông thôn ra đô thị có 
nhận được sự trợ giúp, còn lại 2/3 số lao 
động tự lo cho bản thân. Họ tự lo tìm 
kiếm việc làm, nhà ở, vốn kinh doanh, 
tự chăm sóc sức khỏe, tự học hỏi kinh 
nghiệm và kỹ năng sống, v.v... Ở nơi đô 
thị. Có như vậy họ mới có thể tồn tại 
được trong môi trường mới. 
· Dựa vào mạng lưới di cư: Trong 
cuộc sống hàng ngày, tự lo cho mình cũng 
không thể giải quyết được tất cả các khó 
khăn. Vì vậy, bên cạnh các nỗ lực của bản 
thân, thì những người lao động di cư từ 
nông thôn ra đô thị dựa chủ yếu vào mạng 
lưới di cư (anh em, họ hàng, người cùng 
quê, ...). Thông qua đó, họ có thể tư vấn, 
giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau tìm kiếm việc 
làm, nhà ở, cho nhau vay vốn, truyền đạt 
những kỹ năng và kinh nghiệm sống, giúp 
đỡ lẫn nhau khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh 
tật, nuôi dạy con cái, v.v.. 
An sinh xã hội phi chính thức được thể 
hiện cụ thể qua các hình thức sau đây: 
- Mạng lưới anh em, bạn bè, họ 
hàng, người thân quen cùng địa phương 
nơi xuất cư di cư lên thành phố: Các kết 
quả phân tích định tính cho thấy, những 
lao động từ nông thôn ra đô thị chủ yếu 
dựa vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của chính 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 58 
những người lao động di cư từ nông 
thôn ra đô thị cùng với nhau. Biểu hiện 
cụ thể hơn là việc những người ra thành 
phố trước thường trở về rủ thêm anh em, 
bạn bè cùng thôn xóm, hoặc cùng địa 
phương lên thành phố kiếm sống. Họ hỗ 
trợ tìm việc làm, chỗ ở trọ, cho vay vốn, 
giúp đỡ lẫn nhau lúc ốm đau, bệnh tật; 
hơn nữa họ cùng chia sẻ, động viên lẫn 
nhau trong đời sống tinh thần. Các quan 
hệ xã hội gần gũi (như anh em, họ hàng, 
bạn bè, cùng nơi xuất cư) là yếu tố rất 
quan trọng về an sinh xã hội đối với lao 
động di cư từ nông thôn ra đô thị. Như 
vậy, mạng lưới di cư này là một yếu tố 
có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng 
đối với an sinh xã hội của nhóm lao 
động di cư từ nông thôn ra đô thị nhằm 
bảo đảm cho người lao động vượt qua 
được những khó khăn, thách thức và rủi 
ro (có thể) trong quá trình di cư và mưu 
sinh nơi thành phố. 
- Mạng lưới những người lao động 
cùng làm một công việc và cùng nơi làm 
việc: Bên cạnh các quan hệ đã được 
thiết lập sẵn có đối với những người lao 
động di cư (như các quan hệ anh em, họ 
hàng, bạn bè, người thân quen ở cùng 
nơi xuất cư lên thành phố), còn có các 
quan hệ giữa những người lao động di 
cư với nhau họ khác nơi xuất cư, nhưng 
khi lên thành phố họ cùng làm một 
nghề/công việc ở một cơ sở sản xuất 
kinh doanh), cũng như quan hệ giữa 
những lao động di cư với chủ cơ sở sản 
xuất, kinh doanh. Đây được xem như 
một trong những yếu tố không thể thiếu 
của an sinh xã hội đối với nhóm lao 
động di cư từ nông thôn ra đô thị. 
Những lúc lao động di cư gặp khó khăn 
trong cuộc sống, như cần chuyển sang 
những việc làm khác, cần giúp đỡ, chăm 
sóc lúc ốm đau, thậm chí cần vay một 
khoản tiền nào đó, thì mạng lưới an sinh 
xã hội này có thể giúp họ giải quyết 
vượt qua khó khăn và tránh cho họ khỏi 
rơi vào con đường tuyệt vọng trong cuộc 
sống thường ngày. 
- Mạng lưới những người lao động 
cùng nơi ở hàng ngày tại thành phố: 
Một mạng lưới khác đóng vai trò không 
nhỏ đối với những người lao động di cư 
từ nông thôn ra đô thị, đó là các quan hệ 
của họ với những lao động di cư khác có 
cùng một nơi ở hàng ngày, hoặc quan hệ 
với các chủ nhà cho thuê trọ với những 
người hàng xóm xung quanh nơi họ ở. 
Những người lao động cần thiết phải tạo 
lập một mạng lưới các quan hệ này ngày 
càng thân thiện hơn. Bởi từ mối quan hệ 
đó họ có thể nhận được sự giúp đỡ, hỗ 
trợ khi cần thiết. 
7. Một số nhận xét và hàm ý chính sách 
7.1. Nhận xét 
- Lao động di cư từ nông thôn ra đô 
thị hiện nay chưa được bảo đảm cuộc 
sống an toàn; mức độ dễ bị tổn thương 
và rủi ro của họ rất cao. Nhu cầu về an 
sinh xã hội là rất lớn và cấp thiết trên tất 
cả mọi mặt của cuộc sống. 
- Họ chưa tiếp cận được hệ thống an 
sinh xã hội chính thức, đặc biệt là các 
hình thức bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã 
hội chính thức từ phía Nhà nước và các 
tổ chức chính trị - xã hội. 
- Họ chủ yếu dựa vào các hình thức 
an sinh xã hội phi chính thức (tự lo cho 
bản thân và qua mạng lưới di cư). 
An sinh xã hội đối với người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị ... 
 59 
7.2. Một số hàm ý chính sách 
- Bổ sung và thực thi có hiệu quả hệ 
thống chính sách, pháp luật để giảm 
thiểu những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng 
đến người lao động di cư từ nông thôn 
ra đô thị (việc làm, thu nhập, đời sống, 
giáo dục, y tế, nhà ở, ...). 
- Cần thiết phải xây dựng và thực thi 
hệ thống an sinh xã hội chính thức (bảo 
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm 
thất nghiệp và các loại hình trợ giúp xã 
hội ...) để người lao động di cư từ nông 
thôn ra đô thị có thể dễ dàng tiếp cận hệ 
thống này. 
- Liên kết, ràng buộc chặt chẽ giữa 
chính quyền, chủ sử dụng lao động và 
người lao động di cư về hợp đồng lao 
động và BHXH, tăng cường trách 
nhiệm xã hội của các công dân và các 
doanh nghiệp. 
- Xóa bỏ sự phân biệt đối xử và thiếu 
công bằng giữa các nhóm dân cư đang 
sinh sống và làm việc ở thành phố thông 
qua chính sách phân loại hộ khẩu. 
- Không gắn chính sách phân loại hộ 
khẩu với việc tiếp cận các dịch vụ công và 
các loại hình an sinh xã hội chính thức. 
- Tạo môi trường thuận lợi để lao 
động di cư từ nông thôn ra đô thị có thể 
tham gia nhiều hơn và hiệu quả hơn vào 
các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ 
chức xã hội tự nguyện ở thành phố. 
- Cần tạo môi trường xã hội cởi mở 
và thuận lợi hơn để khu vực xã hội dân 
sự phát triển mạnh mẽ và tham gia ngày 
càng nhiều hơn vào lĩnh vực cung cấp an 
sinh xã hội đối với toàn bộ các nhóm dân 
cư khác nhau, đặc biệt là đối với nhóm 
lao động di cư từ nông thôn ra đô thị. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng Cục Thống 
kê (2011), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt 
Nam 2009. Di cư ở Việt Nam: Thực trạng, xu 
hướng và khác biệt, Hà Nội. 
2. Bùi Việt Thành (2011), Di cư nông thôn - 
đô thị: Thách thức và cơ hội cho Thành phố Hồ 
Chí Minh, Đại học Khoa học xã hội và Nhân 
văn Thành phố Hồ Chí Minh. 
3. David Albrecht, Hervé Hocquard, Philippe 
Papin (2010), Chính quyền địa phương trong 
quá trình phát triển đô thị ở Việt Nam, Nxb Tri 
thức, Hà Nội. 
4. Đặng Nguyên Anh (2005), Di dân trong 
nước: vận hội và thách thức đối với công cuộc 
đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Hà Nội. 
5. Đinh Văn Thông (2010), Di dân ngoại tỉnh 
vào TP. Hà Nội: Vấn đề đặt ra và giải pháp, Báo 
cáo tại Hội thảo “Phát triển bền vững Thủ đô Hà 
Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”, Hà Nội. 
6. Lưu Đức Hải (2011), "Các vấn đề ven đô 
và đô thị hóa". Báo cáo tại Hội thảo Khoa học của 
Viện Quy hoạch đô thị nông thôn (Bộ Xây dựng). 
7. Phòng Đô thị Viện Xã hội học (2005), 
Người nhập cư từ nông thôn vào đô thị và 
những vấn đề đặt ra đối với Hệ thống an sinh 
xã hội, Hà Nội. 
8. Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ 
tướng Chính phủ, ngày 07/04/2009 về định 
hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống 
đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 
năm 2050. 
9. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám 
thống kê năm 2010. 
10. Trần Thị Minh Đức (2004), Di cư lao động 
từ nông thôn ra thành phố: Những khía cạnh tâm 
lý xã hội ở người Phụ nữ bán rong, Hà Nội. 
11. Viện Khoa học lao động và xã hội 
(ILSSA), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội 
(2010), Chiến lược an sinh xã hội thời kỳ 2011- 
2020, (Trang thông tin điện tử). 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) - 2013 
 60 

File đính kèm:

  • pdfan_sinh_xa_hoi_doi_voi_nguoi_lao_dong_di_cu_tu_nong_thon_ra.pdf