Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội

Tóm tắt: Bài viết trình bày thực trạng đội ngũ trí thức Thủ đô Hà Nội và những

vấn đề nảy sinh từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí

thức Thủ đô sau gần 30 năm đổi mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải

pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội.

 

pdf 7 trang yennguyen 2800
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội

Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội
 Xõy dựng đội ngũ trớ thức đỏp ứng yờu cầu 
cụng nghiệp húa, hiện đại húa và hội nhập quốc tế 
của Thủ đụ Hà Nội 
Phạm Văn Tân(*) 
Tóm tắt: Bài viết trình bày thực trạng đội ngũ trí thức Thủ đô Hà Nội và những 
vấn đề nảy sinh từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí 
thức Thủ đô sau gần 30 năm đổi mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải 
pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô Hà Nội. 
Từ khóa: Đội ngũ trí thức, Nguồn nhân lực, Hà Nội 
1. Trí thức là lực l−ợng quan trọng 
của xã hội. Theo mọi cách hiểu, trí thức 
đều phải là những ng−ời lao động trí óc, 
có trình độ học vấn đủ sâu về lĩnh vực 
chuyên môn, có năng lực t− duy độc lập, 
sáng tạo, trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra 
những sản phẩm tinh thần và vật chất 
có giá trị cho xã hội.(*) 
Trong suốt quá trình dựng n−ớc và 
giữ n−ớc, cha ông ta luôn trọng thị vai 
trò của trí thức. Quốc gia h−ng vong, 
thất phu hữu trách - đất n−ớc thịnh suy, 
trách nhiệm nặng nề luôn thuộc về các 
bậc hiền tài, kẻ sĩ. Năm 1442, Thân 
Nhân Trung khi viết bài văn cho bia 
tiến sĩ đầu tiên ở Văn Miếu đã khẳng 
định: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, 
nguyên khí thịnh thì thế n−ớc mạnh, rồi 
lên cao, nguyên khí suy thì thế n−ớc 
(*) ThS., Tr−ờng Đại học Công nghệ Giao thông 
vận tải; Email: ducdgtvt@gmail.com 
yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy, các Đấng 
Thánh đế Minh v−ơng chẳng ai không 
lấy việc bồi d−ỡng nhân tài, kén chọn kẻ 
sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu 
tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng 
đại nh− thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ 
không biết thế nào là cùng” (Ban chỉ 
đạo Quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng 
Long, Thành ủy - HĐND - UBND 
Thành phố Hà Nội, 2010, tr.261). 
Đề cao trí thức, coi việc bồi d−ỡng 
nhân tài, kén chọn, sử dụng kẻ sĩ, vun 
trồng nguyên khí quốc gia, do vậy, 
th−ờng là công việc đầu tiên của mọi 
triều đại. Lê Quý Đôn cũng đã khẳng 
định đất n−ớc không thể h−ng thịnh 
đ−ợc nếu thiếu trí thức: Phi nông bất ổn 
/ Phi công bất phú / Phi th−ơng bất 
hoạt/ Phi trí bất h−ng. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 
cuộc đời hoạt động của mình luôn coi 
trọng và có những ph−ơng thức sử dụng 
Xây dựng đội ngũ trí thức 41 
trí thức. Bằng t− t−ởng và nhân cách 
của mình, Ng−ời đã lôi cuốn, thu phục 
đông đảo trí thức đi theo cách mạng và 
đóng góp hết tài năng, trí tuệ của mình 
vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. 
Trong quá trình lãnh đạo cách 
mạng, Đảng ta luôn đánh giá và đề cao 
vai trò của đội ngũ trí thức, đồng thời 
luôn quan tâm xây dựng đội ngũ trí 
thức n−ớc ta vững mạnh đáp ứng yêu 
cầu của cách mạng trong từng thời kỳ. 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban 
chấp hành Trung −ơng (Khóa X) đã 
nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực 
l−ợng lao động sáng tạo đặc biệt quan 
trọng trong tiến trình đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n−ớc và 
hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri 
thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam 
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây 
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là 
trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, 
sức mạnh của đất n−ớc, nâng cao năng 
lực lãnh đạo của Đảng và chất l−ợng 
hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu 
t− xây dựng đội ngũ trí thức là đầu t− 
cho phát triển” (Đảng Cộng sản Việt 
Nam, 2008, tr.91). 
2. Cùng với cả n−ớc, Hà Nội sau gần 
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã 
đạt đ−ợc những thành tựu quan trọng, 
có ý nghĩa to lớn trên tất cả các lĩnh vực: 
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... 
Những thành tựu đó có sự đóng góp tích 
cực của đội ngũ trí thức Thủ đô. Chính 
đội ngũ trí thức Thủ đô đã góp phần 
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo các nghị 
quyết, chủ tr−ơng, chính sách của Đảng 
và pháp luật của Nhà n−ớc vào thực 
tiễn Thủ đô Hà Nội; đề xuất định 
h−ớng, hoạch định chiến l−ợc, xây dựng 
kế hoạch và các giải pháp phát triển 
Thủ đô; đi đầu trong sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập 
quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp 
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của 
Thủ đô Hà Nội. 
Hà Nội là trung tâm chính trị - hành 
chính quốc gia, trung tâm lớn về văn 
hóa, khoa học, giáo dục và công nghệ của 
đất n−ớc, là đầu mối giao th−ơng quốc tế 
quan trọng, đồng thời có vị trí và vai trò 
quan trọng đối với sự phát triển chung 
của cả n−ớc và khu vực. Để đáp ứng yêu 
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội 
nhập quốc tế, Hà Nội cần huy động và sử 
dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt 
cần phát huy cao độ năng lực sáng tạo 
của đội ngũ trí thức - nguồn nhân lực 
chất l−ợng cao của Thành phố. Tuy 
nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn 
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển 
Thủ đô, thì đội ngũ trí thức Thủ đô Hà 
Nội hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất 
cập, đòi hỏi phải có giải pháp để xây 
dựng và phát triển. 
3. Đội ngũ trí thức Thủ đô Hà Nội 
bao gồm nhiều nguồn khác nhau, ngoài 
lực l−ợng công tác tại các cơ sở, ban, 
ngành, các liên hiệp hội, tr−ờng học, báo 
đài, cơ sở sản xuất kinh doanh..., còn có 
lực l−ợng cán bộ khoa học của hơn 80 
viện, trung tâm nghiên cứu và gần 100 
tr−ờng đại học, cao đẳng hoạt động trên 
địa bàn Thành phố. Trong những năm 
qua, đội ngũ trí thức Thủ đô Hà Nội đã 
có sự tăng nhanh về số l−ợng. Nếu nh− 
năm 2003, Hà Nội có hơn 660.000 ng−ời 
có trình độ từ đại học trở lên (Cục thống 
kê Hà Nội, 2009), thì đến năm 2013 con 
số này đã tăng lên 896.560 ng−ời, gồm 
17.360 tiến sĩ, 60.230 thạc sĩ và 
818.970 cử nhân đại học (Cục thống kê 
Hà Nội, 2013). Theo số liệu thống kê, 
hiện nay tổng số cán bộ, công chức 
Thành phố Hà Nội là 112.438 ng−ời, 
42 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 
trong đó trình độ tiến sĩ là 298, thạc sĩ 
3.484, đại học 49.806 và cao đẳng 
23.220 (Nguyễn Đình D−ơng chủ biên, 
2014, tr.358). Tuy có sự tăng nhanh về 
số l−ợng, song so với yêu cầu đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập 
quốc tế, xây dựng Thủ đô văn minh, 
hiện đại thì việc xây dựng và phát huy 
vai trò của đội ngũ trí thức Thủ đô vẫn 
còn một số hạn chế, bất cập. 
Thứ nhất, hạn chế giữa yêu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập 
quốc tế của Thủ đô Hà Nội với khả năng 
đáp ứng yêu cầu của đội ngũ trí thức. 
Số l−ợng và chất l−ợng của đội ngũ 
trí thức ch−a đáp ứng yêu cầu phát 
triển của Hà Nội. Tr−ớc những yêu cầu 
mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô 
Hà Nội, đội ngũ trí thức còn có những 
hạn chế nhất định nh−: chịu ảnh h−ởng 
của văn hóa, tâm lý tiểu nông; số l−ợng 
đông, phẩm chất tốt, trình độ không 
thua kém nhiều n−ớc trong khu vực 
nh−ng thiếu tinh thần hợp tác, thiếu 
những ng−ời có khả năng chỉ huy các 
tập thể lớn, đảm nhận những ch−ơng 
trình, dự án lớn; tinh thần tự đào tạo 
ch−a cao, t− duy độc lập và khả năng 
phản biện xã hội với tinh thần xây dựng 
còn thấp, hiệu quả hoạt động không cao, 
tiềm năng chất xám ch−a đ−ợc phát 
huy; một số trí thức Thủ đô cảm thấy 
nh− mất ph−ơng h−ớng tr−ớc những 
nghịch lý, bất công trong xã hội mới, 
những cám dỗ vật chất tầm th−ờng của 
thời kinh tế thị tr−ờng; một số giảm sút 
đạo đức nghề nghiệp, thậm chí là vi 
phạm đạo đức nghề nghiệp, có biểu hiện 
chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực; 
một số văn nghệ sĩ - trí thức có xu 
h−ớng “th−ơng mại hóa” (Đảng ủy Khối 
các tr−ờng đại học, cao đẳng Hà Nội, 
2011), truyền bá lối sống thực dụng. 
Thứ hai, sự mất cân đối của đội 
ngũ trí thức trong các lĩnh vực hoạt 
động; sự khan hiếm chuyên gia đầu 
ngành, thiếu đội ngũ kế cận. 
Cơ cấu đội ngũ trí thức Thành phố 
còn bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, 
giới tính. Mặc dù đ−ợc phân bố rộng 
khắp ở các lĩnh vực nh−ng tỷ lệ cán bộ 
khoa học có trình độ cao chỉ tập trung ở 
một số lĩnh vực, ngành nghề nh−: giáo 
dục, đào tạo, y tế, th−ơng nghiệp... Tỷ lệ 
nữ cán bộ khoa học, nữ trí thức ít hơn 
nam giới. Theo số liệu thống kê tỷ lệ nữ 
trí thức Hà Nội chỉ bằng 1/3 so với nam 
trí thức. 
Sự phân bố của đội ngũ trí thức theo 
lĩnh vực hoạt động ch−a hợp lý, chỗ cần 
cán bộ khoa học có trình độ cao để phát 
triển thì lại khan hiếm, thiếu hụt, nơi 
đông thì sử dụng ch−a hiệu quả. 
Lao động trong ngành nông nghiệp 
của Thành phố trong những năm qua có 
sự chuyển dịch theo h−ớng tích cực, 
chiếm 22,2% tổng số lao động của 
Thành phố, nh−ng số cán bộ khoa học có 
tỷ lệ rất thấp, ch−a đến 1% (trong đó đại 
học 3.419 ng−ời, chiếm 0,35%; thạc sĩ 
111 ng−ời, chiếm 0,012%; tiến sĩ 5 
ng−ời, chiếm 0,009%) (ủy ban nhân dân 
Thành phố Hà Nội, 2012, tr.31). Rõ 
ràng để nông nghiệp của Thành phố 
phát triển theo h−ớng hiện đại, sản 
xuất hàng hóa sử dụng kỹ thuật cao, có 
năng suất, chất l−ợng cao gắn với mục 
tiêu phát triển nông nghiệp bền vững 
thì đội ngũ cán bộ khoa học của ngành 
này đang thiếu nghiêm trọng. 
Tỷ lệ cán bộ khoa học trong ngành 
công nghiệp của Hà Nội cũng không cao. 
Trong tổng số 872.389 lao động, thì chỉ 
Xây dựng đội ngũ trí thức 43 
có 99.891 lao động có trình độ từ đại học 
trở lên (chiếm 11,45%); trong đó tiến sĩ 
425 ng−ời, chiếm 0,0048%; thạc sĩ 4.290 
ng−ời, chiếm 0,49%; đại học 95.176 
ng−ời, chiếm 10,90% (ủy ban nhân dân 
Thành phố Hà Nội, 2012, tr.31). Hà Nội 
xác định −u tiên phát triển các ngành 
công nghiệp tạo ra các sản phẩm có giá 
trị cao, các ngành công nghiệp phụ trợ, 
công nghiệp chế biến, phấn đấu giá trị 
công nghiệp - xây dựng đạt 13 - 13,7% / 
năm (Thành ủy Hà Nội, 2010, tr.82-84). 
Theo đó, việc bổ sung cán bộ khoa học có 
trình độ đang là vấn đề đặt ra với ngành 
này. 
Thực tiễn cho thấy, phần nhiều 
những cán bộ khoa học có trình độ cao 
của Thành phố (78,6% tiến sĩ, 63,54% 
thạc sĩ) tập trung ở các cơ quan hành 
chính, đơn vị sự nghiệp, các tổ chức 
chính trị xã hội... làm nhiệm vụ nghiên 
cứu, giảng dạy hoặc công tác hành chính, 
số tham gia vào các hoạt động sản xuất, 
kinh doanh, gắn kết với các doanh 
nghiệp là rất ít. Vì nhiều lý do khác 
nhau, số cán bộ này “thích” làm việc 
trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự 
nghiệp hơn là trực tiếp tham gia phổ 
biến, ứng dụng khoa học và công nghệ 
vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh. 
Một trong những hạn chế lớn hiện 
nay của đội ngũ trí thức Thủ đô Hà Nội 
là sự hẫng hụt độ tuổi. Các cán bộ khoa 
học đầu ngành hầu hết đã lớn tuổi, 
trong khi đó các cán bộ trẻ ch−a theo 
kịp để đáp ứng nhu cầu mới. Hiện Hà 
Nội có đến hơn 50% tiến sĩ và trên 90% 
giáo s− đã ở độ tuổi trên 50. Kết quả của 
một công trình nghiên cứu mới đây cho 
thấy, số cán bộ khoa học có học hàm 
giáo s−, phó giáo s− tập trung chủ yếu ở 
các tr−ờng đại học, các viện nghiên cứu 
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 
trong đó, ở độ tuổi d−ới 50, giáo s− 
chiếm tỷ lệ 4%, phó giáo s− chiếm tỷ lệ 
18%, số còn lại chủ yếu tuổi đời đều từ 
50 đến 60 (Đảng ủy Khối các tr−ờng đại 
học, cao đẳng Hà Nội, 2011). 
Thứ ba, hạn chế về cơ chế, chính 
sách trong việc xây dựng, khai thác tiềm 
năng đội ngũ trí thức. 
Với vị thế là Thủ đô, Hà Nội là nơi 
tập trung đông nhất đội ngũ trí thức, 
nhất là đội ngũ các nhà khoa học đầu 
ngành đang công tác tại các viện nghiên 
cứu, các tr−ờng đại học, cao đẳng trên 
địa bàn Thành phố. Tuy vậy, Hà Nội 
vẫn “ch−a có kế hoạch tổng thể về phát 
triển và phát huy vai trò của đội ngũ trí 
thức. Chiến l−ợc phát triển kinh tế - xã 
hội ch−a gắn với giải pháp sử dụng và 
phát huy vai trò đội ngũ trí thức ở nhiều 
lĩnh vực. Một số cấp ủy, chính quyền 
ch−a nhận thức đúng vai trò, vị trí của 
trí thức trong lãnh đạo, chỉ đạo; ch−a có 
chiến l−ợc, kế hoạch, quy hoạch xây 
dựng, sử dụng đội ngũ trí thức trong 
đơn vị mình, dẫn đến tình trạng thiếu 
những ng−ời có học hàm, học vị, có trình 
độ quản lý, chuyên môn cao trong các cơ 
quan của Thành phố, nhất là những lĩnh 
vực có thế mạnh thu hút trí thức nh−: 
giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, khoa học 
- công nghệ” (Thành ủy Hà Nội, 2008). 
Bên cạnh đó cũng còn thiếu những chính 
sách động viên, khai thác và phát huy 
khả năng cống hiến của đội ngũ trí thức 
vào việc tham gia giải quyết các vấn đề 
quan trọng của Thành phố. Các chính 
sách cụ thể của Thành phố về việc làm, 
điều kiện làm việc, tiền l−ơng, tiền 
th−ởng, tôn vinh... ch−a thực sự trở 
thành động lực thu hút, thúc đẩy tính 
năng động, sáng tạo của đội ngũ trí thức. 
4. Để khắc phục những hạn chế nói 
trên, đồng thời phát huy tiềm năng trí 
44 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 
tuệ, sức mạnh của đội ngũ trí thức Thủ 
đô, góp phần xây dựng Thành phố văn 
minh, hiện đại, chúng tôi xin đề xuất 
một số giải pháp sau: 
Một là, xây dựng quy hoạch phát 
triển nhân lực Thủ đô gắn liền với công 
tác xây dựng đội ngũ trí thức. 
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành 
phố Hà Nội lần thứ XV khẳng định: 
“Đổi mới mô hình tăng tr−ởng và cơ cấu 
kinh tế, coi trọng cả việc mở rộng quy 
mô với nâng cao chất l−ợng, hiệu quả, 
sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô,... 
tăng c−ờng áp dụng tiến bộ khoa học 
công nghệ, sử dụng nhân lực chất l−ợng 
cao vào quá trình sản xuất, nâng cao 
năng suất lao động, chất l−ợng sản 
phẩm” (Thành ủy Hà Nội, 2010, tr.82-
84). Do vậy việc xây dựng, phát triển 
nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức, 
cần đ−ợc coi là một trong những mục 
tiêu hàng đầu của Thành phố, là yếu tố 
then chốt, có ý nghĩa quyết định sự phát 
triển kinh tế - xã hội của Thành phố. 
Trong những năm tới, để “đi đầu 
trong phát triển kinh tế tri thức và 
nâng cao chất l−ợng chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế, phát triển kinh tế tăng tr−ởng 
nhanh và bền vững” (Thành ủy Hà Nội, 
2010, tr.82-84), thì yêu cầu đặt ra đối 
với việc xây dựng đội ngũ trí thức 
Thành phố ngày càng cao hơn, đa dạng 
hơn. Đảng bộ và chính quyền Thành 
phố cần tiếp tục nghiên cứu một cách 
căn bản, toàn diện thực trạng đội ngũ 
trí thức Thủ đô, chỉ ra điểm mạnh, điểm 
yếu, những hạn chế, bất cập về cơ chế, 
chính sách trong việc xây dựng, phát 
triển đội ngũ trí thức, trên cơ sở đó xây 
dựng chiến l−ợc, đề ra những giải pháp 
có tính khả thi cao nhằm phát triển đội 
ngũ trí thức Thành phố. Cần đặc biệt 
chú ý đến cơ chế, chính sách thu hút 
ng−ời tài, “chiêu hiền đãi sĩ”. Việc tổ 
chức tuyên d−ơng sinh viên xuất sắc, 
thủ khoa các tr−ờng đại học, cao đẳng 
của Thành phố cần phải đ−ợc duy trì, tổ 
chức tốt hơn, thực chất hơn, nh−ng 
quan trọng hơn cả là việc bồi d−ỡng, sử 
dụng về sau. 
Hai là, tiếp tục đổi mới công tác 
lãnh đạo, nâng cao nhận thức của các 
cấp ủy và chính quyền Thành phố về vị 
trí, vai trò quan trọng của trí thức trong 
xây dựng, phát triển Thủ đô. 
“Đầu t− xây dựng đội ngũ trí thức là 
đầu t− cho phát triển bền vững” (Thành 
ủy Hà Nội, 2008). Trong công tác lãnh 
đạo, quản lý đội ngũ trí thức, cần l−u ý: 
Trí thức có lòng tự trọng rất cao, họ 
không đòi hỏi đãi ngộ một cách quá 
đáng, họ cần tr−ớc hết là môi tr−ờng cho 
sự sáng tạo và điều kiện làm việc, họ 
th−ờng “dễ” tự ái, không thích, không 
chấp nhận sự áp đặt về t− t−ởng, họ 
cũng mang những đặc điểm tâm lý, lối 
sống của các vùng miền khác nhau, do 
xuất thân từ nhiều vùng quê khác 
nhau, nhiều nguồn đào tạo khác nhau. 
Do vậy, để lãnh đạo, quản lý đội ngũ trí 
thức có hiệu quả không những cần có 
quan điểm, chủ tr−ơng, đ−ờng lối đúng 
đắn mà còn phải đổi mới công tác lãnh 
đạo cho phù hợp, khéo léo. 
Cần nghiên cứu, rà soát các chính 
sách đối với trí thức, kiên quyết bãi bỏ 
các chính sách là rào cản. Cần thay đổi 
việc lựa chọn, đào tạo, bồi d−ỡng, sử 
dụng, đãi ngộ tài năng trí thức. Cần kế 
thừa và phát huy những kinh nghiệm 
quý báu về trọng dụng hiền tài trong 
lịch sử, đặc biệt là những quan điểm, t− 
t−ởng độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh về thu hút, trọng dụng nhân tài; 
tiếp thu, chọn lọc những cách làm hay 
Xây dựng đội ngũ trí thức 45 
của thế giới về chiến l−ợc đào tạo, sử 
dụng nhân tài. 
Ba là, làm tốt công tác đào tạo, bồi 
d−ỡng trí thức. 
Nh− đã phân tích, thực trạng đội 
ngũ trí thức Hà Nội hiện nay còn nhiều 
bất cập, ch−a đáp ứng đ−ợc yêu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. 
Do vậy, làm tốt công tác đào tạo, bồi 
d−ỡng đội ngũ trí thức phục vụ sự 
nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô 
có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý 
luận và thực tiễn. 
Tr−ớc hết cần làm tốt việc tổng kết 
ch−ơng trình phát triển văn hóa - xã 
hội, nâng cao chất l−ợng nguồn nhân 
lực Thủ đô, xây dựng ng−ời Hà Nội 
thanh lịch - văn minh giai đoạn 2011-
2015, từ đó rút ra những kinh nghiệm 
hay, bài học quý về công tác đào tạo 
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực 
chất l−ợng cao. Gắn việc tiếp tục thực 
hiện nghị quyết Trung −ơng 7 (Khóa X) 
với việc thực hiện Nghị quyết Trung 
−ơng 6 (Khóa XI) về phát triển khoa học 
và công nghệ, Nghị quyết Trung −ơng 8 
(Khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục và đào tạo, nhằm xây dựng, 
phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu 
cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập 
kinh tế quốc tế của Thủ đô. 
Xây dựng, phát triển đội ngũ trí 
thức cần có tầm nhìn chiến l−ợc, Thành 
phố Hà Nội cần xây dựng ch−ơng trình 
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ từ nay đến năm 
2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong 
đó cần xác định nhu cầu về số l−ợng, 
chất l−ợng, ngành nghề, lĩnh vực hoạt 
động của trí thức, tránh tình trạng lãng 
phí nguồn lực, nhất là nguồn lực “chất 
xám”. Tạo điều kiện cho cán bộ, công 
chức đi đào tạo ở n−ớc ngoài, nhất là ở 
những n−ớc có nền khoa học và công 
nghệ, giáo dục và đào tạo tiên tiến. Có 
chính sách thu hút nhân tài, nhất là 
nhân tài là Việt kiều về n−ớc, góp phần 
xây dựng Thủ đô, đất n−ớc và tham gia 
đào tạo nhân tài. 
Bốn là, tạo môi tr−ờng và điều kiện 
thuận lợi cho hoạt động của trí thức, đề 
cao sự tôn trọng, dân chủ, tin dùng. 
 Cần xây dựng môi tr−ờng thực sự 
cởi mở, dân chủ để phát triển năng lực 
t− duy, tinh thần sáng tạo, dám nói dám 
làm của trí thức. Những ý kiến khác 
nhau cần đ−ợc đ−a ra tranh luận một 
cách bình đẳng, tránh dùng quyền uy để 
áp đặt. Những ý t−ởng mới cần đ−ợc 
khuyến khích phát triển, những quan 
điểm lệch lạc cần đ−ợc đối thoại, tranh 
luận, thuyết phục để cuối cùng là tất cả 
phải phục tùng chân lý. 
Năm là, đề cao trách nhiệm của trí 
thức, củng cố và phát huy vai trò của 
các hội trí thức. 
Cần xây dựng quy chế, cơ chế để trí 
thức đ−ợc tiếp cận những thông tin 
quan trọng, chính thống giúp trí thức 
nắm vững các chủ tr−ơng, chính sách 
của Đảng, Nhà n−ớc, của Thành phố, 
trên cơ sở đó tạo điều kiện và giao việc 
cho trí thức, khuyến khích trí thức thực 
hiện t− vấn, phản biện chính sách, góp 
phần đảm bảo những chính sách của 
Đảng, Nhà n−ớc, của Thành phố nhanh 
chóng đi vào cuộc sống và đem lại hiệu 
quả thiết thực. 
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy 
Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc 
về vai trò, vị trí của các hội trí thức 
trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết 
trí thức trong n−ớc và trí thức kiều bào. 
Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức và 
đổi mới ph−ơng thức hoạt động của Liên 
46 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2016 
hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật 
Thành phố và Hội liên hiệp Văn học 
Nghệ thuật Hà Nội sao cho phù hợp với 
đặc điểm, tình hình mới để các hội này 
thực sự là nơi tập hợp, đoàn kết rộng rãi 
trí thức nhằm phát huy năng lực sáng 
tạo phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát 
triển Thủ đô, đất n−ớc. 
* * * 
Sau gần 30 năm đổi mới, đội ngũ 
trí thức Thủ đô Hà Nội đã có những 
đóng góp to lớn vào thành tựu chung 
của Thành phố và của cả n−ớc. Tuy 
nhiên, thực trạng đội ngũ trí thức Thủ 
đô và công tác xây dựng đội ngũ trí 
thức Thủ đô vẫn còn nhiều hạn chế, bất 
cập. Do vậy, Hà Nội cần chú trọng công 
tác xây dựng đội ngũ trí thức Thủ đô 
ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu 
của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế,... 
để trí thức Thủ đô cùng với nhân dân 
Thủ đô xây dựng Thủ đô Hà Nội ngày 
càng văn minh, hiện đại, xứng đáng là 
trung tâm chính trị - hành chính quốc 
gia, trung tâm văn hóa, khoa học, giáo 
dục của cả n−ớc  
Tài liệu trích dẫn 
1. Ban chỉ đạo Quốc gia kỷ niệm 1000 
năm Thăng Long, Thành ủy - HĐND 
- UBND Thành phố Hà Nội (2010), 
Bách khoa th− Hà Nội, tập 1, Nxb. 
Thời đại, Hà Nội. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), 
Văn kiện Hội nghị lần thứ VII, Ban 
chấp hành Trung −ơng khóa X, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Cục Thống kê Hà Nội (2010), Kết quả 
điều tra dân số và nhà ở Thành phố 
Hà Nội ngày 01/4/2009, Hà Nội. 
4. Cục Thống kê Hà Nội (2014), Niên 
giám thống kê Thành phố Hà Nội 
năm 2013, Hà Nội. 
5. Nguyễn Đình D−ơng (chủ biên) 
(2014), Kinh tế - xã hội Hà Nội sau 5 
năm mở rộng địa giới hành chính, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. Đảng ủy Khối các tr−ờng đại học, cao 
đẳng Hà Nội (2011), Nghiên cứu đề 
xuất giải pháp đổi mới công tác lãnh 
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí 
thức trong các tr−ờng đại học, cao 
đẳng Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đề tài cấp 
Thành phố. 
7. ủy ban nhân dân Thành phố Hà 
Nội (2012), Quy hoạch phát triển 
nhân lực của Thành phố Hà Nội 
giai đoạn 2011-2020, Tài liệu l−u 
hành nội bộ. 
8. Thành ủy Hà Nội (2010), Văn kiện 
Đại hội đại biểu lần thứ XV Đảng 
bộ Thành phố Hà Nội, Nxb. Hà 
Nội, Hà Nội. 
9. Thành ủy Hà Nội (2010), Ch−ơng 
trình hành động số 03-CT/TU của 
Thành ủy Hà Nội, ngày 31/10/2008 
thực hiện nghị quyết số 27-NQ/TW, 
trong: Các văn bản của Thành ủy Hà 
Nội khóa XIV, nhiệm kỳ 2005-2010, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_doi_ngu_tri_thuc_dap_ung_yeu_cau_cong_nghiep_hoa_hi.pdf