Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn Việt Nam hiện nay

1.1. Khái quát

Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, trong hầu hết các cộng đồng dân

cư ở nông thôn, bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội (do Nhà nước

chính thức thành lập và đầu tư), đang tồn tại hoạt động của các Tổ chức

xã hội mang tính chất tự nguyện (do người dân tự nguyện thành lập), phi

lợi nhuận, có mục đích/mục tiêu xác định cụ thể, có hệ thống tổ chức và

mạng lưới, có nguồn lực (vật chất, tài chính, con người), và thực hiện các

hoạt động cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm góp

phần giải quyết các vấn đề của quá trình phát triển và quản lý xã hội ở

cộng đồng dân cư tại các vùng nông thôn Việt Nam.

Các Tổ chức xã hội tự nguyện là một bộ phận tất yếu của sự phát triển

xã hội nói chung và các hoạt động của nó nhằm bổ sung, hoàn thiện và lấp

đầy các “khoảng trống” mà hệ thống các Tổ chức của Nhà nước chưa thể

hoặc không thể vươn tới được. Tuy nhiên, về số lượng, loại hình và các

hoạt động của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn hiện

nay rất đa dạng, phong phú và rất khác nhau, tuỳ theo điều kiện kinh tế -

xã hội, văn hoá . cụ thể của từng địa phương, từng vùng.

pdf 11 trang yennguyen 920
Bạn đang xem tài liệu "Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn Việt Nam hiện nay
CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 
Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 
DƯƠNG CHÍ THIỆN
*
1. THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở NÔNG 
THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 
1.1. Khái quát 
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, trong hầu hết các cộng đồng dân 
cư ở nông thôn, bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội (do Nhà nước 
chính thức thành lập và đầu tư), đang tồn tại hoạt động của các Tổ chức 
xã hội mang tính chất tự nguyện (do người dân tự nguyện thành lập), phi 
lợi nhuận, có mục đích/mục tiêu xác định cụ thể, có hệ thống tổ chức và 
mạng lưới, có nguồn lực (vật chất, tài chính, con người), và thực hiện các 
hoạt động cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm góp 
phần giải quyết các vấn đề của quá trình phát triển và quản lý xã hội ở 
cộng đồng dân cư tại các vùng nông thôn Việt Nam. 
Các Tổ chức xã hội tự nguyện là một bộ phận tất yếu của sự phát triển 
xã hội nói chung và các hoạt động của nó nhằm bổ sung, hoàn thiện và lấp 
đầy các “khoảng trống” mà hệ thống các Tổ chức của Nhà nước chưa thể 
hoặc không thể vươn tới được. Tuy nhiên, về số lượng, loại hình và các 
hoạt động của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn hiện 
nay rất đa dạng, phong phú và rất khác nhau, tuỳ theo điều kiện kinh tế - 
xã hội, văn hoá ... cụ thể của từng địa phương, từng vùng. 
1.2. Phân loại 
Các Tổ chức xã hội tự nguyện với rất nhiều tên gọi, qui mô, tính chất 
... khác nhau. Mỗi Tổ chức xã hội đều có những tôn chỉ/mục đích và nội 
dung hoạt động khác nhau. Căn cứ vào mục đích và nội dung các hoạt 
động chủ yếu của các Tổ chức xã hội tự nguyện tại cộng đồng nông thôn, 
có thể phân loại các Tổ chức xã hội tự nguyện thành một số loại hình chủ 
yếu như sau: 
1 - Chủ yếu mang tính chất trợ giúp về tình cảm là chính. Ví dụ như: 
Hội Đồng niên, họ hàng dòng họ; Hội Đồng ngũ, Hội Cựu quân nhân, 
Hội Quan bác, Hội Kèn trống, Hội Làm dâu thiên hạ, ... 
* TS. Viện Xã hội học. 
Các tổ chức xã hội 
67 
2 - Chủ yếu mang tính chất nghề nghiệp hoặc trợ giúp nhau về kinh tế 
(vật chất) là chính. Ví dụ như: Hội Bát họ; phường Vàng, phường Tiền, 
phường Thóc, Hội Sinh vật cảnh, Hội Nuôi ong, Hội Cấy thuê, Hội Đi 
làm thuê, Hội Làm trang trại, Hội Trồng rau, Hội Làm vườn, Hội Buôn 
bán cá, Hội Thủy sản, Hội Chăn nuôi, Hội Đi chợ, Hội Nghề truyền 
thống (thường có ở các làng nghề truyền thống), ... 
3 - Chủ yếu trợ giúp và giúp đỡ nhau về lĩnh vực phát triển giáo dục là 
chính. Ví dụ như: Hội Khuyến học, Dòng họ khuyến học, Hội Cựu giáo 
chức, Hội Cha mẹ học sinh, Hội Hướng đạo sinh ... 
4 - Chủ yếu mang tính chất bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị và 
các bộ môn văn hóa truyền thống, mang tính chất vui chơi giải trí đối với 
từng nhóm dân cư. Ví dụ như các loại câu lạc bộ: Thơ ca, Văn nghệ 
truyền thống (hát chèo, hát quan họ, hát chầu văn, hát ví dặm, hát xoan, 
đàn ca tài tử, dân ca vọng cổ, hát lý Nam bộ ...), các loại câu lạc bộ như: 
Cờ tướng/Cờ quốc tế, Chọi gà, Chơi chim/Chọi chim, Chơi cây cảnh, 
Chơi cá cảnh ... 
5 - Chủ yếu mang tính rèn luyện sức khỏe, chữa bệnh bằng phương 
pháp Đông y, Tây y. Ví dụ như: Hội Chữ thập đỏ, Hội Y học cổ truyền, 
Hội Thể dục thể thao chữa bệnh, ... Các loại hình câu lạc bộ như: Dưỡng 
sinh, Cầu lông, Bóng bàn, Xe đạp thể thao, ... 
6 - Chủ yếu gắn với các hoạt động và lễ nghi tôn giáo. Ví dụ như các 
Hội đoàn tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, bao gồm: Hội Vãi, Hội Đình, 
Hội Đền, Hội Giáo đoàn, ... 
7 - Chủ yếu gắn với các hoạt động từ thiện (hỗ trợ, cứu trợ khi gặp rủi ro, 
hoạn nạn). Ví dụ như: Hội Chữ thập đỏ, Hũ gạo cứu đói, Hũ gạo tình thương, ... 
8 - Chủ yếu gắn với các hoạt động của dòng họ, gia đình. Ví dụ như các 
dòng họ lớn, các gia đình có truyền thống (gia giáo, hiếu học, thành đạt ...). 
Trên thực tế, không thể có tất cả các Tổ chức xã hội tự nguyện cùng 
một lúc đều tồn tại và phát triển trong một cộng đồng dân cư ở nông 
thôn. Ngược lại, không thể có một Tổ chức xã hội tự nguyện tồn tại và 
hoạt động nhằm đáp ứng được tất cả các nhu cầu trong các lĩnh vực của 
đời sống cộng đồng dân cư ở nông thôn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 
rằng, trong một cộng đồng dân cư ở nông thôn hiện nay, tùy theo từng 
điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH), văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ... của 
mỗi cộng đồng, đã hình thành và xuất hiện một số lượng nhất định các 
Tổ chức xã hội tự nguyện cụ thể nào đó, nhằm đáp ứng được phần nào 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 
68
nhu cầu phát triển và quản lý sự phát triển KT-XH, văn hóa, giáo dục, 
chăm sóc sức khỏe, tôn giáo và tín ngưỡng ... của cộng đồng dân cư đó. 
1.3. Hệ thống và mạng lưới tổ chức 
Hệ thống và mạng lưới tổ chức của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở 
cộng đồng nông thôn hiện nay có sự khác nhau khá rõ về qui mô, số 
lượng thành viên tham gia, và phạm vi hoạt động. Mặt khác hệ thống và 
mạng lưới tổ chức của các Tổ chức xã hội tự nguyện có thể bao phủ ở 
nhiều cấp độ khác nhau, từ cấp cộng đồng dân cư tại thôn/bản/buôn/ấp 
đến cấp xã, huyện, tỉnh, khu vực hoặc toàn quốc. Những sự khác biệt đó 
xuất phát từ các yếu tố chính như: Mục đích/mục tiêu và nội dung hoạt 
động; Các nguồn lực (vật chất, kinh tế, tài chính và con người); Đặc 
điểm riêng  của từng Tổ chức xã hội tự nguyện. 
Ví dụ như: Hội Đồng niên chỉ bao gồm một số lượng những người 
cùng sinh trong một năm nào đó. Mục đích hoạt động của hội Đồng niên 
thường là hỗ trợ và giúp đỡ, thăm hỏi lẫn nhau giữa các thành viên, nếu 
có thành viên gặp rủi ro trong cuộc sống. Mỗi năm có thể gặp mặt nhau 
một lần hoặc vài lần tùy theo điều kiện cụ thể đặt ra. Số lượng thành viên 
của Hội Đồng niên trong mỗi cộng đồng thường chỉ giới hạn trong số 
lượng nhỏ những người sinh cùng một năm. Hoạt động của Hội Đồng 
niên dựa trên sự đóng góp tự nguyện của các thành viên, tùy theo điều 
kiện kinh tế của mỗi người. ... Chính vì vậy, hoạt động của Hội Đồng 
niên chỉ giới hạn ở phạm vi và cấp độ cộng đồng nhỏ (thôn/làng/ấp), và 
qui mô, mạng lưới tổ chức cũng rất nhỏ. 
Mặt khác, Hội Chữ thập đỏ thường bao gồm tất cả những người dân tự 
nguyện tham gia hội, với mục đích làm từ thiện, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau 
giữa tất cả mọi người trong cộng đồng nếu có ai đó gặp rủi ro, nghèo khó, 
ốm đau và bệnh tật ... cần có sự giúp đỡ trực tiếp và gián tiếp. Số lượng 
thành viên bao gồm tất cả những người trong và ngoài cộng đồng (các cá 
nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh, dịch vụ, cơ sở tôn giáo 
v.v...) đều có thể tham gia. Chính vì vậy, hoạt động của Hội Chữ thập đỏ 
chắc chắn sẽ đa dạng và phong phú hơn, qui mô và mạng lưới tổ chức và 
hoạt động không chỉ bó hẹp trong một cộng đồng, mà có thể vươn ra các 
cộng đồng khác lớn hơn (cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia). 
Hệ thống và mạng lưới tổ chức của các Tổ chức xã hội tự nguyện 
thường hoạt động dựa trên cơ sở của hệ thống mạng lưới của những 
người có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực và kinh nghiệm, có quan hệ 
xã hội, có chuyên môn và nghiệp vụ ở mức độ nhất định - được gọi là hệ 
Các tổ chức xã hội 
69
thống mạng lưới những người làm “Công tác xã hội”. Chính mạng lưới 
này được xem như là những cá nhân nòng cốt trong việc tổ chức và thực 
hiện có hiệu quả các hoạt động của Tổ chức xã hội tự nguyện. 
1.4. Các nguồn lực 
Các nguồn lực của Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng dân cư 
nông thôn bao gồm: 
- Nguồn lực con người: là sự đóng góp về công sức, trách nhiệm, ý 
kiến và các mối quan hệ xã hội ... vào các hoạt động của Tổ chức xã hội 
đó, song không được trả công/trả lương. 
- Nguồn lực tài chính: là sự đóng góp về tiền bạc, ngân quĩ ... để hình 
thành một “quĩ tài chính” dành chi tiêu cho các hoạt động của Tổ chức 
xã hội đó. 
- Nguồn lực vật chất: là sự đóng góp về cơ sở vật chất như các trang 
thiết bị, đồ dùng, thậm chí có cả nhà cửa, đất đai... vào các hoạt động của 
Tổ chức xã hội đó. 
Các nguồn lực chủ yếu của các Tổ chức xã hội tự nguyện dựa trên sự 
đóng góp, hỗ trợ, giúp đỡ và ủng hộ tự nguyện từ nhiều nguồn khác 
nhau, ví dụ như sự đóng góp của các thành viên; sự hỗ trợ và ủng hộ của 
các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh - dịch vụ, các Tổ chức xã hội 
khác, các cá nhân (mạnh thường quân), và thậm chí một phần các nguồn 
lực có thể được hỗ trợ từ phía chính quyền Nhà nước các cấp. 
Việc quản lý, sử dụng và phân phối các nguồn lực trên đều dựa trên 
nguyên tắc “tự quản, tự chi - thu, tự chịu trách nhiệm” của từng Tổ chức 
xã hội tự nguyện. Để hoạt động, các Tổ chức xã hội tự nguyện phải tự 
huy động và tự trang trải các nguồn lực, và không được lấy từ Ngân sách 
nhà nước. Các nguyên tắc quản lý, sử dụng và phân phối các nguồn lực 
nói trên được các thành viên trong Tổ chức xã hội tự nguyện thảo luận, 
bàn bạc và thông qua một cách dân chủ. Các qui tắc quản lý, sử dụng và 
phân phối các nguồn lực trên có thể được thể hiện thành văn bản, hoặc 
không được thể hiện bằng văn bản. 
2. TRIỂN VỌNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 
2.1. Các thuận lợi cơ bản 
- Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đã đặt vấn đề phát 
triển các Tổ chức xã hội tự nguyện trong bối cảnh đất nước đang hướng 
đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 
70
có thể xem đó là môi trường rất thuận lợi về thể chế và chính sách để 
phát triển các Tổ chức xã hội tự nguyện. 
- Cùng với quá trình phát triển KT-XH chung của đất nước, ngày có 
nhiều người dân đã tự nguyện và tích cực tham gia nhiều hơn vào hoạt 
động của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn. Họ có điều kiện hơn 
để đóng góp các nguồn lực vào hoạt động của các Tổ chức xã hộ tự 
nguyện mà họ tham gia. 
2.2. Một số khó khăn 
2.2.1. Mở rộng thêm các hoạt động, trong khi chưa đủ các điều kiện 
cần thiết để các hoạt động đó có hiệu quả thiết thực 
 Nhìn chung, khi mới ra đời, các Tổ chức xã hội tự nguyện đều có 
những mục tiêu/mục đích xã hội cụ thể, đưa ra các hoạt động thiết thực 
và phù hợp với đặc điểm, điều kiện KT - XH, văn hoá ... của từng cộng 
đồng và ở từng thời điểm. Từ đó, hoạt động của các Tổ chức xã hội tự 
nguyện ở cộng đồng nông thôn đã có những hiệu quả to lớn trên nhiều 
lĩnh vực đối với phát triển xã hội và quản lý xã hội ở cộng đồng nông 
thôn những năm gần đây. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động và phát 
triển, một số Tổ chức xã hội tự nguyện đã mở rộng, bổ sung và tăng 
thêm các mục tiêu/mục đích khác, từ đó mở rộng thêm các hoạt động 
trong khi chưa đủ những điều kiện về nguồn lực, mạng lưới tổ chức ... 
Từ đó các hoạt động rất khó khăn hoặc dễ rơi vào tình trạng “hình thức”, 
“làm theo kiểu phong trào”... thiếu tính “hiệu quả” thiết thực đối với sự 
phát triển của cá nhân và cộng đồng. Chính vì vậy, đã có một số Tổ chức 
xã hội tự nguyện ra đời, nhưng hầu như không hoạt động được, hoặc mở 
ra thêm các hoạt động mới, nhưng không làm được đến nơi, đến chốn. 
Ví dụ như Hội Bảo thọ do những người cao tuổi trong một thôn hoặc 
một xã thành lập, với mục tiêu ban đầu là thăm hỏi và chia sẻ tình cảm 
lẫn nhau khi một thành viên gặp ốm đau, bệnh tật hoặc qua đời, phù hợp 
với điều kiện, hoàn cảnh KT - XH, văn hoá và sức khoẻ của những người 
cao tuổi, trong phạm vi một thôn hoặc một xã. Nhưng trong quá trình 
phát triển, Hội đã mở rộng thêm một số mục tiêu khác, cụ thể là hỗ trợ và 
giúp đỡ nhau về kinh tế, như sử dụng quĩ hội để cho những người cao 
tuổi vay vốn sản xuất kinh doanh. Trong khi quĩ vốn của hội rất hạn hẹp, 
sức khoẻ của người cao tuổi càng ngày càng giảm sút và ốm đau, bệnh 
tật có thể xảy ra bất cứ lúc nào ... Cho nên, nhiều hiện tượng xảy ra mất 
vốn khi cho vay, nếu người vay không có khả năng trả nợ. Mặt khác, 
Các tổ chức xã hội 
71
trong trường hợp như vậy xảy ra thì chính việc cho hội viên vay vốn này 
đã làm gia tăng thêm gánh nặng nợ nần cho hội viên của mình. 
Việc mở rộng thêm các mục tiêu hoạt động mới của Tổ chức xã hội tự 
nguyện, có thể được xem như một bài học kinh nghiệm về hạn chế, khó 
khăn, thách thức lớn đối với sự phát triển của các Tổ chức xã hội tự 
nguyện ở nông thôn, và từ đó làm hạn chế các hoạt động, vai trò và 
những đóng góp của các Tổ chức xã hội tự nguyện đối với sự phát triển 
xã hội và quản lý xã hội nói chung. 
 2.2.2. Tổ chức, mạng lưới, qui mô và phạm vi bao phủ còn nhỏ hẹp 
Các Tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn thường là các Tổ chức xã hội 
“phi chính thức”- do một nhóm người dân tự nguyện thành lập, không hoặc 
chưa được Nhà nước chính thức ra quyết định/cấp giấy phép,... Vì thế, hệ 
thống tổ chức, mạng lưới, qui mô và phạm vi hoạt động chủ yếu chỉ trong 
địa bàn cộng đồng dân cư nhỏ ở nông thôn (như giới hạn trong một 
thôn/làng hoặc trong xã). Có rất ít các Tổ chức xã hội tự nguyện có mạng 
lưới, qui mô và phạm vi hoạt động ở cấp tỉnh/thành phố, hoặc toàn quốc. 
Điều này đã hạn chế rất nhiều sự đóng góp và phát huy vai trò của các Tổ 
chức xã hội tự nguyện trong sự phát triển và quản lý xã hội. 
Thực tế cho thấy, Hội Đồng môn, hội Đồng niên, Hội Làm dâu trăm 
họ, Hội Làm thuê ... ở một số địa phương chỉ có số lượng hội viên 
khoảng dưới 20 người, phạm vi hoạt động chỉ nằm gọn trong một thôn, 
và các hoạt động của hội chủ yếu là thăm hỏi, chia sẻ tình cảm và giúp 
đỡ lẫn nhau lúc ốm đau, rủi ro ... Với qui mô, mạng lưới tổ chức, địa bàn 
hoạt động rất nhỏ và hẹp như vậy, nên các Tổ chức xã hội tự nguyện 
không thể có những đóng góp lớn và mang tính “đột phá” đối với sự 
phát triển cộng đồng và quản lý cộng đồng xã hội ở vùng nông thôn. 
2.2.3. Các nguồn lực rất nhỏ, thiếu và yếu 
Trên thực tế, đa số các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông 
thôn hiện nay đều đang gặp rất nhiều hạn chế, khó khăn, thách thức trong 
việc huy động và quản lý các nguồn lực trên. 
Về nguồn lực con người: Các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng 
nông thôn thường có số lượng các thành viên tham gia ít, phạm vi hoạt 
động nhỏ. Những thành viên của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng 
đồng nông thôn hiện nay thường là những người có nhiệt tình, có sức 
khỏe, có trách nhiệm, và họ thường tham gia các hoạt động xã hội dựa 
trên kinh nghiệm tự tích lũy được trong thực tế. Nhưng họ không được 
đào tạo những kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng để làm “công tác xã 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 
72 
hội” một cách cơ bản và hệ thống. Đó là một hạn chế/rào cản rất lớn về 
năng lực và hiệu quả tham gia vào các hoạt động xã hội. Thực tế đã cho 
thấy rất rõ là ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay, đang thiếu hẳn 
một hệ thống những người làm “công tác xã hội” chuyên nghiệp. Chính 
vì vậy, khó có thể đòi hỏi các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông 
thôn phải có nhiều hơn những đóng góp vào quá trình phát triển và quản lý 
xã hội được, trong khi chưa xây dựng được một hệ thống những người làm 
“công tác xã hội” theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại. 
Về nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất: Các Tổ chức xã hội tự 
nguyện ở cộng đồng nông thôn hiện nay thiếu nguồn lực tài chính và vật 
chất để có thể trang trải những chi phí cần thiết cho các hoạt động của Tổ 
chức. Thậm chí có Tổ chức xã hội tự nguyện khi mới thành lập còn gặp 
nhiều khó khăn, hạn chế về trang thiết bị, cơ sở vật chất để có một chỗ làm 
việc ổn định. v.v..., đây là một yếu tố hạn chế, khó khăn, thách thức lớn 
nhất của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn hiện nay 
2.2.4. Sự “bất bình đẳng” giữa các Tổ chức xã hội tự nguyện và các 
Tổ chức chính trị - xã hội ở cộng đồng nông thôn 
 Các Tổ chức 
chính trị - Xã hội 
Các Tổ chức xã hội 
tự nguyện 
Quyết định 
thành lập 
Do Nhà nước ra quyết định 
và thành lập chính thức. 
Do các cá nhân tự nguyện thành 
lập, thường là “phi chính thức” 
Số lượng 
và chất 
lượng 
thành viên 
Rất đông đảo và rất lớn. Các 
thành viên có nhiều cơ hội 
được tham gia vào các hoạt 
động chính trị – xã hội, và 
được nâng cao trình độ, năng 
lực và kinh nghiệm nghề 
nghiệp 
Không đông đảo và số lượng ít. 
Các thành viên không có hoặc có 
rất ít cơ hội được tham gia vào 
các hoạt động chính trị - xã hội, 
và không có cơ hội được nâng cao 
trình độ, năng lực và kinh nghiệm 
nghề nghiệp 
Qui mô tổ 
chức 
Rất lớn, có hệ thống tổ chức 
theo các cấp từ Trung ương 
 Tỉnh/thành phố 
Huyện/Quận 
Xã/phường/thị trấn. 
Rất nhỏ, thường có phổ biến ở 
cấp cộng đồng (thôn/bản/ấp). 
Tùy theo từng loại hình Tổ chức 
xã hội mà có thể có qui mô tổ 
chức lớn hơn (xã/phường; 
Huyện/Quận, Tỉnh/Thành phố và 
Toàn quốc) 
Các tổ chức xã hội 
73 
Phạm vi 
hoạt động 
Rất rộng, theo hệ thống các cấp từ 
Trung ương Tỉnh/thành phố 
Huyện/Quận Xã/phường/thị 
trấn. 
Rất nhỏ hẹp, thường có phổ biến 
ở cấp cộng đồng (thôn/bản/ấp). 
Tùy theo từng loại hình Tổ chức 
xã hội mà có thể có qui mô tổ 
chức lớn hơn (xã/phường; 
Huyện/Quận, Tỉnh/Thành phố và 
Toàn quốc) 
Nguồn lực 
con người 
Có nhiều người có trình độ, 
có năng lực, có nhiều mối 
quan hệ xã hội và có khả 
năng đóng góp vào các hoạt 
động của Tổ chức. 
Có ít người có đủ trình độ, có năng 
lực, có nhiều mối quan hệ xã hội 
và có khả năng đóng góp vào các 
hoạt động của Tổ chức. 
Nguồn lực 
tài chính 
Nguồn vốn, quĩ và tiền khá 
dồi dào, được huy động 
(thường là bắt buộc) từ các 
thành viên, được sự hỗ trợ 
rất lớn từ Nhà nước, sự hỗ 
trợ từ các doanh nghiệp, cơ 
sở dịch vụ, kinh doanh và cá 
nhân đóng góp. 
Nguồn vốn, quĩ, tiền rất hạn hẹp 
và nhỏ, được huy động từ sự 
đóng góp tự nguyện của các 
thành viên, sự hỗ trợ và giúp đỡ 
(không bắt buộc) của các cá 
nhân, các doanh nghiệp, cơ sở 
kinh doanh và dịch vụ, có thể có 
một chút hỗ trợ từ phía Nhà 
nước. 
Nguồn lực 
vật chất 
Được Nhà nước cấp, hoặc 
cho mượn khá đầy đủ các 
trang thiết bị, cơ sở vật chất, 
trụ sở v.v... 
Hầu như không được hỗ trợ từ 
phía Nhà nước. Thiếu thốn rất 
nhiều về trang thiết bị, cơ sở vật 
chất, trụ sở làm việc ... Chủ yếu 
dựa vào sự đóng góp, sự hỗ trợ 
hảo tâm từ các cá nhân, doanh 
nghiệp, cơ sở kinh doanh, dịch 
vụ ... và có thể có rất ít từ sự hỗ 
trợ của Nhà nước. 
Những “bất bình đẳng” chủ yếu trên giữa các Tổ chức chính trị - xã 
hội và các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn hiện nay, là 
một nguyên nhân cơ bản khác dẫn đến những hạn chế, khó khăn về vai 
trò và sự đóng góp của các Tổ chức xã hội tự nguyện vào sự phát triển và 
quản lý xã hội nói chung ở nông thôn, nhất là ở những vùng nông thôn 
nghèo, vùng sâu, vùng xa. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 
74 
2.2.5. Sự “quan liêu hóa” ở một số Tổ chức xã hội tự nguyện 
Quá trình “quan liêu hóa” diễn ra trong một số Tổ chức xã hội tự 
nguyện, nhất là các Tổ chức xã hội tự nguyện có qui mô và phạm vi hoạt 
động lớn (toàn quốc), có số lượng đông đảo thành viên, có nhiều các hoạt 
động gắn liền với những nhiệm vụ chính trị chung của đất nước và của 
cộng đồng, và đóng góp nhiều cho sự phát triển và quản lý xã hội.... 
Hội Người cao tuổi Việt Nam: được thành lập trên cơ sở hoạt động 
của Hội Bảo thọ ở các cộng đồng cấp thôn/làng/bản, và cấp xã/phường. 
Sau một thời gian dài và thông qua nhiều hoạt động của mình, Hội Bảo 
thọ đã được chính quyền (các cấp) thừa nhận vai trò và những đóng góp 
to lớn, quan trọng vào quá trình thực hiện những nhiệm vụ chính trị của 
địa phương. Chính vì vậy, Hội Bảo Thọ được Nhà nước hợp thức hóa 
bằng việc chính thức ra quyết định thành lập Hội Người cao tuổi Việt 
Nam, có qui mô toàn quốc, có hệ thống tổ chức từ Trung ương xuống cơ 
sở (xã/phường). Nhà nước đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động của Hội 
Người cao tuổi Việt Nam ngày càng tăng. Tuy vậy, trong các hoạt động 
của hội Người cao tuổi đã và đang dần dần bị “quan liêu hóa” theo mô 
hình chính quyền Nhà nước: Hệ thống tổ chức được thành lập giống như 
các cấp của chính quyền từ Trung ương xuống cơ sở. Qui mô và tính chất 
hoạt động thường theo hướng phục vụ các mục tiêu chính trị của chính 
quyền các cấp đề ra cho từng thời kỳ. Nguồn đầu tư được Nhà nước hỗ 
trợ và cấp cho Hội hoạt động ngày càng tăng, nhất là những người lãnh 
đạo của các tổ chức hội các cấp đều được hưởng lương hoặc phụ cấp 
trách nhiệm từ Ngân sách nhà nước. Cách thức quản lý về hành chính, tài 
chính ... đều tuân theo các qui định của Nhà nước. Thậm chí việc bầu bộ 
máy lãnh đạo cũng phải theo sự chỉ đạo của hệ thống chính quyền Nhà 
nước. v.v... 
Hội Khuyến học Việt Nam: được thành lập trên cơ sở hoạt động của 
các hội khuyến học ở các dòng họ, hay ở các thôn/làng/bản/ấp hoặc ở 
xã/phường trước đây, nhằm khuyến khích, đẩy mạnh và phát triển sự 
nghiệp giáo dục ở các cộng đồng. Sau này hội mở rộng thêm các hoạt 
động khác gắn với nhiệm vụ chính trị của chính quyền địa phương ngày 
càng nhiều hơn. Vai trò và những đóng góp tích cực, có hiệu quả to lớn 
của Hội Khuyến học đã được chính quyền các cấp thừa nhận. Trên cơ sở 
đó, Nhà nước chính thức ra quyết định thành lập Hội Khuyến học Việt 
Nam và thực hiện gia tăng đầu tư, mở rộng hệ thống tổ chức và mở rộng 
các mục tiêu hoạt động nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính trị lớn của 
Các tổ chức xã hội 
75 
chính quyền địa phương. Hội Khuyến học Việt Nam cũng đã và đang 
dần dần bị “quan liêu hóa”: Hệ thống tổ chức được hình thành theo mô 
hình hành chính các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Nhà nước gia tăng dần 
đầu tư về các nguồn lực cho Hội Khuyến học Việt Nam và đồng thời 
hướng dần các hoạt động của Hội để nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính 
trị của chính quyền địa phương các cấp. 
2.3. Triển vọng phát triển 
* Thứ nhất: Trong Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn 
đang diễn ra quá trình đa dạng hóa và mở rộng dần dần các mục tiêu và 
các hoạt động, trên cơ sở thu hút thêm các thành viên, mở rộng hệ thống 
tổ chức, mạng lưới và phạm vi hoạt động, huy động thêm các nguồn lực 
(con người, tài chính, vật chất) ... Đây là xu hướng phát triển tất yếu và 
bền vững của các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng đồng nông thôn nói 
chung. Xu hướng này cho phép các Tổ chức xã hội tự nguyện ở cộng 
đồng nông thôn ngày càng nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí và có nhiều 
đóng góp hiệu quả, thiết thực hơn vào sự phát triển và quản lý xã hội ở 
nông thôn hiện nay. 
* Thứ hai: Thành lập/hình thành thêm các Tổ chức xã hội tự nguyện 
mới ở cộng đồng nông thôn, dựa trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội, 
văn hóa cụ thể của từng địa phương, và căn cứ trên các nguyên tắc, các 
mục tiêu, các hoạt động, hệ thống tổ chức và mạng lưới, các nguồn lực ... 
nhằm đáp ứng, hoặc giải quyết các nhu cầu mới do thực tiễn đời sống 
cộng đồng đặt ra trong quá trình phát triển và quản lý xã hội nông thôn 
nói chung. 
* Thứ ba: Kết hợp, liên kết, hợp tác giữa các Tổ chức xã hội tự 
nguyện ở cộng đồng nông thôn với nhau, trên cơ sở có chung hoặc có 
liên quan chặt chẽ với nhau về mục tiêu hoạt động, lĩnh vực hoạt động và 
những lợi ích khác ... để nâng cao hơn vai trò, vị trí và những đóng góp 
cho sự phát triển và quản lý xã hội nói chung. 
* Thứ tư: Hợp tác, liên kết, phối hợp giữa các Tổ chức xã hội tự 
nguyện với các Tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền ở cộng đồng 
nông thôn để có thêm hoặc gia tăng sức mạnh về hệ thống tổ chức, các 
nguồn lực (con người, tài chính, vật chất), về các hoạt động nhằm đạt 
được hiệu quả tốt hơn, nhiều hơn cho sự phát triển và quản lý xã hội ở 
cộng đồng nông thôn hiện nay. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2011 
76 
Tài liệu tham khảo 
 A. Tiếng Việt 
1. Dương Chí Thiện, (2004). Khuyến học - Tiến tới xây dựng một xã hội học tập. Báo cáo Đề 
tài cấp Bộ 2003. Viện Xã hội học. Hà Nội. 
2. Nguyễn Khắc Mai, (1996). Vị trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nước ta. Nxb. Lao 
động, Hà Nội. 
3. Phòng Phúc lợi xã hội và Phòng QLKH&ĐT. (2006). Các Tổ chức xã hội tự nguyện và an 
sinh xã hội ở nông thôn Việt Nam - Khởi thảo cho một nghiên cứu. Báo cáo đề tài cấp Viện 
năm 2006. Viện Xã hội học. Hà Nội. 
4. Phòng Phúc lợi xã hội. (2008). Báo cáo đề tài cấp Viện năm 2008. Viện Xã hội học, Hà 
Nội. 
5. Thang Văn Phúc (chủ biên). (2002). Vai trò của các Hội trong đổi mới và phát triển đất 
nước. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự Thật. Hà Nội. 
6. Viện Xã hội học. (2009). Các báo cáo khoa học thực địa thuộc Đề tài “Điều tra cơ bản về 
tình hình Nông thôn – Nông nghiệp – Nông dân Việt Nam hiện nay”. Hà Nội. 
 B. Tiếng Anh 
1. Bowling et al. (1991). Life satifaction and association with social networks and support 
variables. 
2. Mark Granovertter, (1973). The Strength of weak Ties. American Journal of Sociology. 
Vol.78.1973. 
3. Pearlin, (1985). Social structure and processes of social support. New York Academic 
Press, 1985 
4. Wenger. (1995). A Comparison of Urban with rural networks in North Wales. 

File đính kèm:

  • pdfcac_to_chuc_xa_hoi_tu_nguyen_o_nong_thon_viet_nam_hien_nay.pdf