Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội: Đối phó với nghèo đói theo quan điểm toàn cầu

Tóm tắt: Bài viết phân tích mối quan hệ giữa trợ giúp xã hội với nghèo đói

toàn cầu; nghiên cứu so sánh về các nhà nước phúc lợi ở những nước phát triển

với những nước có thu nhập thấp và trung bình. Các phân tích thực nghiệm

được dựa trên số liệu so sánh thu nhập ở hộ gia đình tại 36 nước trong năm

2005, áp dụng phương pháp mô tả và kỹ thuật hồi quy để đánh giá vai trò của

bảo trợ xã hội trong nghèo đói toàn cầu.

pdf 11 trang yennguyen 900
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội: Đối phó với nghèo đói theo quan điểm toàn cầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội: Đối phó với nghèo đói theo quan điểm toàn cầu

Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội: Đối phó với nghèo đói theo quan điểm toàn cầu
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 17
MỨC ĐỘ VÀ MỤC TIÊU CỦA NHỮNG 
CHUYỂN GIAO XÃ HỘI: ĐỐI PHÓ VỚI NGHÈO ĐÓI 
THEO QUAN ĐIỂM TOÀN CẦU(1) 
TOMMY FERRARINI* 
KENNETH NELSON** 
JOAKIM PALME*** 
Tóm tắt: Bài viết phân tích mối quan hệ giữa trợ giúp xã hội với nghèo đói 
toàn cầu; nghiên cứu so sánh về các nhà nước phúc lợi ở những nước phát triển 
với những nước có thu nhập thấp và trung bình. Các phân tích thực nghiệm 
được dựa trên số liệu so sánh thu nhập ở hộ gia đình tại 36 nước trong năm 
2005, áp dụng phương pháp mô tả và kỹ thuật hồi quy để đánh giá vai trò của 
bảo trợ xã hội trong nghèo đói toàn cầu. 
Từ khóa: An sinh xã hội, nghèo đói toàn cầu, bảo trợ xã hội. 
Sau hàng thập kỷ với nhiều tranh cãi, 
giờ đây vai trò của an sinh xã hội đối với 
vấn đề giảm nghèo đói trở nên rõ ràng 
hơn trong chương trình phát triển xã hội 
toàn cầu. Năm 2009, Liên Hợp Quốc 
phát động sáng kiến “Diễn đàn bảo trợ xã 
hội” nhằm tạo điều kiện cho công dân 
toàn cầu tiếp cận đến các dịch vụ xã hội 
cơ bản và đảm bảo thu nhập. Năm 2012, 
Ngân hàng Thế giới thông qua “Chiến 
lược Bảo trợ xã hội và Lao động” hoạt 
động trong 10 năm, kêu gọi tăng cường 
chương trình dịch vụ xã hội ở các nước 
có thu nhập thấp và trung bình. Trong 
khi đó, một số nước đang phát triển cũng 
đề ra chương trình quốc gia hướng tới 
phân phối lại nguồn thu nhập, thường có 
sự trợ giúp của nước ngoài. 
Mặc dù các tranh luận về bảo trợ xã 
hội ở các nước đang phát triển không 
chỉ giới hạn đối với các nước có thu 
nhập thấp,(1hiện nay trợ giúp phổ quát và 
các chương trình an sinh xã hội đã bao 
trùm cả khu vực phi chính thức và người 
ta vẫn quan tâm đến các nhóm đối tượng 
có thu nhập thấp trong chính sách bảo 
trợ xã hội. Độ lớn của trợ cấp theo thu 
(1) Bài viết là một báo cáo khoa học, được thực 
hiện trong khuôn khổ dự án “Cơ hội cho chính 
sách bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Ứng phó với 
toàn cầu hóa, thay đổi về dân số và nghèo đói 
theo kinh nghiệm của Thụy Điển” (2011 - 
2013) do Viện Nghiên cứu Tương lai (Thụy 
Điển) chủ trì, tổ chức với sự phối hợp của Viện 
Nghiên cứu Châu Âu thuộc Viện Hàn lâm Khoa 
học xã hội Việt Nam, do SIDA tài trợ. 
(*), (**) Viện Nghiên cứu xã hội Thụy Điển 
(Swedish Institute for Social Research). 
(***) Trường Đại học Quốc gia Uppsala 
(Government Uppsala University). 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 18
nhập ngày càng ít được đề cập đến; đôi 
khi bị bỏ qua hoàn toàn. Lấy một ví dụ, 
trong chính sách mới của Ngân hàng 
Thế giới (2012) đối với bảo trợ xã hội, 
không một mục nào nói về độ lớn của 
trợ giúp trong các chương trình, trong 
khi đó nhu cầu tập trung trợ giúp cho 
các nhóm đối tượng có thu nhập thấp 
thường được đề cập. Việc chỉ chú trọng 
một phía đến các đối tượng có thu nhập 
thấp trong chương trình phát triển xã hội 
toàn cầu, nhất là khi các nhà khoa học 
cho thấy cần phải có cái nhìn đa chiều 
đối với vấn đề an sinh xã hội, cần phải 
được xem xét lại. 
Ngay từ đầu chúng tôi muốn nhấn 
mạnh rằng, chúng tôi không phản đối 
quan điểm bảo trợ xã hội có đối tượng. 
Ngược lại, các chương trình có đối 
tượng có thể giúp các gia đình nghèo đói 
và họ tạo thành yếu tố thiết yếu trong 
toàn bộ hệ thống bảo trợ xã hội. Chúng 
tôi cũng không muốn thách thức tầm 
quan trọng của trợ giúp và an sinh xã 
hội mang tính phổ quát đối với phát 
triển xã hội. Chúng tôi cho rằng các 
cuộc thảo luận về những mối quan hệ 
giữa bảo trợ xã hội với đói nghèo toàn 
cầu đã bỏ qua mức độ trợ giúp trong các 
chương trình xã hội. Chúng tôi sẽ chỉ ra 
mặt tốt của quan điểm đa chiều đối với 
bảo trợ xã hội khi gắn kết sự phân phối 
và mức độ trợ giúp xã hội vào một hệ 
thống đồng nhất. Giả thiết của chúng tôi 
là mức độ trợ giúp dựa theo thu nhập 
cũng quan trọng như phân phối trợ giúp 
xã hội trong bối cảnh liên quốc gia của 
đói nghèo toàn cầu. 
Tiếp theo chúng tôi xem xét cuộc 
tranh luận về bảo trợ xã hội và nghèo 
đói trong nghiên cứu phát triển xã hội, 
cũng như rà soát lại công trình của các 
học giả liên quan đến phân phối theo thu 
nhập ở những nước phát triển. Dưới đây 
chúng tôi giới thiệu số liệu và các kết 
quả thực nghiệm. 
Bảo trợ xã hội và phát triển 
Tranh luận về tính đối tượng của bảo 
trợ xã hội là một vấn đề cũ trong nghiên 
cứu ở các nước phát triển, bao gồm cả 
những ý kiến ủng hộ cũng như phản đối 
tính phổ quát trong lĩnh vực này. Giờ đây 
vấn đề này đang nổi lên trong chương 
trình phát triển xã hội toàn cầu. Các 
chính sách xã hội phổ quát được áp dụng 
ở các nước phương Tây sau Chiến tranh 
thế giới thứ II xuất phát từ sự chỉ trích 
các điều luật dành cho người nghèo hoạt 
động kém hiệu quả, nhưng phải nhiều 
thập kỷ sau thì các nghiên cứu so sánh 
mới cho thấy hạn chế của chính sách 
hướng về các đối tượng nhằm làm giảm 
nghèo đói ở các nước phát triển. Trong 
bối cảnh này, Korpi và Palme (1998) đã 
sử dụng dữ liệu từ giữa những năm 1980 
để cho thấy rằng, quá trình tái phân phối 
diễn ra chậm hơn ở những nước giàu có, 
nơi đó trợ giúp theo thu nhập tập trung 
vào nhóm có thu nhập nghèo hơn và bất 
bình đẳng về thu nhập cao hơn. 
Bảo trợ xã hội ở những nước giàu 
Kể từ những năm 1980, một số nước 
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 19
giàu đã có những thay đổi to lớn trong 
hệ thống bảo trợ xã hội, thường thể hiện 
dưới dạng cắt giảm đối tượng được nhận 
hỗ trợ và đòi hỏi tiêu chí nghiêm ngặt 
hơn. Trong khi đó, người ta chú trọng 
hơn đến các hình thức trợ giúp xã hội có 
định hướng đối tượng. Sự tăng cường hỗ 
trợ cho trẻ em là một ví dụ bất ngờ, khi 
một loạt các nước giàu có thay thế trợ 
giúp phổ quát bằng tín dụng thuế cho trẻ 
em dựa vào thu nhập. Trợ giúp cho 
những đối tượng trẻ em có thu nhập thấp 
vẫn mang tính chủ đạo ở nhiều nước 
đang phát triển. 
Có thể còn quá sớm khi nói về sự 
chuyển đổi lớn lao trong các ưu tiên tái 
phân phối, tức là sự dịch chuyển từ các 
chương trình phổ quát và an sinh xã hội 
nổi lên cùng với sự lan tỏa của khái 
niệm công dân xã hội trong những thập 
kỷ sau chiến tranh sang việc đối phó 
theo đối tượng có thu nhập thấp và 
nghèo. Tuy nhiên, rõ ràng là, các khoản 
chi cho trợ giúp thông qua thẩm định tài 
sản đã tăng mạnh kể từ những năm 
1980. Ở các nước thuộc Tổ chức Hợp 
tác và Phát triển kinh tế (OECD), tỉ 
trọng của nguồn chi này trong GDP tăng 
gần gấp đôi từ năm 1980 đến 2000. Ở 
nhiều nước Châu Âu, xu thế này vẫn 
tiếp tục. Việc tăng cường sử dụng định 
hướng theo đối tượng ở các nước giàu 
phản ánh tác động của các tư tưởng tân 
tự do trong giới lập pháp và ảnh hưởng 
lớn hơn của xu hướng tái hàng hoá trong 
cải cách bảo trợ xã hội. Các động cơ 
tiềm tàng khác đang làm thay đổi hình 
thái dân số và sự quay lại của thất 
nghiệp hàng loạt, đặc biệt là tỉ lệ thất 
nghiệp dài hạn kéo dài liên tục ở nhiều 
nước Châu Âu sau khủng hoảng dầu mỏ 
những năm 1970. 
Tầm quan trọng của chính sách 
hướng tới đối tượng dường như vẫn tiếp 
tục tăng lên ở những nước phát triển và 
là một trong những hậu quả của khủng 
hoảng tài chính hiện nay. Trong những 
giai đoạn căng thẳng về tài khoá, việc 
thẩm tra tài sản trở thành nguyên tắc 
hàng đầu của cải cách chính sách xã hội. 
Sự phát triển ở Châu Âu cung cấp nhiều 
ví dụ cho thấy, các quốc gia ở đây đã 
củng cố nguyên tắc hướng tới đối tượng 
của bảo trợ xã hội, bao gồm cả các biện 
pháp thoát nghèo. Những cải cách xã 
hội này thường được khuôn trong vấn đề 
cải thiện hiệu quả trợ giúp xã hội. Liệu 
có xu hướng tăng cường định hướng đối 
tượng trong xoá nghèo ở các nước giàu? 
Rõ ràng là, khó có thể đưa ra một câu trả 
lời khẳng định cho câu hỏi mang tính cơ 
bản này. Những nghiên cứu trước đây 
liên quan đến cơ chế tái phân phối của 
nhà nước phúc lợi và hình thái nghèo 
trên toàn quốc đã đưa ra những nguyên 
nhân dẫn đến mối quan tâm về vấn đề 
này, nhất là từ khi tình trạng nghèo và 
bất bình đẳng thu nhập ở các nước giàu 
tăng lên cùng với việc tổ chức lại nhà 
nước phúc lợi. 
Dường như hai khuynh hướng tinh 
giản nhà nước phúc lợi và gia tăng bất 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 20
bình đẳng không liên quan đến nhau, và 
có lẽ những thay đổi trong bảo trợ xã 
hội ở những nước giàu đã làm suy yếu 
mối quan hệ giữa tái phân phối theo đối 
tượng và tái phân phối theo thu nhập. 
Có lẽ sự phân biệt giữa định hướng đối 
tượng với tính phổ quát đã không còn 
được quan tâm đặc biệt trong vấn đề tái 
phân phối. Whiteford (2008) đang tiếp 
tục vấn đề này và lập luận rằng, mối 
liên hệ giữa bảo trợ xã hội và tái phân 
phối ở những nước giàu đã quay trở lại 
và các chương trình có định hướng đối 
tượng hiệu quả hơn so với những 
chương trình tái phân phối theo thu 
nhập, nhờ đó làm giảm bất bình đẳng 
thu nhập ở các nước OECD. 
Việc phân phối dịch vụ xã hội và 
định hướng tới nhóm đối tượng có thu 
nhập thấp được bảo trợ xã hội cũng 
được thực hiện ở cấp độ Cộng đồng 
Châu Âu (EU), theo đánh giá gần đây 
của EU về chiến lược tăng trưởng 2020. 
Mặc dù EU thừa nhận phải nỗ lực nhiều 
hơn nữa để tăng cường hiệu suất của 
bảo trợ xã hội thông qua nhóm đối 
tượng, các nước thành viên EU cũng 
được khuyến khích tăng mức trợ giúp ở 
những nơi bảo trợ xã hội kém phát triển. 
Khía cạnh này của chương trình phát 
triển xã hội trong EU rất quan trọng, bởi 
vì người ta ngày càng nhận thức được 
rằng các chương trình chỉ định hướng 
nhóm đối tượng thực hiện xóa nghèo 
kém hiệu quả và rằng mức độ trợ giúp 
cũng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, 
khi các học giả và những người lập chính 
sách chuyển mối quan tâm từ bối cảnh 
Châu Âu để đánh giá chiến lược giảm 
nghèo ở các nước có thu nhập thấp và 
trung bình thì quan điểm đánh giá đa 
chiều này đã biến mất. Phần lớn tranh 
luận về bảo trợ xã hội và nghèo đói ở các 
nước đang phát triển đều quan tâm đến 
các nguyên tắc thiết kế chính sách về 
phân phối và đối tượng hưởng dịch vụ xã 
hội, mà không quan tâm đến mức độ trợ 
giúp và độ lớn của thu nhập được hỗ trợ. 
Cải cách trợ giúp xã hội ở các nước 
đang phát triển 
Bảo trợ xã hội theo đối tượng là 
nguyên tắc hàng đầu trong cải cách 
chính sách xã hội ở những nước có thu 
nhập thấp và trung bình. Nguyên tắc này 
chịu tác động của kết hợp những học 
thuyết kinh tế vĩ mô và chính sách trợ 
giúp. Chương trình được biết đến nhiều 
nhất trong trường hợp này là hệ thống 
hỗ trợ bằng tiền mặt có điều kiện, được 
phổ biến rộng rãi ở các nước Mỹ Latinh. 
Hỗ trợ tiền mặt có điều kiện cho các hộ 
nghèo đáp ứng được các yêu cầu thường 
liên quan đến chăm sóc sức khoẻ trẻ em 
hoặc giáo dục. 
Những lập luận kinh tế nhấn mạnh 
định hướng đối tượng của bảo trợ xã hội 
ở những nước có thu nhập thấp và trung 
bình chú trọng vào tình trạng căng thẳng 
tài chính và coi bảo trợ xã hội có ảnh 
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. 
Về mặt viện trợ phát triển, có sự dịch 
chuyển từ hỗ trợ cho các nước đang phát 
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 21
triển sang trực tiếp giúp người nghèo ở 
những nước này, cũng tức là chuyển sang 
giúp theo nhóm đối tượng. Đối với nhiều 
nước, tài trợ là vấn đề có hàm ý chính trị, 
thể hiện nguồn tài trợ chỉ thực sự có hiệu 
quả khi đến được với người nghèo. Định 
hướng theo đối tượng này hiện đang là 
mục tiêu của nhiều tranh luận. 
Những tranh luận về bảo trợ xã hội và 
nghèo đói ở những nước đang phát triển 
hiện đang được mở rộng ra ngoài những 
lợi ích của bảo trợ theo đối tượng, mặc 
dù phải thừa nhận rằng còn có những 
nguyên tắc khác có thể đóng góp cho 
phát triển xã hội. Sự mở rộng phạm vi 
có thể nhìn thấy rõ khi Ngân hàng Thế 
giới thông qua việc xem lại cách tiếp 
cận đối với bảo trợ xã hội ở những nước 
đang phát triển. Nhiều thập kỷ qua, cách 
tiếp cận này ủng hộ các chương trình hỗ 
trợ bằng tiền mặt có điều kiện và các 
hình thức khác của chương trình giảm 
nghèo theo đối tượng. Ngân hàng Thế 
giới có tầm ảnh hưởng trong giai đoạn 
đầu của cải cách trợ giúp bằng tiền có 
điều kiện ở Mỹ Latinh, cung cấp tư vấn 
cũng như hỗ trợ tài chính và kỹ thuật. 
Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới hiện nay 
dường như thừa nhận rằng, có thể cần 
những biện pháp bổ sung để đối phó với 
nghèo đói toàn cầu. Kể từ những năm 
1980, nghèo đói đã giảm ở một số nước 
có thu nhập thấp và trung bình, trong 
khi đó hàng triệu người tiếp cận được 
rất nhiều loại hỗ trợ khác nhau. 
Trong chiến lược mới về bảo trợ xã 
hội ở các nước đang phát triển, Ngân 
hàng Thế giới dường như đã chấp nhận 
một thái độ mở hơn, thừa nhận vai trò 
của các chương trình an sinh xã hội phổ 
quát. Tuy nhiên, định hướng đối tượng 
vẫn là chiến lược chủ đạo, chỉ có điều 
người ta không nhấn mạnh vào số tiền 
mà người nghèo thật sự được nhận. Trên 
thực tế, ngoài một điều khoản nhỏ liên 
quan đến lương hưu cho người già, 
chúng ta không thể tìm thấy ở đâu trong 
chiến lược mới của Ngân hàng Thế giới 
về Bảo trợ xã hội và Lao động đề cập 
đến vấn đề mức tiền trợ cấp. Chúng tôi 
tin rằng, việc không đề cập đến số tiền 
bảo trợ trong các chương trình trợ giúp 
xã hội là không hợp lý, nhất là khi 
chương trình hướng đến thấu hiểu mối 
quan hệ giữa bảo trợ xã hội và nghèo 
đói toàn cầu. 
Lựa chọn dữ liệu và phương pháp 
Nghiên cứu xuyên quốc gia về phân 
phối thu nhập đòi hỏi dữ liệu so sánh có 
chất lượng cao. Trung tâm dữ liệu xuyên 
quốc gia ở Luxembourg (LIS) là một cơ 
quan nghiên cứu quốc tế phỏng theo cơ 
sở dữ liệu thu nhập quốc gia ở quy mô 
nhỏ. Nghiên cứu của chúng tôi gồm 36 
nước với dữ liệu so sánh thu nhập quy 
mô nhỏ trong năm 2005: Australia, Áo, 
Belgium, Brazil, Canada, Colombia, Séc, 
Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, 
Hy Lạp, Guatemala, Hungary, Ireland, 
Israel, Italy, Luxembourg, Mexico, Hà 
Lan, Norway, Peru, Ba Lan, Romania, 
Nga, Cộng hoà Slovak, Slovenia, Hàn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 22
Quốc, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Thụy 
Sĩ, Đài Loan, Anh, Mỹ, Uruguay. 
Chúng tôi xây dựng hai chỉ số từ dữ 
liệu của LIS để phân tích vai trò của bảo 
trợ xã hội đối với nghèo đói toàn cầu: 
một chỉ số về hồ sơ phân phối và chỉ số 
kia về mức độ hỗ trợ. Hỗ trợ thu nhập 
bao gồm các hỗ trợ từ dịch vụ công 
cộng cũng như từ nghề nghiệp, do đó 
chúng ta không thể tách hai thành tố này 
trong dữ liệu LIS đối với các nước có 
thu nhập thấp và trung bình. Hồ sơ phân 
phối trợ giúp thu nhập rất phân tán. Nó 
định lượng các trợ giúp tập trung vào 
phân phối thu nhập khi hộ gia đình được 
đánh giá theo mức thu nhập, bao gồm cả 
thu nhập từ lao động và thu nhập từ tài 
sản. Hồ sơ được xây dựng dựa trên hệ số 
tập trung của hỗ trợ thu nhập, phân bố từ 
-1 đến +1. Giá trị âm cho thấy hỗ trợ thu 
nhập thấp hơn một nửa. Giá trị dương 
cho thấy hỗ trợ thu nhập cao hơn một 
nửa. Các giá trị gần với 0 cho thấy hỗ 
trợ thu nhập được phân bổ đồng đều. 
Kích thước của hỗ trợ thu nhập được 
định lượng trong mối quan hệ với thu 
nhập của đối tượng. Thu nhập của hộ 
được tiêu chuẩn hoá dựa trên độ lớn của 
hộ gia đình. 
Nghèo đói được định lượng theo tiêu 
chuẩn quốc gia tương ứng với mức thấp 
hơn mức 60% thu nhập trung bình của 
toàn dân. Đây là mức do EU quy định 
để xác định những người có nguy cơ rơi 
vào nghèo đói. Mức nghèo tương ứng 
(40 và 50% của thu nhập trung bình) 
cũng được thử nghiệm nhưng không giải 
thích sự thay đổi trong kết quả. Nghèo 
đói được tính theo cá nhân, trong khi thu 
nhập tính theo hộ gia đình. Mặc dù có 
thể còn nhiều cách tiếp cận tốt hơn để 
xác định mức nghèo, đặc biệt ở những 
nước thu nhập thấp, chẳng hạn mức do 
Ngân hàng Thế giới đề ra là 1-2 đô la 
Mỹ/ngày, nhưng chúng tôi cho rằng, 
quan điểm tương đối về thu nhập có ý 
nghĩa hơn cách tiếp cận toàn cầu khi cả 
những nước giàu và nước có thu nhập 
trung bình cũng được tính. Cần phải 
nhận thấy rằng, mức nghèo tương đối 
được sử dụng trong nghiên cứu này 
tương ứng với mức thu nhập rất thấp ở 
những nước nghèo nhất. Chẳng hạn ở 
Ấn Độ, 60% thu nhập trung bình của hộ 
gia đình bằng 1,38 đô la/ngày, theo tiêu 
chí sức mua do Ngân hàng Thế giới mới 
đưa ra về mức nghèo ở các nước có thu 
nhập thấp. Con số này có thể so với mức 
nghèo trung bình ở các nước đang phát 
triển và có nền kinh tế chuyển đổi, 
tương ứng với 2 đô la/ngày. Rõ ràng là, 
mức nghèo tương đối tương ứng 40 và 
50% thu nhập trung bình hộ gia đình 
còn thấp hơn chuẩn quốc tế để xác định 
mức nghèo ở những khu vực nghèo hơn 
trên thế giới. 
Kết quả thực nghiệm 
Chuẩn nghèo xác định theo thu nhập 
tương đối khác nhau ở các quốc gia 
khác nhau, từ một phần ba dân số như ở 
Peru tới một phần mười ở Thụy Điển 
nếu sử dụng mức thu nhập dưới 60% thu 
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 23
nhập trung bình. Hình 1a-b cho thấy, 
mối quan hệ có hai biến số đối với 
nghèo là hồ sơ phân phối và mức trợ 
giúp thu nhập ở 36 nước. Cả hai phương 
diện này đều liên quan tới nghèo. Hồ sơ 
phân phối có tương quan tỉ lệ thuận với 
nghèo, tức là càng nhiều trợ giúp tập 
trung vào nửa có thu nhập thấp thì mức 
nghèo sẽ giảm đi (Hình 1a). Kết quả này 
ủng hộ cho việc tập trung vào nhóm đối 
tượng trong các thảo luận về phát triển 
xã hội toàn cầu. 
Một số quốc gia đi lệch khỏi mô hình 
phổ quát. Tỉ lệ thuận ở Brazil, Colombia, 
Estonia, Guatemala, Peru và Đài Loan 
cho thấy hỗ trợ thu nhập đang giảm đi, 
có thể là do sự hòa trộn giữa trợ giúp 
công cộng và trợ giúp nghề nghiệp trong 
bối cảnh khu vực kinh tế phi chính thức 
có phạm vi khá lớn. Các trợ giúp theo 
đối tượng dành cho các công dân bị tổn 
thương nhất theo những tiêu chí nhất 
định, nơi những người thuộc nửa thu 
nhập phía trên được nhận những trợ 
giúp nghề nghiệp rộng rãi hơn. Mặc dù 
các nước nói trên tạo nên một nhóm tách 
biệt và có thể xem là những trường hợp 
điển hình và đều không ảnh hưởng 
mạnh tới những phát hiện quan trọng 
của chúng tôi. 
Hình 1a-b. Mối tương quan giữa nghèo tương đối, hồ sơ phân phối 
và mức độ hỗ trợ theo thu nhập ở 36 quốc gia, năm 2005. 
1a. Nghèo và hồ sơ phân phối hỗ trợ theo thu nhập 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 24
1b. Nghèo và mức độ hỗ trợ theo thu nhập 
Nguồn: LIS. 
Mức độ trợ giúp theo thu nhập có tỉ 
lệ nghịch với nghèo đói. Do đó, càng 
nhiều tiền chi cho trợ giúp xã hội thì 
mức nghèo đói càng giảm (Figure 1b). 
Trong đồ thị này, các quốc gia phân bố 
đồng đều hơn dọc theo đường chéo, 
phù hợp với dữ liệu hơn so với hồ sơ 
phân phối trợ giúp theo thu nhập. Tuy 
nhiên cho đến nay, chúng ta chỉ mới 
phân tích mối quan hệ hai biến số, mối 
tương quan giữa hai tham số. Chúng ta 
còn phải tính toán tác động riêng của 
hồ sơ phân phối và trợ giúp theo thu 
nhập, sau khi đã đưa các biến số khác 
về hằng số. Sau đó cần phải dựng biểu 
đồ các điểm để thấy được mối quan hệ 
giữa biến độc lập và biến phụ thuộc để 
có thể kiểm soát tác động của các nhân 
tố bổ sung. 
Hình 2a-b cho thấy tác động riêng 
biệt đối với nghèo đói của hồ sơ phân 
phối và mức độ trợ giúp theo thu nhập, 
đồng thời kiểm soát tác động của các 
nhân tố chính sách khác. Ngoài ra, 
chúng tôi kiểm soát GDP để xác định 
tăng trưởng kinh tế của các nước. Khi 
mức trợ giúp theo thu nhập và GDP đã 
được tính đến trong phép hồi quy như 
những nhân tố tác động, hồ sơ phân phối 
không thể nắm bắt được và mối quan hệ 
của nó với nghèo đói đã mất đi (Hình 
2a). Các quốc gia phân bố rải rác dọc 
theo đường chéo không cho thấy một 
định hướng rõ ràng. 
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 25
Hình 2a-b. Biểu đồ về nghèo đói theo thu nhập tương đối, mối quan hệ 
giữa hồ sơ phân phối và mức hỗ trợ theo thu nhập ở 36 quốc gia, năm 2005 
2a. Nghèo đói và hồ sơ phân phối hỗ trợ theo thu nhập 
2b. Nghèo đói và mức hỗ trợ theo thu nhập 
Chú thích: Trục Y cho thấy các nước ở xa đường chéo thể hiện mức độ nghèo đói giảm dần 
ngược với các biến số độc lập, trừ hồ sơ phân phối hoặc mức độ trợ cấp theo thu nhập. Trục X 
cho thấy các nước ở xa ngược với mức độ trợ giúp theo thu nhập (hoặc hồ sơ phân phối) và GDP. 
Nguồn: LIS. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 26
Khi chúng tôi thực hiện phân tích 
tương tự đối với mức độ trợ giúp theo 
thu nhập, tương quan tỉ lệ nghịch với 
nghèo đói vẫn còn hiện diện (Hình 
2b). Như vậy, thậm chí sau khi kiểm 
soát hồ sơ phân phối và GDP, độ lớn 
của trợ giúp theo thu nhập chiếm một 
phần đáng kể trong việc làm phân hoá 
mức nghèo đói giữa các quốc gia ở 
mức độ toàn cầu. Về mặt giải thích 
mô hình của nghèo đói toàn cầu, độ 
lớn của trợ giúp theo thu nhập đóng 
vai trò quan trọng. 
Nghiên cứu trao đổi 
Nghiên cứu này đề cập đến một vấn đề 
đã cũ nhưng hiện quay trở lại trong quá 
trình hoạch định và phân tích chính sách: 
việc phân phối và độ lớn của trợ giúp xã 
hội có tác động thế nào đến nghèo đói 
toàn cầu? Với dữ liệu về thu nhập cấp vi 
mô ở 36 quốc gia, chúng tôi có thể trả lời 
cho câu hỏi này sau khi phân tích vai trò 
của hai chỉ báo: hồ sơ phân phối và độ lớn 
của hỗ trợ theo thu nhập. 
Phát hiện chung cho thấy mức trợ 
giúp theo thu nhập có tác động quan 
trọng đối với giảm nghèo đói hơn hồ sơ 
phân phối. Hỗ trợ theo thu nhập càng 
lớn thì giảm nghèo đói hiệu quả hơn. 
Việc định hướng đối tượng không phải 
là yếu tố quan trọng nhất của bảo trợ xã 
hội nếu mục tiêu của nó là nhằm giảm 
nghèo đói. Một nhân tố quan trọng nữa 
là mức độ trợ giúp. Kết quả của nghiên 
cứu này sẽ cung cấp thêm luận điểm cho 
các cuộc thảo luận về phát triển xã hội 
toàn cầu. Chúng tôi lập luận rằng, có 
một mối nguy hiểm đang hiện hữu khi 
các tổ chức quốc tế, chẳng hạn như 
Ngân hàng Thế giới, nhấn mạnh đến đối 
tượng nhận trợ giúp hơn là độ lớn của 
trợ giúp. 
Những thách thức nghiên cứu vẫn ở 
phía trước. Chúng tôi tin rằng, kết quả 
của nghiên cứu này nhấn mạnh tới hiệu 
quả của các phương pháp so sánh với 
phạm vi rộng đã được thực hiện về bảo 
trợ xã hội và phân phối thu nhập, gắn 
kết các bối cảnh liên quốc gia và các 
khía cạnh khác nhau của các chương 
trình xã hội. Trong những nỗ lực tiếp 
theo nhằm tăng cường nghiên cứu ở 
mức độ phát triển xã hội toàn cầu, các 
thảo luận không nên chỉ giới hạn trong 
phạm vi các đối tượng được thụ hưởng 
mà còn nên xem xét mức độ trợ giúp, 
nhất là khi chúng ta bàn đến việc xoá 
nghèo đói trên phạm vi toàn cầu. 
Mức độ và mục tiêu của những chuyển giao xã hội... 
 27

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_va_muc_tieu_cua_nhung_chuyen_giao_xa_hoi_doi_pho_voi.pdf