Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau của người cao tuổi và vai trò của công tác xã hội

TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện trên 200 người cao tuổi (độ tuổi từ 60 - 80 tuổi), hiện đang sinh hoạt trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau tại địa bàn huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa); nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi kết hợp phỏng vấn sâu để thu thập thông tin. Mục đích nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của mô hình qua 4 hoạt động chính: Chăm sóc sức khỏe; hỗ trợ sinh kế tạo việc làm; giải trí - thể dục thể thao; truyền thông nâng cao nhận thức về chính sách người cao tuổi. Đồng thời, phân tích vai trò của nhân viên công tác xã hội trong can thiệp và trợ giúp người cao tuổi đang sinh hoạt trong mô hình. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết người cao tuổi khi tham gia mô hình này thì điều kiện sức khỏe đều được cải thiện, có việc làm và nâng cao thu nhập, hiểu biết về chính sách và tiếp cận chính sách tốt hơn, đời sống tinh thần được cải thiện do tham gia các câu lạc bộ giải trí - thể dục thể thao

pdf 15 trang yennguyen 740
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau của người cao tuổi và vai trò của công tác xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau của người cao tuổi và vai trò của công tác xã hội

Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau của người cao tuổi và vai trò của công tác xã hội
100 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 55 (4) 2017 
MÔ HÌNH LIÊN THẾ HỆ TỰ GIÚP NHAU 
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI 
NGUYỄN VĂN ĐỒNG 
Trung tâm Đào tạo Kỹ năng Quốc tế Vietcess - nguyendong.sw@gmail.com 
(Ngày nhận: 17/01/2017; Ngày nhận lại: 11/04/2017; Ngày duyệt đăng: 30/06/2017) 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này được thực hiện trên 200 người cao tuổi (độ tuổi từ 60 - 80 tuổi), hiện đang sinh hoạt trong mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau tại địa bàn huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa); nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra 
bảng hỏi kết hợp phỏng vấn sâu để thu thập thông tin. Mục đích nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của mô hình qua 
4 hoạt động chính: Chăm sóc sức khỏe; hỗ trợ sinh kế tạo việc làm; giải trí - thể dục thể thao; truyền thông nâng cao 
nhận thức về chính sách người cao tuổi. Đồng thời, phân tích vai trò của nhân viên công tác xã hội trong can thiệp 
và trợ giúp người cao tuổi đang sinh hoạt trong mô hình. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết người cao tuổi 
khi tham gia mô hình này thì điều kiện sức khỏe đều được cải thiện, có việc làm và nâng cao thu nhập, hiểu biết về 
chính sách và tiếp cận chính sách tốt hơn, đời sống tinh thần được cải thiện do tham gia các câu lạc bộ giải trí - thể 
dục thể thao. 
Từ khóa: công tác xã hội; liên thế hệ; người cao tuổi; tự giúp nhau. 
Model of mutual help among the elderly and the role of social work 
ABSTRACT 
This study was conducted on 200 elderly people aged 60-80 who are currently living in self-help inter-
generational model in Hoang Hoa district (Thanh Hoa) using the survey method. 
Questionnaire and in-depth interview were used to collect information for research purposes. The main purpose 
is to clarify the actual situation of the model through 4 main activities: Health care; Livelihood support employment 
creation; Entertainment - sports; Communication to raise awareness of the elderly policy. Another purpose is to 
analyze the role of social workers in intervention and support the elderly living in the model. The results of the study 
show that most elderly people participating in this model have improved in terms of health conditions, employment 
and incomes, knowledge of and access to the elderly policy. Their spiritual life is also improved by joining the 
entertainment and sports clubs 
Keywords: social work, inter-generational, elderly, self-help. 
1. Đặt vấn đề 
Theo thống kê của Tổng cục Dân số - Kế 
hoạch hóa Gia đình, cuối năm 2011 Việt Nam 
chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số, 
nhóm dân số cao tuổi tăng nhanh chạm 
ngưỡng 09 triệu người, chiếm 1/10 dân số cả 
nước. Tuổi thọ của người cao tuổi (NCT) tăng 
nhanh phản ánh những thành tựu to lớn của 
công tác chăm sóc, phụng dưỡng NCT và 
công tác dân số được Đảng, Nhà nước Việt 
Nam ta chỉ đạo thực hiện từ các giai đoạn 
trước. Tuy nhiên, già hóa dân số cũng đưa đến 
những khó khăn, thách thức cho công tác 
chăm sóc, phụng dưỡng và phát huy vai trò 
NCT (Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế, 
2013); bởi hiện nay đời sống NCT nói chung, 
cùng điều kiện thu nhập - mức sống, điều kiện 
sống của đa phần NCT nói riêng, cùng nhiều 
vấn đề liên quan như: sức khỏe yếu, bệnh tật 
nhiều, điều kiện chăm sóc chưa đảm bảo... tác 
động rất lớn đến đời sống NCT ở Việt Nam. 
Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa Gia đình cho 
biết, ở nước ta hiện nay 70% NCT đang sống 
ở nông thôn và hiện tại vẫn đang tham gia lao 
 KINH TẾ - XÃ HỘI 101 
động, điều này cho thấy sau tuổi 60 NCT vẫn 
có nhu cầu tham gia làm việc nhằm tạo thu 
nhập, nâng cao mức sống. 
Hiện nay, với xu thế già hóa diễn ra 
nhanh ở Việt Nam, có rất nhiều mô hình chăm 
sóc - trợ giúp NCT được xây dựng, nhưng để 
đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của số 
đông NCT thì có rất ít mô hình đáp ứng được 
điều này (bởi giai đoạn trước chủ yếu là các 
mô hình chăm sóc NCT tập trung tại các trung 
tâm bảo trợ xã hội). Xuất phát từ yêu cầu thực 
tiễn về NCT tại nhiều địa phương, năm 2004 
với sự trợ giúp của Tổ chức Hỗ trợ NCT Quốc 
tế - HAI, Ủy ban Quốc gia về NCT Việt Nam 
phối hợp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã 
cho ra đời mô hình liên thế hệ tự giúp nhau, 
đây là mô hình chăm sóc - trợ giúp NCT dựa 
vào cộng đồng đầu tiên ở Việt Nam. Mô hình 
liên thế hệ là một mô hình kết hợp các hoạt 
động chăm sóc - trợ giúp nhiều mặt, chăm sóc 
sức khỏe (CSSK); tạo việc làm cho NCT, 
thông qua các câu lạc bộ (CLB) và hoạt động 
sinh kế; giải trí – thể dục thể thao (TDTT); 
truyền thông nâng cao nhận thức về chính 
sách với sự tham gia trợ giúp của Nhà nước 
và các tổ chức xã hội, đến nay mô hình liên 
thế hệ tự giúp nhau đã được triển khai ở 25 
tỉnh, thành phố. Việc chăm sóc - trợ giúp 
NCT cũng là truyền thống đạo lý tốt đẹp của 
dân tộc Việt Nam, để nâng cao chất lượng 
chăm sóc và hoạt động trợ giúp NCT, đồng 
thời phát huy được vai trò của NCT trong 
cộng đồng như mục tiêu của Chương trình 
Hành động Quốc gia về Người cao tuổi Việt 
Nam giai đoạn 2012-2020 đề ra, Bộ Lao động 
– Thương binh và Xã hội đã đề xuất Đề án 
Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi 
giai đoạn 2012-2020 trong đó chú trọng vào 
việc xây dựng và nhân rộng “Mô hình liên thế 
hệ tự giúp nhau” (Nguyễn Văn Đồng, 2014), 
đây là một hướng đi đúng đắn, mang tính đột 
phá, phù hợp với điều kiện và tình hình già 
hóa dân số ở Việt Nam. 
Thanh Hóa là địa phương đầu tiên nhân 
rộng mô hình CLB liên thế hệ tự giúp nhau; 
đến nay, toàn tỉnh có 21 huyện, thị xã, thành 
phố có mô hình, thành lập được 97 CLB liên 
thế hệ tự giúp nhau của NCT với tổng số 
thành viên tham gia là 5.626 người. Mô hình 
đã hỗ trợ tạo việc làm cho NCT thông qua các 
hoạt động sinh kế như: nuôi bò, nuôi lợn nái, 
nuôi gà, nuôi chim bồ câu, thủ công mỹ 
nghệ... NCT khi tham gia mô hình này đều có 
việc làm và thu nhập ổn định, được tập huấn 
kiến thức khoa học - kỹ thuật tiên tiến về 
chăn nuôi, trồng trọt, giới thiệu các ngành 
nghề phù hợp với sức khỏe NCT, các thành 
viên CLB liên thế hệ tự giúp nhau còn được 
hỗ trợ về vốn vay để phát triển sản xuất, được 
các tình nguyện viên chăm sóc sức khỏe 
thường xuyên, giao lưu giải trí văn hóa - văn 
nghệ; tổ chức các buổi truyền thông, tập huấn 
nâng cao nhận thức về chính sách (Nguyễn 
Văn Đồng, 2014). 
Như vậy, có thể thấy rằng, cùng với xu 
hướng già hóa dân số nhanh và nhiều vấn đề 
nảy sinh từ phía NCT, rất cần có những chính 
sách và hoạt động chăm sóc, trợ giúp cho đối 
tượng là NCT hiện đang sinh sống tại cộng 
đồng, chú trọng tới nhóm NCT thiệt thòi, dễ 
bị tổn thương tại cộng đồng như: NCT cô đơn 
không nơi nương tựa, NCT có bệnh hiểm 
nghèo, NCT khuyết tật, NCT nghèo - cận 
nghèo, NCT có công với cách mạng... nhằm 
bảo đảm những quyền, lợi ích hợp pháp cho 
NCT, đáp ứng nhu cầu về mọi mặt cho NCT. 
Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau đã đáp ứng 
được nhu cầu, nguyện vọng của số đông NCT 
và mong mỏi, nguyện vọng của xã hội, có 
những tác động tích cực, góp phần nâng cao 
đời sống cho NCT ở nhiều địa phương, trong 
đó có NCT tại địa bàn nghiên cứu thuộc 02 xã 
Hoằng Lưu và xã Hoằng Trạch. Nghiên cứu 
"Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau của người 
cao tuổi và vai trò của công tác xã hội", sẽ 
cung cấp những cơ sở, luận cứ khoa học quan 
trọng về mặt lý luận và thực tiễn trong hoạt 
động chăm sóc, trợ giúp NCT; cũng từ việc 
nghiên cứu mô hình liên thế hệ tự giúp nhau, 
thấy được bức tranh toàn cảnh về một mô 
102 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 55 (4) 2017 
hình thực tiễn dựa vào cộng đồng, phát huy 
vai trò và nguồn lực từ phía cộng đồng trong 
chăm sóc, trợ giúp NCT. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Làm rõ thực trạng và tác động của mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau đến đời sống 
NCT tại địa bàn 2 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng 
Trạch, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 
Phân tích vai trò của đội ngũ nhân viên xã 
hội (những người làm CTXH bán chuyên 
nghiệp) trong hoạt động chăm sóc và trợ giúp 
NCT trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau. 
Trên cơ sở những tồn tại và hạn chế của đội 
ngũ nhân viên xã hội, đề xuất vai trò chuyên 
nghiệp của nhân viên CTXH trong can thiệp, 
chăm sóc và trợ giúp cho NCT. 
Đưa ra những đánh giá về thực tiễn hoạt 
động của mô hình; thực tiễn hoạt động can 
thiệp, chăm sóc và trợ giúp NCT của đội ngũ 
nhân viên CTXH. Từ đó đề xuất những 
khuyến nghị về mặt chính sách và hành động 
nhằm can thiệp và trợ giúp cho NCT tốt hơn, 
khắc phục những mặt tồn tại, hạn chế của mô 
hình, để mô hình liên thế hệ tự giúp nhau hoạt 
động hiệu quả và bền vững hơn. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Phương pháp phỏng vấn sâu 
Để thu thập thông tin định tính, trong 
nghiên cứu này tác giả tiến hành 20 phỏng 
vấn sâu, đối tượng là: NCT tại 02 xã Hoằng 
Lưu và xã Hoằng Trạch hiện đang sinh hoạt 
trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau; Cán 
bộ và nhân viên mô hình CLB liên thế hệ tự 
giúp nhau tại 02 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng 
Trạch; Đại diện gia đình có NCT hiện đang 
tham gia mô hình liên thế hệ tự giúp nhau tại 
địa bàn 02 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng Trạch 
để thu thập thông tin phục vụ nghiên cứu. 
Theo cơ cấu: người cao tuổi (10 người); cán 
bộ nhân viên mô hình liên thế hệ tự giúp nhau 
(08 người); gia đình có người cao tuổi đang 
tham gia mô hình (02 người). 
3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 
Đề tài xây dựng bộ công cụ bảng hỏi 
dành cho khách thể nghiên cứu là NCT thuộc 
độ tuổi từ 60 đến dưới 80 tuổi, với các câu hỏi 
nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc tổng 
hợp số liệu, lượng hóa thông tin phục vụ 
nghiên cứu, với hệ thống câu hỏi nhằm thu 
thập các thông tin liên quan nhằm đạt được 
các mục tiêu nghiên cứu đề ra. 
Cỡ mẫu: Đề tài chọn 200 mẫu, là NCT độ 
tuổi từ 60 đến dưới 80 tuổi; hiện đang sinh 
hoạt trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau tại 
02 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng Trạch, huyện 
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa để thu thập thông 
tin phục vụ nghiên cứu. 
Cơ cấu mẫu định lượng: 200 NCT, mẫu 
được phân theo giới tính, nhóm tuổi và địa 
bàn, cụ thể cơ cấu mẫu như sau: 
- Theo giới tính: nam giới có 65 người 
chiếm 32,5%; nữ giới có 135 chiếm 67,5%. 
- Theo nhóm tuổi: nhóm tuổi (60-64) có 
88 người chiếm 44,0%; nhóm tuổi (65-69) có 
71 người chiếm 35,5% và nhóm tuổi (70-80) 
có 41 người chiếm 20,5%. 
- Theo địa bàn: Tại địa bàn huyện Hoằng 
Hóa khảo sát 02 xã có mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau, cụ thể: xã Hoằng Lưu lựa chọn 100 
người cao tuổi đang sinh hoạt trong mô hình 
tham gia khảo sát; xã Hoằng Trạch lựa chọn 
100 người cao tuổi đang sinh hoạt trong mô 
hình tham gia khảo sát. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Thực trạng hoạt động của mô hình 
liên thế hệ tự giúp nhau tại địa bàn 
4.1.1. Lịch sử hình thành mô hình liên thế 
hệ tự giúp nhau tại địa bàn 
Năm 2008, mô hình liên thế hệ tự giúp 
nhau tại địa bàn huyện Hoằng Hóa (Thanh 
Hóa) được thành lập, mô hình triển khai trên 
phạm vi 2 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng Trạch, 
ban đầu mô hình do Trung ương Hội Phụ nữ 
phối hợp với Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi 
Quốc tế (HelpAge international Vietnam - 
HAI) và Trung ương Hội Người cao tuổi Việt 
Nam cùng với các tổ chức, đoàn thể tại địa 
phương thực hiện, ban đầu mô hình mới thành 
lập chỉ duy nhất có 1 hoạt động chủ đạo đó là 
hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT từ đội 
 KINH TẾ - XÃ HỘI 103 
ngũ tình nguyện viên. Đến năm 2012, sau khi 
có Chương trình Hành động Quốc gia về 
người cao tuổi (2012-2020) với định hướng 
nhân rộng hoạt động của mô hình, thì mô hình 
liên thế hệ tự giúp nhau phát triển thêm 3 hoạt 
động chính, đó là: Hoạt động hỗ trợ sinh kế 
tạo việc làm; hoạt động giải trí - TDTT và 
hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức 
cho NCT về chính sách. Vì vậy, hiện nay mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau tại địa bàn huyện 
Hoằng Hóa (gồm xã Hoằng Lưu và xã Hoằng 
Trạch) đang có 4 hoạt động chủ đạo: Hoạt 
động chăm sóc sức khỏe cho NCT; hoạt động 
hỗ trợ sinh kế tạo việc làm; hoạt động giải trí - 
TDTT và hoạt động truyền thông nâng cao 
nhận thức cho NCT về chính sách nhằm trợ 
giúp về mọi mặt cho NCT. 
4.1.2. Cơ cấu tổ chức hoạt động của mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau 
Mô hình liên thế hệ tự giúp nhau tại xã 
Hoằng Lưu và xã Hoằng Trạch là tổ chức dựa 
vào cộng đồng, mô hình được tổ chức ở cấp 
thôn dưới dạng CLB, mỗi CLB liên thế hệ tự 
giúp nhau có từ 50 - 70 thành viên, trong đó 
70% là NCT, 30% là các đối tượng trẻ tuổi 
hơn và có điều kiện kinh tế khá giả. 70% là 
đối tượng thuộc diện nghèo, cận nghèo hoặc 
những người có hoàn cảnh khó khăn. Mô hình 
nhằm thực hiện 2 mục tiêu: Tạo cơ hội cho 
NCT đang sinh hoạt trong CLB được cải thiện 
đời sống của bản thân, gia đình và cộng đồng; 
giúp NCT tăng cường vai trò và sự đóng góp 
của họ trong cải thiện sức khỏe, thu nhập và 
phát triển ở địa phương (Tổ chức Hỗ trợ 
Người cao tuổi Quốc tế, 2013). Mô hình CLB 
liên thế hệ tự giúp nhau tại xã Hoằng Lưu và 
xã Hoằng Trạch đạt được những thành công 
bước đầu là nhờ biết cách tổ chức, cách huy 
động được sự tham gia của cộng đồng, huy 
động nguồn lực từ nhiều phía và đặc biệt có 
vai trò quản lý, điều hành - điều phối của đội 
ngũ cán bộ, nhân viên giàu kinh nghiệm 
chuyên môn và tận tâm, nhiệt tình, tâm huyết 
với công tác chăm sóc, trợ giúp NCT. Các 
thành tựu đạt được của mô hình của 2 xã cần 
kể đến: 
Là mô hình được tổ chức hoạt động dựa 
vào cộng đồng, phát huy được sự giúp nhau 
của các thành viên trẻ hơn, những người có 
kinh nghiệm sản xuất để trợ giúp NCT. Thành 
viên CLB từ 50-70 người, trong đó: 70% là 
NCT (60 tuổi trở lên/55 tuổi đối với nữ); 60-
70% là phụ nữ cao tuổi. Mô hình hướng tới 
mục tiêu trọng tâm giúp NCT nghèo, cận 
nghèo; NCT cô đơn; NCT có hoàn cảnh khó 
khăn để bù đắp những thiệt thòi khó khăn và 
giúp họ thoát nghèo một cách bền vững, hỗ 
trợ để NCT nghèo có điều kiện tự vươn lên. 
Trong số các thành viên của CLB 70% là 
người NCT nghèo, cận nghèo và có hoàn cảnh 
khó khăn. Mô hình được sự ủng hộ của chính 
quyền và Hội Người cao tuổi tại địa phương 
nên công tác tổ chức CLB và quá trình vận 
hành CLB trong mô hình khá thuận lợi. 
Trong cách thức quản lý, mô hình có cách 
thức quản lý CLB rất khoa học, CLB tự quản 
lý, có kế hoạch, báo cáo hàng tháng, tất cả 
được công khai, minh bạch trước tập thể. Quy 
trình quản lý bằng sổ sách và có tài liệu 
hướng dẫn kèm theo, rất dễ hiểu, dễ tiếp cận. 
Mỗi CLB đều có một ban chủ nhiệm, mỗi ban 
chủ nhiệm tối thiểu là 5 người, gồm: cán bộ 
Hội Người cao tuổi, cán bộ Hội Phụ nữ, cán 
bộ Mặt trận Tổ quốc, cán bộ Hội Cựu chiến 
binh, cán bộ Hội Nông dân, cán bộ Hội Chữ 
thập đỏ, cán bộ Đoàn Thanh niên. 
Mô hình có đội ngũ tình nguyện viên trợ 
giúp NCT khó khăn ở cộng đồng và bảo vệ 
quyền lợi cho NCT, mỗi CLB có 7-10 tình 
nguyện viên luôn theo sát các hoạt động diễn 
ra trong CLB. Đội ngũ tình nguyện viên là 
những nhân viên thuộc mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau, trước khi triển khai hoạt động can 
thiệp - trợ giúp cho NCT, đội ngũ này thường 
xuyên được tập huấn trang bị các kiến thức, 
kỹ năng, kỹ thuật chuyên môn để hướng dẫn, 
tư vấn, trợ giúp cho NCT một cách khoa học, 
bài bản và hiệu quả nhất. 
Mô hình tổ chức các hoạt động mang tính 
 ... ề chính sách, chính các cán 
bộ tình nguyện viên cùng cán bộ mô hình đã 
giúp cho tôi giải quyết được nhiều khó khăn, 
hiểu hơn về thủ tục giấy tờ, giờ thì tôi đã biết 
nhiều thông tin và cũng có chia sẻ cho nhiều 
NCT khác về những thông tin bổ ích học được 
từ các lớp truyền thông, tập huấn tổ chức 
hàng tháng trong mô hình” (PVS bà Phạm 
Thị Hiệp, 68 tuổi, thuộc CLB liên thế hệ xã 
Hoằng Trạch). 
Như vậy, vai trò của nhân viên xã hội 
trong hoạt động truyền thông nâng cao nhận 
thức bao hàm nhiều vai trò quan trọng, từ vai 
trò cung cấp thông tin về chính sách, kết nối 
NCT tiếp cận chính sách trợ giúp cho đến 
những vai trò như tư vấn hỗ trợ giải quyết khó 
khăn, vướng mắc khi tiếp cận chính sách, biện 
hộ cho NCT gặp khó khăn về tiếp cận chính 
sách, giám sát việc thực hiện chính sách cho 
NCT và những hỗ trợ mang tính toàn diện, 
tổng hợp như hỗ trợ pháp lý về mọi mặt. 
Đánh giá của NCT về vai trò của nhân viên xã hội trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau: 
Nguồn: kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu - tháng 10/2016. 
Trong tổng số 200 NCT tham gia khảo sát 
thuộc địa bàn 2 xã Hoằng Lưu và xã Hoằng 
Trạch, số NCT đánh giá vai trò của nhân viên 
xã hội trong các hoạt động của mô hình liên 
thế hệ tự giúp nhau ở mức “Thường xuyên” 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 49,5% NCT tham gia 
trả lời, tập trung ở nhóm NCT thường xuyên 
nhận được các trợ giúp của nhân viên xã hội 
trong các hoạt động mà họ tham gia như: Hoạt 
động CSSK, hoạt động hỗ trợ sinh kế tạo việc 
làm, hoạt động giải trí - TDTT và hoạt động 
truyền thông nâng cao nhận thức về chính 
sách. Số NCT có đánh giá về vai trò của nhân 
viên xã hội ở mức “Rất thường xuyên” chiếm 
tỷ lệ cao thứ hai với 19,0% số NCT tham gia 
trả lời, chủ yếu tập trung ở nhóm NCT có 
những khó khăn, hạn chế nhất định như: Sức 
khỏe yếu, bị hạn chế một số chức năng, có 
hoàn cảnh khó khăn... Vì vậy, những NCT 
này thường xuyên được sự quan tâm đặc biệt 
hơn của nhân viên xã hội. 
Bên cạnh đó, có 17,0% số NCT có đánh 
19.0% 
49.5% 
17.0% 
14.5% 
Biểu 5 
Đánh giá của NCT về vai trò của nhân viên xã hội trong mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau 
 (Đơn vị: %; N=200) 
Rất thường xuyên 
Thường xuyên 
Bình thường 
Không thường xuyên 
 KINH TẾ - XÃ HỘI 111 
giá về vai trò của nhân viên xã hội ở mức 
“Bình thường” và 14,5% số NCT có đánh giá 
về vai trò của nhân viên xã hội ở mức “Không 
thường xuyên”, tập trung ở những nhóm NCT 
không tham gia thường xuyên vào các hoạt 
động trợ giúp trong mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau, việc không tham gia thường xuyên 
của họ vào mô hình do một số nguyên nhân 
khách quan và chủ quan như: suy nghĩ và 
nhận thức của họ về lợi ích của việc tham gia 
mô hình chưa đúng đắn, khoảng cách đi lại 
xa, hoặc những rào cản khác... chính điều này, 
đã khiến cho họ bị hạn chế nhận được những 
trợ giúp từ phía mô hình. 
Như vậy, nhận thức của NCT về vai trò 
của nhân viên xã hội được thể hiện thông qua 
chính hoạt động đánh giá về vai trò này, 
những đánh giá này hoàn toàn mang tính 
khách quan từ kết quả mà NCT nhận được trợ 
giúp ở mức độ như thế nào, khi sinh hoạt 
trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau. 
4.2.2. Đề xuất vai trò chuyên nghiệp của 
nhân viên CTXH trong mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau 
Từ việc phân tích vai trò bán chuyên 
nghiệp của nhân viên xã hội trong mô hình, 
trong nghiên cứu này tác giả đề xuất hoạt 
động CTXH chuyên nghiệp với vai trò của 
nhân viên CTXH trong mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau, bao gồm 6 vai trò chính: Vai trò 
vận động nguồn lực trợ giúp NCT; vai trò kết 
nối các hoạt động trợ giúp NCT; vai trò biện 
hộ, vận động chính sách trợ giúp NCT; vai trò 
truyền thông, giáo dục cho NCT; vai trò tham 
vấn, tư vấn cho NCT; vai trò chăm sóc, trợ 
giúp NCT. Những vai trò chuyên nghiệp này 
của nhân viên công tác xã hội sẽ giúp cho mọi 
hoạt động của mô hình trở nên hiệu quả và 
thuận lợi hơn, mô hình vận hành có dấu ấn 
của hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp, 
giúp cho mô hình khắc phục được những vấn 
đề tồn tại, để hướng tới xây dựng một mô 
hình chăm sóc - trợ giúp NCT dựa vào cộng 
đồng mang tính bền vững, đáp ứng được 
mong muốn, nguyện vọng của đông đảo NCT 
tại địa phương. 
Hình 1. Vai trò của nhân viên CTXH trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau 
Vai trò vận động nguồn lực trợ giúp 
người cao tuổi: 
Chức năng: Tìm kiếm những nguồn lực 
bên ngoài cộng đồng và chỉ ra những nguồn 
lực bên trong mô hình, nguồn lực từ chính 
NCT và gia đình NCT, để trợ giúp NCT trong 
112 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 55 (4) 2017 
mô hình, giúp họ cải thiện các vấn đề của bản 
thân một cách hiệu quả nhất. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH đảm nhiệm 
vai trò trung gian tìm kiếm nguồn lực bên 
ngoài cộng đồng, từ phía các cơ quan, đơn vị, 
tổ chức, đoàn thể... Phát hiện các nguồn lực 
bên trong từ chính NCT, gia đình NCT và 
trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau, huy 
động tổng hợp các nguồn lực này để trợ giúp 
NCT. 
Vai trò kết nối các hoạt động trợ giúp 
người cao tuổi: 
Chức năng: Kết nối và khai thác, giới 
thiệu cho NCT đang sinh hoạt trong mô hình 
liên thế hệ tự giúp nhau những dịch vụ trợ 
giúp, những chính sách trợ giúp và những tài 
nguyên sẵn có trong mô hình và trong cộng 
đồng, kết nối để trợ giúp cho NCT. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH làm cầu nối 
trung gian để kết nối các nguồn lực, các 
nguồn tài nguyên, các dịch vụ trợ giúp và các 
chính sách trợ giúp xã hội; kết nối NCT với 
các trợ giúp từ bên ngoài cộng đồng và từ 
phía các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể để 
NCT có thể tiếp cận được một cách hiệu quả. 
Vai trò biện hộ, vận động chính sách trợ 
giúp người cao tuổi: 
Chức năng: Giúp bảo vệ quyền lợi cho 
NCT để NCT được hưởng những dịch vụ, 
chính sách trợ giúp mà Nhà nước đã quy định, 
đặc biệt là những NCT bị hạn chế các chức 
năng xã hội; có những khó khăn, hạn chế về 
hiểu biết, về điều kiện sức khỏe (sức khỏe 
yếu, bị khuyết tật...), kể cả trong trường hợp 
NCT bị từ chối những dịch vụ, chính sách trợ 
giúp mà họ nằm trong đối tượng được hưởng, 
thì nhân viên CTXH đều là người đại diện cho 
NCT để biện hộ. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH đại diện cho 
quyền và lợi ích của NCT, bảo vệ những 
quyền lợi mà NCT nằm trong diện được 
hưởng. Những NCT gặp khó khăn và bị hạn 
chế về các chức năng xã hội được nhân viên 
CTXH đại diện để làm việc với các cơ quan, 
đơn vị, tổ chức, đoàn thể mà NCT thuộc đối 
tượng được hưởng chính sách ở đấy. 
Vai trò truyền thông, giáo dục cho 
người cao tuổi: 
Chức năng: Cung cấp, trang bị kiến thức 
- kỹ năng nhằm thay đổi nhận thức, nâng cao 
năng lực cho NCT, giúp tăng cường hiểu biết, 
khả năng tự tin ra quyết định và có năng lực 
để giải quyết những khó khăn của bản thân, để 
tham gia các hoạt động của mô hình liên thế 
hệ tự giúp nhau một cách hiệu quả và thuận 
lợi nhất. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH tổ chức hoạt 
động truyền thông, tập huấn, giáo dục nhằm 
trang bị cho NCT những kiến thức - kỹ năng 
về CSSK, những hiểu biết về chính sách trợ 
giúp xã hội, những kỹ thuật về sản xuất (trồng 
trọt, chăn nuôi trong mô hình), cách xây dựng 
đời sống văn hóa - tinh thần phong phú... Từ 
đó, NCT có thể mang những kiến thức, kỹ 
năng, kỹ thuật được trang bị, để vận dụng hiệu 
quả vào quá trình tham gia các hoạt động của 
mô hình. 
Vai trò tham vấn, tư vấn cho người cao 
tuổi: 
Chức năng: Tham vấn, tư vấn cho những 
NCT có khó khăn về tâm lý xã hội (ví dụ như 
những NCT sống cô đơn, những NCT bị trầm 
cảm...), giúp NCT ứng phó hiệu quả và vượt 
qua được những căng thẳng, khủng hoảng và 
rào cản tâm lý, để có được những suy nghĩ, 
nhận thức và hành vi tích cực, giúp NCT giảm 
bớt thiệt thòi và hòa nhập với cuộc sống tốt 
hơn. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH là người 
trực tiếp thực hiện các hoạt động tham vấn, tư 
vấn cho NCT, thông qua những hoạt động 
giao tiếp, thăm hỏi, động viên... nhằm chia sẻ, 
đồng cảm với những khó khăn của NCT, cùng 
với NCT đề ra những biện pháp trợ giúp tích 
cực giúp NCT hòa nhập cộng đồng tốt hơn, 
tăng cường sự tham gia của những NCT thuộc 
nhóm này vào các hoạt động cộng đồng trong 
mô hình liên thế hệ tự giúp nhau. 
Vai trò chăm sóc, trợ giúp cho người 
cao tuổi: 
 KINH TẾ - XÃ HỘI 113 
Chức năng: Chăm sóc, trợ giúp những 
NCT có khó khăn, hạn chế do sức khỏe yếu, 
bệnh tật nhiều, có những tổn thương tâm lý, bị 
khuyết tật... Cung cấp dịch vụ chăm sóc, trợ 
giúp và kết nối những dịch vụ chăm sóc, trợ 
giúp mà NCT có thể tiếp cận được. 
Nhiệm vụ: Nhân viên CTXH phối hợp với 
gia đình NCT thực hiện các hoạt động chăm 
sóc, trợ giúp NCT tại nhà, những NCT sống 
cô đơn, hoàn cảnh khó khăn thì cung cấp và 
kết nối cho họ những dịch vụ chăm sóc, trợ 
giúp thường xuyên hơn. Từ đó, giúp NCT 
giảm bớt những thiệt thòi, khó khăn, hòa nhập 
với cộng đồng; những trường hợp NCT có các 
khó khăn và hạn chế về sức khỏe, nhân viên 
CTXH phối hợp với NCT trong mô hình liên 
thế hệ tự giúp nhau tổ chức các hoạt động 
thăm hỏi, động viên, quan tâm lẫn nhau, giúp 
NCT sống hòa nhập và thoải mái hơn. 
Như vậy, vai trò chuyên nghiệp của nhân 
viên CTXH trong mô hình liên thế hệ tự giúp 
nhau bao hàm tổng hợp rất nhiều vai trò như: 
Vai trò vận động nguồn lực trợ giúp NCT; vai 
trò kết nối các hoạt động trợ giúp NCT; vai 
trò biện hộ, vận động chính sách trợ giúp 
NCT; vai trò truyền thông, giáo dục cho NCT; 
vai trò tham vấn, tư vấn cho NCT; vai trò 
chăm sóc, trợ giúp NCT. Việc thực hiện 
thường xuyên các vai trò này giúp cho hoạt 
động can thiệp - trợ giúp NCT đạt được hiệu 
quả cao hơn. Trong định hướng phát triển của 
mô hình cần có những hoạt động đào tạo, tập 
huấn nghiệp vụ CTXH thường xuyên cho đội 
ngũ cán bộ, nhân viên, tình nguyện viên - gọi 
chung là nhân viên xã hội, nhằm nâng cao 
kiến thức - kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và 
năng lực làm việc của đội ngũ này. 
5. Kết luận và khuyến nghị 
5.1. Kết luận 
Trong nghiên cứu này tác giả đi sâu phân 
tích và làm rõ thực trạng hoạt động của mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau của NCT, sự 
tham gia của NCT vào các hoạt động của mô 
hình như: Hoạt động CSSK, hoạt động hỗ trợ 
sinh kế tạo việc làm, hoạt động tổ chức giải trí 
- TDTT và hoạt động truyền thông nâng cao 
nhận thức về chính sách cho NCT; phân tích 
vai trò bán chuyên nghiệp của nhân viên xã 
hội trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau, 
trên cơ sở thực trạng thực hiện vai trò bán 
chuyên nghiệp này của nhân viên xã hội, 
nghiên cứu đề xuất vai trò chuyên nghiệp của 
nhân viên CTXH trong mô hình. Từ kết quả 
nghiên cứu tác giả đưa ra những kết luận sau: 
Thứ nhất, hoạt động CSSK cho NCT 
trong mô hình liên thế hệ tự giúp nhau được 
thực hiện khá hiệu quả, thu hút được tất cả 
NCT trong mô hình tham gia. 
Thứ hai, hoạt động hỗ trợ sinh kế tạo việc 
làm cho NCT trong mô hình liên thế hệ tự 
giúp nhau là hoạt động thu hút được khá đông 
NCT tham gia, thu nhập và mức sống của 
NCT ngày càng được cải thiện. 
Thứ ba, hoạt động giải trí - TDTT đã thu 
hút được tất cả NCT trong mô hình liên thế hệ 
tự giúp nhau tham gia, sau khi tham gia hoạt 
động giải trí - TDTT do mô hình tổ chức NCT 
đã có nhiều thay đổi tích cực về tinh thần, sức 
khỏe và thể chất nói chung. 
Thứ tư, hoạt động truyền thông nâng cao 
nhận thức về chính sách đã đáp ứng nhu cầu 
về tiếp cận chính sách của NCT trong mô 
hình, đa phần NCT được trợ giúp pháp lý, 
được giải quyết những khó khăn và tiếp cận 
chính sách một cách thuận lợi hơn. 
Thứ năm, vai trò của cán bộ, nhân viên 
(nhân viên xã hội) trong mô hình liên thế hệ 
tự giúp nhau được thực hiện rất có hiệu quả, 
vai trò này được khẳng định qua 4 hoạt động 
trợ giúp của mô hình. Trong quá trình trợ giúp 
NCT trong mô hình, cán bộ và nhân viên mô 
hình (nhân viên xã hội) đã thực hiện rất tốt vai 
trò của mình. 
5.2. Khuyến nghị 
Đối với Ban Quản lý mô hình liên thế hệ 
tự giúp nhau tại huyện Hoằng Hóa 
(Thanh Hóa): 
Tăng cường các hoạt động phối hợp giữa 
cán bộ đang làm việc trong mô hình với cán 
bộ chính quyền địa phương, để hoạt động can 
114 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 55 (4) 2017 
thiệp - trợ giúp NCT đạt hiệu quả cao hơn, 
bền vững hơn. 
Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn 
nâng cao năng lực về nghiệp vụ chuyên môn 
về quản lý mô hình, can thiệp - trợ giúp NCT 
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên đang làm việc 
mô hình liên thế hệ tự giúp nhau. 
Đẩy mạnh phát triển các hoạt động của 
mô hình liên thế hệ tự giúp nhau theo chiều 
sâu, trong đó phối hợp vai trò cộng tác từ 
nhiều phía như: gia đình, chính quyền địa 
phương, các tổ chức, ban ngành, đoàn thể, 
cộng tác viên, tình nguyện viên trong và ngoài 
mô hình. Trong đó chú trọng vai trò của gia 
đình và lấy vai trò của gia đình làm trung tâm, 
bởi việc chăm sóc người cao tuổi là trách 
nhiệm đặc biệt của gia đình, nhằm tạo nền 
tảng vững chắc cho hoạt động chăm sóc, hỗ 
trợ lâu dài. 
Đa dạng hóa hình thức và hoạt động can 
thiệp - trợ giúp cho NCT thuộc các nhóm tuổi 
khác nhau; cần có những chính sách trợ giúp 
phù hợp đối với từng nhóm NCT, cụ thể: 
nhóm tuổi từ 60-69 cần chú trọng việc “phát 
huy là chính”; người cao tuổi thuộc nhóm tuổi 
từ 70-79 cần tập trung “vừa chăm sóc vừa 
phát huy”; người cao tuổi thuộc nhóm tuổi từ 
80 trở lên lấy việc “chăm sóc là chính”. Nhằm 
có những hình thức can thiệp - trợ giúp đa 
dạng, hiệu quả, phù hợp với đặc thù riêng của 
từng nhóm NCT. 
Đối với nhân viên công tác xã hội trong 
mô hình liên thế hệ tự giúp nhau: 
Thường xuyên tham gia các hoạt động 
đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng, 
chuyên môn nghiệp vụ trong can thiệp - trợ 
giúp NCT. Đặc biệt là, trong lĩnh vực công tác 
xã hội. 
Tăng cường các hoạt động giám sát, các 
hoạt động thực địa dưới địa bàn để hỗ trợ 
NCT tốt hơn trong hoạt động sinh kế tạo việc 
làm, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động sản 
xuất cho NCT. 
Cập nhật và ứng dụng các thông tin, kiến 
thức, kỹ năng, kỹ thuật mới để tập huấn, chia 
sẻ, can thiệp - trợ giúp cho NCT tốt hơn. 
Đối với gia đình người cao tuổi: 
Gia đình NCT cần tạo điều kiện thuận lợi 
và giúp đỡ NCT trong gia đình tiếp cận các 
chương trình, hoạt động chăm sóc - trợ giúp 
của mô hình một cách tốt nhất. Phối hợp với 
cán bộ, nhân viên mô hình vận động NCT 
tham gia tích cực vào các hoạt động của mô 
hình liên thế hệ tự giúp nhau. 
Đối với người cao tuổi: 
Người cao tuổi cần chủ động tham gia 
hoạt động do mô hình liên thế hệ tự giúp nhau 
tổ chức. Trang bị, cập nhật các kiến thức, kỹ 
năng, kỹ thuật mà cán bộ, nhân viên trong mô 
hình tuyên truyền, chia sẻ, tập huấn... Nhằm 
tạo nền tảng, điều kiện tốt cho hoạt động can 
thiệp - trợ giúp của mô hình diễn ra hiệu quả 
T i iệu tham khảo 
Nguyễn Văn Đồng (2014). Câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau - Mô hình chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi. 
Tạp chí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 132, 69-72. 
Nguyễn Văn Đồng (2015). Nghề công tác xã hội với người cao tuổi, triển vọng và thách thức. Tạp chí Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam, 139, 8-11. 
Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế (2013). Chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng. Dự án điều tra cơ bản, 
Thanh Hóa. 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_lien_the_he_tu_giup_nhau_cua_nguoi_cao_tuoi_va_vai_t.pdf