Tổ chức xã hội ở thôn làng Tây Nguyên hiện nay

Từ sau năm 1975, hệ thống tổ chức chính

quyền cấp trên thôn làng ở Tây Nguyên

được xây dựng thống nhất cùng cả nước,

bao gồm xã, huyện và tỉnh, trực thuộc Trung

ương. Dù vậy, do đặc thù riêng về dân cư,

dân tộc, tổ chức xã hội thôn làng vẫn có vai

trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã

hội Tây Nguyên. Quá trình di cư từ nơi khác

đến trong lịch sử, nhất là từ sau năm 1975,

cùng với những tác động mới đã dẫn đến tồn

tại nhiều loại thôn làng phức tạp ở Tây

Nguyên, bao gồm thôn làng dân tộc Kinh,

dân tộc thiểu số mới đến, dân tộc thiểu số tại

chỗ và thôn làng xen cư dân tộc thiểu số tại

chỗ với dân tộc mới đến. Bài viết phân tích

thực trạng tổ chức xã hội ở bốn loại thôn

làng nói trên ở Tây Nguyên hiện nay.

pdf 11 trang yennguyen 1120
Bạn đang xem tài liệu "Tổ chức xã hội ở thôn làng Tây Nguyên hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổ chức xã hội ở thôn làng Tây Nguyên hiện nay

Tổ chức xã hội ở thôn làng Tây Nguyên hiện nay
 TỔ CHỨC XÃ HỘI 
Ở THÔN LÀNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 
BÙI MINH ĐẠO* 
Từ sau năm 1975, hệ thống tổ chức chính 
quyền cấp trên thôn làng ở Tây Nguyên 
được xây dựng thống nhất cùng cả nước, 
bao gồm xã, huyện và tỉnh, trực thuộc Trung 
ương. Dù vậy, do đặc thù riêng về dân cư, 
dân tộc, tổ chức xã hội thôn làng vẫn có vai 
trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã 
hội Tây Nguyên. Quá trình di cư từ nơi khác 
đến trong lịch sử, nhất là từ sau năm 1975, 
cùng với những tác động mới đã dẫn đến tồn 
tại nhiều loại thôn làng phức tạp ở Tây 
Nguyên, bao gồm thôn làng dân tộc Kinh, 
dân tộc thiểu số mới đến, dân tộc thiểu số tại 
chỗ và thôn làng xen cư dân tộc thiểu số tại 
chỗ với dân tộc mới đến. Bài viết phân tích 
thực trạng tổ chức xã hội ở bốn loại thôn 
làng nói trên ở Tây Nguyên hiện nay.* 
1. Tổ chức xã hội ở các thôn làng dân 
tộc Kinh 
Trước Cách mạng Tháng Tám, vai trò của 
tổ chức xã hội truyền thống vẫn đậm nét 
trong đời sống các thôn làng người Kinh. 
Điều hành công việc trong làng là Hội đồng 
hương lý, gồm lý trưởng, phó lý, trưởng bạ 
(theo dõi việc đinh, điền), hộ lại (sinh, tử, 
giá thú), trương tuần (cai quản đám tuần 
phiên) và Hội đồng kỳ mục gồm tiên chỉ, thứ 
chỉ, một nhóm người là hưu quan và cả những 
người đã kinh qua bộ máy hương lý. Hội 
đồng hương lý thay mặt nhà nước thu thuế, 
bắt lính, bắt phu và thực hiện các quyết định 
của Hội đồng kỳ mục. Các quyết định của 
Hội đồng kỳ mục chủ yếu dựa vào lệ làng, 
thể hiện trong hương ước của làng. Trước 
* TS. Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên 
Pháp thuộc, mỗi làng có hương ước riêng. 
Năm 1921, thực dân Pháp tiến hành cải 
lương hương chính mà trọng tâm là cải cách 
hương ước và thay thế Hội đồng kỳ mục 
bằng Hội đồng tộc biểu, nhờ vậy, can thiệp 
sâu vào đời sống làng xã và hạn chế tính tự 
trị của bộ máy kỳ mục cũ. Thông qua bầu 
bán, người ta cử ra Ban hương hội bao gồm: 
chánh hội, phó hội, thủ quỹ và thư ký. Hội 
đồng tộc biểu có trách nhiệm lập sổ thu chi, 
bổ sưu thuế, quản lý các công trình công 
cộng, điều hành các công việc trong làng 
theo lệ làng, dưới sự giám sát của Hội đồng 
hương lý. Với sự phân quyền mới này, vai 
trò bộ máy của nhà nước ở các làng được 
mặc nhiên nâng lên, vai trò của bộ máy kỳ 
mục bị hạ thấp và vai trò của dòng họ được 
chú ý. Tất cả đều nhằm phục vụ nhu cầu cai 
trị sâu hơn và trực tiếp hơn của người Pháp 
vào làng xã. Cũng từ cuộc cải lương hương 
chính, truyền thống trọng tước bị sứt mẻ và 
hạn chế trong việc chọn người vào tổ chức 
tự quản hương thôn. 
Sau Cách mạng Tháng Tám ở miền Bắc 
và sau năm 1975 ở miền Nam, tổ chức xã 
hội truyền thống của làng xã người Việt 
nhường chỗ cho tổ chức xã hội mới. Đó 
cũng là xuất phát điểm tổ chức xã hội người 
Kinh trước khi di cư lên Tây Nguyên. 
Đến năm 2009, người Kinh là dân tộc có 
dân số đông nhất ở Tây Nguyên, với hơn 3,3 
triệu người, chiếm trên 60% tổng dân số, 
bao gồm 3 bộ phận là người Kinh Công giáo 
trước năm 1975, người Kinh di cư kinh tế 
mới trong những năm 1976 - 1985 và người 
Kinh di cư tự do từ thập niên 80 của thế kỷ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
68 
XX đến nay. Người Kinh Công giáo và 
người Kinh di cư kinh tế mới thường bố trí 
thành các khu và làng riêng, còn người Kinh 
di cư tự do lại thường xen cư với các dân tộc 
khác trong một làng. Kết quả khảo sát cho 
biết, đa số các làng người Kinh ở Tây 
Nguyên đều là dân góp, có nguồn gốc từ 
nhiều làng, xã khác nhau. 
Tổ chức chính trị ở các làng dân tộc Kinh 
ở Tây Nguyên bao gồm Đảng, chính quyền, 
mặt trận và các đoàn thể chính trị. Nhìn 
chung, các tổ chức này hoạt động hiệu quả, 
ổn định và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đa số 
đảng viên và cán bộ có hiểu biết tối thiểu và 
cần thiết về lý luận chính trị hoặc kiến thức 
quản lý nhà nước thông qua các sinh hoạt 
học tập và tập huấn do huyện, tỉnh tổ chức 
và thông qua phương tiện thông tin đại 
chúng. Khả năng nắm bắt chủ trương, đường 
lối của đảng viên và cán bộ tương đối tốt, vì 
thế việc triển khai thực hiện văn bản, nghị 
quyết do cấp trên đưa xuống nhìn chung kịp 
thời, hiệu quả. Cũng như thế, hoạt động của 
mặt trận và các tổ chức đoàn thể như đoàn 
thanh niên, các hội phụ nữ, nông dân, cựu 
chiến binh đều đi vào nền nếp và ổn định, 
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển 
và đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã 
hội. Nguyên nhân có nhiều, song quan trọng 
và nổi bật là do trình độ giáo dục phổ thông 
của cán bộ đảng viên, cán bộ tại các thôn 
làng dân tộc Kinh cao hơn. Khảo sát tại hai 
làng dân tộc Kinh là làng Đà Nguyên, xã Đà 
Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng và 
làng Đăk Hà, xã Đăk Bla, thành phố Kon 
Tum, tỉnh Kon Tum cho thấy, 29% cán bộ 
đảng viên thôn làng có trình độ trung học 
phổ thông (cấp III), 64% cán bộ, đảng viên 
thôn làng có trình độ trung học cơ sở (cấp 
II), chỉ có 7% cán bộ, đảng viên thôn làng 
có trình độ tiểu học (cấp I), không có cán 
bộ, đảng viên không biết chữ. Tại các làng 
công giáo cũ, trình độ giáo dục phổ thông 
của cán bộ thôn buôn có xu hướng cao hơn 
nữa. Khảo sát tại làng Phương Quý, xã Vinh 
Quang, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum 
của người Kinh Công giáo năm 2010 cho 
thấy, trong 15 cán bộ thôn làng có 5 người 
trình độ giáo dục trung học phổ thông (33%), 
9 người có trình độ giáo dục trung học cơ sở 
(60%), chỉ có 1 người có trình độ giáo dục 
tiểu học (7%). 
Bên cạnh hệ thống tổ chức chính trị xã 
hội của nhà nước, ở các thôn làng người 
Kinh Công giáo tồn tại các tổ chức xã hội 
của tôn giáo. Theo đó, mỗi làng là một họ 
đạo do Ban chức việc gồm ông cau và ông 
phó cau phụ trách, dưới họ đạo là các xóm 
đạo do các ông biện phụ trách, giáo dân 
được tổ chức thành các giáo đoàn thanh 
niên, phụ nữ, người già và thiếu niên do các 
trưởng giáo đoàn phụ trách. Tổ chức Công 
giáo tuy danh nghĩa hoạt động nhằm duy trì 
đời sống tôn giáo, nhưng trong thực tế có 
ảnh hưởng qua lại đến đời sống kinh tế - xã 
hội của người dân trong làng và đến hoạt 
động của các tổ chức đoàn thể chính trị. 
Do kết quả của phát triển kinh tế - xã hội 
trong điều kiện mới và giống như người Kinh 
cả nước, từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến 
nay, tại các thôn làng người Kinh ở Tây 
Nguyên đã phục hồi và đi vào hoạt động của 
các tổ chức hội: Người cao tuổi, có chức 
năng tập hợp lớp người già sống vui, sống 
khỏe và vận động con cháu duy trì thuần 
phong mỹ tục, đoàn kết xây dựng thôn làng 
vững mạnh, hội đồng niên, hội cà phê, hội 
cây cảnh, cùng một số câu lạc bộ văn hóa - 
thể thao như Câu lạc bộ thơ, Câu lạc bộ bóng 
hơi, Câu lạc bộ cầu lông, Chẳng hạn, ở 
làng Đắc Hà, xã Đăk Bla, thành phố Kon 
Tum, tỉnh Kon Tum, hội Người cao tuổi có 
36 hội viên, ngoài các hội đồng niên, trong 
làng có 1 Câu lạc bộ thơ, 1 Câu lạc bộ bóng 
hơi và một Câu lạc bộ cầu lông; ở làng Đà 
Nguyên, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh 
Tổ chức xã hội 69 
Lâm Đồng, hội Người cao tuổi có 58 hội 
viên, ngoài các hội đồng niên, trong làng có 1 
Câu lạc bộ thơ và một Câu lạc bộ cầu lông. 
2. Tổ chức xã hội ở các thôn làng dân 
tộc thiểu số mới đến 
Thôn làng các dân tộc thiểu số mới đến 
chủ yếu là thôn làng các dân tộc Tày, Nùng, 
Thái, Mường, Dao và Hmông, thường xen 
cư với nhau và số lượng chiếm tỷ lệ không 
nhiều. Chỉ khi ở quê cũ người dân di cư cả 
làng hay nhiều làng đồng tộc trong cùng 
một xã vào Tây Nguyên thì mới đủ điều 
kiện hình thành làng một dân tộc. Thuộc về 
loại hình này có thể đơn cử thôn 1, thôn 2, 
thôn 3 của người Mường ở xã Hòa Thắng, 
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, 
thôn 1 của người Mường ở xã Hòa Sơn, 
huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk, một số 
làng của người Mường ở huyện Krông Na, 
tỉnh Đăk Lăk,... 
Mẫu số chung là tồn tại hệ thống thiết chế 
tổ chức xã hội - chính trị giống như toàn 
quốc, bao gồm: Đảng, chính quyền, mặt trận 
và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông 
dân và cựu chiến binh; chức năng khác nhau 
nhưng chung nhiệm vụ là lãnh đạo và tổ 
chức thực hiện các chủ trương phát triển 
kinh tế - xã hội, giữ gìn trât tự an ninh chính 
trị - xã hội địa phương. Trình độ lý luận 
chính trị và quản lý nhà nước của cán bộ 
thôn làng tuy thấp hơn người Kinh, nhưng 
nhìn chung đáp ứng yêu cầu đặt ra. Khảo sát 
tại các thôn 1 và 2 của người Mường ở xã 
Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh 
Đăk Lăk cho thấy, 40% cán bộ thôn làng đã 
học xong sơ cấp quản lý nhà nước do thành 
phố tổ chức, 30% đảng viên theo học sơ cấp 
lý luận chính trị do thành phố tổ chức, 84% 
cán bộ thôn làng có trình độ giáo dục trung 
học cơ sở (cấp II), 7% cán bộ thôn làng có 
trình độ giáo dục trung học phổ thông (cấp 
III), chỉ có 9% cán bộ thôn làng có trình độ 
giáo dục tiểu học (cấp I) và không có cán bộ 
thôn làng mù chữ. Do trình độ chính trị và 
quản lý nhà nước như trên, cán bộ thôn làng 
các dân tộc mới đến về cơ bản hoàn thành 
công tác được giao. 
Bên cạnh thiết chế tổ chức xã hội mới, ở 
những mức độ khác nhau và không còn 
nguyên vẹn, ở làng dân tộc thiểu số mới đến 
còn duy trì một số thiết chế tổ chức xã hội 
truyền thống cũ. 
Ở các làng của người Tày, Nùng, Thái, 
Mường, do di cư theo quy mô gia đình hay 
dòng họ là chủ yếu, dấu vết của thiết chế tổ 
chức thổ ty, lang đạo, phìa tạo truyền thống 
không còn, nhưng vai trò của dòng họ và 
của các chức sắc tôn giáo còn được duy trì 
và củng cố. Dòng họ vốn là yếu tố gắn kết 
thành viên ở nơi quê cũ, trở nên quan trọng 
hơn với mỗi cá nhân ở nơi đất mới do thành 
viên dòng họ ít hơn. Tất cả những người 
thuộc dòng họ gần và xa đều mặc nhiên cố 
kết, thân thiết và xích lại gần nhau như là 
nhân tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển 
ở nơi đất mới. Trong đời sống xã hội của 
làng, vai trò của các trưởng dòng họ được 
tôn trọng. Cùng với đó là vai trò quan trọng 
của các chức sắc tôn giáo, bao gồm thầy tào, 
thầy pụt, thầy then của người Tày, người 
Nùng, thày mo của người Mường, thầy cúng 
ở người Thái như là những trí thức dân tộc, 
đại diện và lưu giữ nhiều nhất tri thức văn 
hóa và tín ngưỡng truyền thống. Các lễ hội 
cộng đồng như lễ hội lồng tồng của người 
Tày, lễ hội xên bản của người Thái; đám 
cưới, đặc biệt đám tang là dịp các thày tào, 
thầy pụt, thầy then, thầy mo thể hiện nhiều 
nhất vai trò xã hội, văn hóa và tín ngưỡng 
của mình. Khảo sát các thôn 1,2,3,8 của xã 
Hòa Thắng cho thấy, vai trò của thầy mo 
Mường ở Tây Nguyên rất rõ ràng. Đa số 
người Mường xã Hòa Thắng thuộc bốn họ 
Đinh, Quách, Bạch, Hà từ các mường và 
huyện của Hòa Bình như Mường Pi, Mường 
Thàng, Mường Cao Phong, mường Thạch 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
70 
Yên, mường Lạc Sơn, mường Thịnh Lang,... 
di cư vì lý do chính trị vào từ năm 1954. 
Hiện nay, trong 4 thôn Mường có 3 thầy mo. 
Khoảng 20% hộ gia đình người Mường ở 4 
thôn theo đạo Phật, cúng lễ tại chùa Phước 
Điền trong xã do người Kinh xây dựng, khi 
có người chết làm lễ tụng kinh gõ mõ, còn 
lại 80% theo tín ngưỡng truyền thống, khi có 
người chết mời thầy mo cúng mo. Tổ chức 
phe giáp truyền thống còn tồn tại nhằm giúp 
đỡ nhau khi có việc hiếu, hỷ. Do vận động 
của chính quyền và chịu ảnh hưởng của 
người Kinh cận cư, những năm gần đây, tổ 
chức hội Người cao tuổi được xây dựng với 
tôn chỉ vận động phát triển kinh tế, duy trì 
bảo tồn văn hóa truyền thống, thực hiện chủ 
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và 
sống vui, sống khỏe. Cũng như thế là sự 
hình thành của một số câu lạc bộ nghề 
nghiệp và văn hóa - thể thao mới như: Câu 
lạc bộ cà phê, câu lạc bộ cây cảnh, câu lạc 
bộ thơ, câu lạc bộ bóng hơi, câu lạc bộ cầu 
lông,..Người Mường ở thôn 1, thôn 2 và 
thôn 3 thuộc xã Hòa Thắng, thành phố Buôn 
Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, tại thời điểm năm 
2009 có 3 hội người cao tuổi, 2 câu lạc bộ cà 
phê, 1 câu lạc bộ cây cảnh, 2 câu lạc bộ thơ, 2 
câu lạc bộ bóng chuyền hơi và 2 câu lạc bộ 
cầu lông. Ở các làng Tày, Nùng và Mường 
xuất hiện tổ chức Hội hiếu giúp các gia đình 
lo việc tang ma. 
Ở các làng người Hmông và Dao, thiết 
chế tổ chức xã hội cũ được duy trì có phần 
đậm nét hơn so với người Tày, Nùng, Thái 
và Mường, nhưng đã phai nhạt hơn so với 
quê cũ và sắc thái có nét khác biệt. Do đặc 
thù tâm lý và văn hóa, khi di cư vào Tây 
Nguyên, hai dân tộc này có xu hướng ở 
riêng thành các làng đồng tộc, nhất là người 
Hmông. Người Hmông và người Dao 
thường di cư theo dòng họ mà ít di cư theo 
gia đình và bản làng. Vai trò của trưởng bản 
trong xã hội cũ đã không còn tồn tại, nhưng 
vai trò dòng họ, vốn được chú trọng đặc biệt 
trong đời sống trước di cư, tiếp tục được duy 
trì và củng cố ở nơi đất mới. Mọi việc lớn, 
nhỏ của cá nhân và gia đình đều được dòng 
họ biết đến, được hỏi ý kiến của trưởng họ. 
Mọi trọng sự vui buồn của gia đình đều 
được dòng họ chia sẻ và giúp đỡ. Ý thức về 
dòng họ mạnh mẽ và quan trọng hơn ý thức 
về bản làng, thậm chí ở người Hmông còn 
mạnh mẽ hơn cả ý thức quốc gia. Ở các làng 
của hai dân tộc này, người thầy cúng cũng 
được tôn vinh và có vai trò quan trọng. Họ 
là người thay mặt dân làng giao tế với thần 
linh và các ma. Đặc biệt, có vai trò quan 
trọng và được tôn vinh là thầy cúng ở dân 
tộc Dao với sứ mệnh chủ trì nghi lễ cấp sắc 
độc đáo và nổi tiếng. 
3. Tổ chức xã hội ở các buôn làng dân 
tộc thiểu số tại chỗ 
Như đã trình bày, do quá trình di cư nhanh 
và ngày càng phổ biến của các dân tộc từ nơi 
khác đến, dẫn đến số lượng buôn làng thuần 
dân tộc thiểu số tại chỗ ngày càng ít đi trong 
hơn 7.200 thôn làng Tây Nguyên. Hiện nay, 
do dân di cư tập trung ở các cao nguyên nên 
loại hình buôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ 
tồn tại phổ biến ở các huyện vùng cao, như 
các huyện phía bắc tỉnh Kon Tum (Đắc Glei, 
Kon Plông, Kon Rẫy, Tu Mơ Rông), phía 
đông tỉnh Gia Lai (Mang Yang, Kbang, Kông 
Chro, Ia Pa), phía tây tỉnh Đắk Nông (Tuy 
Đức, Đăk Rlấp). 
Từ sau năm 1975 đến nay, khác với ở 
làng dân tộc Kinh và đậm nét hơn ở làng các 
dân tộc thiểu số mới đến, tồn tại ở các buôn 
làng dân tộc thiểu số tại chỗ đồng thời hai hệ 
thống tổ chức xã hội là quan phương có vai 
trò chủ đạo và phi quan phương có vai trò 
hỗ trợ. 
Hệ thống thiết chế tổ chức xã hội quan 
phương gồm tổ chức đảng, chính quyền, mặt 
trận và các đoàn thể quần chúng. 
Tổ chức xã hội 71 
Về tổ chức đảng, không phải tất cả các 
buôn làng Tây Nguyên đều có chi bộ Đảng 
và đảng viên. Theo thống kê của Ban Chỉ 
đạo Tây Nguyên, tại thời điểm tháng 3 năm 
2009, trong 7.284 thôn buôn ở Tây Nguyên, 
vẫn còn 1.243 thôn buôn chưa có chi bộ 
Đảng, chiếm 17,16% số thôn buôn, 172 thôn 
buôn chưa có đảng viên, chiếm 2,37% tổng 
số thôn buôn1, đa số là buôn làng vùng sâu, 
vùng xa. Đứng đầu chi bộ là bí thư và phó bí 
thư, đứng đầu tổ Đảng là tổ trưởng đảng. 
Nhiệm vụ của tổ chức đảng là lãnh đạo, chỉ 
đạo chính quyền, mặt trận và các tổ chức 
đoàn thể thực hiện chủ trương, đường lối 
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh 
quốc phòng của Đảng và Nhà nước. 
Về tổ chức chính quyền, đứng đầu mỗi 
buôn làng là một trưởng thôn, một phó 
trưởng thôn, một công an viên phụ trách 
công tác an ninh, một thôn đội trưởng phụ 
trách chỉ huy đội dân quân tự vệ. ... àng cũng không nhất thiết phải là người già 
60-70 tuổi, mà có thể là người trung niên 45-
50 tuổi. Nhiệm vụ của già làng hay hội đồng 
già làng là duy trì phong tục tập quán, phân 
xử các vụ việc vi phạm luật tục và phối hợp 
với hệ thống chính trị, xã hội mới động viên 
dân làng chấp hành chủ trương của Đảng, 
pháp luật của Nhà nước và phát triển kinh tế - 
xã hội. Trên cả hai vai trò duy trì phong tục 
tập quán và kết hợp với tổ chức chính trị, xã 
hội mới vận động dân làng thực hiện chính 
sách, già làng đều phát huy vai trò tích cực 
của mình. Khi có tâm tư, nguyện vọng và 
khúc mắc, dân làng thường đến hỏi già làng 
trước khi hỏi chính quyền. Đa số các trưởng 
thôn ở các buôn được khảo sát đều chung 
một nhận định là ý kiến của già làng trong 
các cuộc họp buôn triển khai chính sách là rất 
quan trọng, “Nhiều khi già làng nói một câu 
bằng trưởng thôn hoặc cán bộ cấp trên nói cả 
ngày”4. Dù được đưa lên theo thế tập hay bầu 
bán, lúc nào và ở đâu già làng Tây Nguyên 
vẫn luôn là một biểu tượng của đạo đức, tâm 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
74 
hồn và trí tuệ của mỗi buôn làng, được dân 
làng tuyệt đối tin theo và tuân thủ. 
Nhằm hợp lý hóa và phát huy vai trò của 
già làng, các địa phương Tây Nguyên đã có 
sáng kiến đưa già làng vào tổ hòa giải thôn 
buôn, làm nhiệm vụ hòa giải các vụ việc theo 
mục kép là duy trì phong tục tập quán dân tộc 
và hướng người dân sống theo pháp luật. Vấn 
đề đặt ra hiện nay là xác định vai trò, vị trí 
của già làng nằm ở đâu, là thành viên quan 
phương hay phi quan phương trong hệ thống 
tổ chức xã hội của buôn làng. Khảo sát thực 
địa cho thấy, già làng ở buôn Ma Am, xã Đà 
Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng của 
người Chu Ru là thành viên mặt trận xã kiêm 
nhiệm, có phụ cấp hàng tháng, nhưng là phụ 
cấp thành viên mặt trận; già làng ở làng Tơ 
Nâu, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh 
Gia Lai của người Ba Na là bí thư chi bộ 
kiêm nhiệm, có phụ cấp hàng tháng, nhưng là 
phụ cấp bí thư chi bộ; già làng ở làng Kon 
Kơ Pách, xã Đăk Bla, thành phố Kon Tum, 
tỉnh Kon Tum của người Ba Na và già làng ở 
buôn Kao, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma 
Thuột, tỉnh Đăk Lăk của người Ê Đê không 
là công chức kiêm nhiệm, chỉ là thành viên 
trong tổ hòa giải nên không hưởng phụ cấp. 
Như vậy, tổ chức già làng Tây Nguyên hiện 
tại là phi quan phương, dù vai trò là to lớn. 
Người xử kiện thấy tồn tại ở buôn làng các 
dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru, Raglai trong 
những thập niên qua, vai trò của người xử 
kiện vẫn được tôn trọng và phát huy trong 
việc hòa giải phân xử các vụ việc liên quan 
đến vi phạm trật tự xã hội và phong tục. Điều 
này dễ hiểu và cần thiết vì họ là người am 
hiểu phong tục tập quán và luật tục dân tộc, 
kiến thức và trí tuệ của họ sẽ giúp ích nhiều 
cho phân xử các vụ việc trong làng. 
Ở mỗi buôn làng Tây Nguyên xưa đều có 
người thầy cúng (pơ jâu hay kojâu) làm 
nhiệm vụ thay mặt buôn làng và các thành 
viên trong buôn làng giao tiếp với thần linh 
trong lễ thức và trong chữa bệnh. Do vai trò 
chức năng đặc biệt, ở các buôn làng dân tộc 
thiểu số tại chỗ chưa theo Công giáo và Tin 
lành, người thầy cúng vẫn được tôn trọng và 
âm thầm hành nghề. Tại hai buôn Tơ Nâu 
của người Ba Na và buôn Ma Am của người 
Chu Ru, mỗi buôn hiện còn một thầy cúng. 
Thầy cúng ở buôn Ma Am không chỉ nổi 
tiếng trong làng, mà còn ở trong vùng. 
Toà án phong tục buôn làng về danh 
nghĩa bị xóa bỏ để thay vào đó là pháp luật 
và tòa án nhà nước, nhưng trong thực tế vẫn 
tiếp tục tồn tại dưới hình thức mới là tổ hòa 
giải buôn làng. Điều này xuất phát từ thực 
tế, một mặt, pháp luật nhà nước cố gắng 
được đưa vào nhưng chưa phù hợp, chưa đi 
vào cuộc sống và chưa phát huy vai trò cần 
có ở đối tượng cư dân đặc thù; mặt khác, tòa 
án phong tục vẫn chứng minh được sức sống 
và vai trò cần thiết trong đời sống buôn làng. 
Đa số các vụ việc mâu thuẫn xích mích nhỏ 
ở các buôn Kon Kơ Pách và Tơ Nâu của 
người Ba Na, Ma Am của người Chu Ru đều 
được giải quyết nội bộ bởi tổ hòa giải. 
Thành phần của tổ hòa giải như là tòa án 
phong tục được mở rộng hơn trước, ngoài 
già làng và người xử kiện, có thêm thôn 
trưởng, thành viên mặt trận xã và thư ký. Tổ 
trưởng tổ hòa giải có thể là thành viên mặt 
trận xã, có thể là già làng, có thể là thành 
viên mặt trận kiêm già làng. Ở các buôn 
làng người Ê Đê huyện Ea Hleo, tỉnh Đăk 
Lăk, tổ hòa giải bao gồm thôn trưởng, già 
làng, thành viên mặt trận xã, hai đương sự 
và người xử kiện, do già làng làm tổ trưởng. 
Mỗi khi có vụ việc, các thành viên tổ hòa 
giải xem xét diễn tiến vụ việc, vận dụng luật 
tục để phân tích tính chất đúng sai mỗi bên, 
sau đó thảo luận và thống nhất phương án 
xử lý. Do có sự thay đổi của môi trường và 
điều kiện tự nhiên, tổ hòa giải - toà án phong 
tục ở các buôn làng hiện nay chủ yếu giải 
quyết những vụ việc xã hội như đánh chửi 
Tổ chức xã hội 75 
nhau, ly hôn, trộm cắp, ngoại tình, tranh 
chấp tài sản, tranh chấp đất đai, mâu thuẫn 
vợ chồng, mà ít giải quyết những vụ việc 
liên quan đến bảo vệ tài nguyên môi trường. 
Như thế, ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vai 
trò của luật tục ở các buôn làng tại chỗ còn 
khá đậm nét. Trong khi ngành tòa án chưa 
tìm ra được cơ chế và thể thức phù hợp với 
nhận thức và phong tục tại chỗ thì tòa án 
phong tục và luật tục vẫn cần được nhìn 
nhận và duy trì hài hòa, nhằm góp phần ổn 
định xã hội và bảo tồn văn hóa truyền thống. 
Nếu so sánh sẽ thấy có một số khác biệt 
giữa tổ chức xã hội thôn làng dân tộc thiểu 
số tại chỗ với tổ chức xã hội thôn làng dân 
tộc Kinh và thiểu số mới đến như sau. Thứ 
nhất, do có vấn đề an ninh - chính trị, nên ở 
các thôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ có chức 
danh thôn đội trưởng, tổ trưởng liên gia và cán 
bộ tăng cường làm công tác an ninh. Thứ hai, 
do trình độ quản lý nhà nước, trình độ lý 
luận chính trị và trình độ giáo dục phổ thông 
của cán bộ thấp hơn nên hoạt động của tổ 
chức xã hội quan phương ở các thôn làng 
dân tộc thiểu số tại chỗ kém hiệu quả hơn. 
Thứ ba, tổ chức xã hội tự quản buôn làng ở 
các thôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ còn 
được duy trì và phát huy đậm nét hơn, thông 
qua vai trò của già làng, người xử kiện, thầy 
cúng và tổ hòa giải. Thứ tư, ở các thôn làng 
dân tộc thiểu số tại chỗ, không xuất hiện các 
hội đoàn người cao tuổi, hội đồng niên và 
các hội nghề nghiệp, văn hóa, thể thao mới. 
4. Tổ chức xã hội ở các thôn làng xen 
cư dân tộc thiểu số tại chỗ với dân tộc 
mới đến 
 Loại hình thôn làng xen cư dân tộc thiểu 
số tại chỗ với dân tộc mới đến xuất hiện sau 
năm 1975 và ngày càng phổ biến do kết quả 
của quá trình di dân ở Tây Nguyên. Đây là 
loại làng xen cư giữa một bên là dân tộc 
thiểu số tại chỗ và một bên là các dân tộc 
mới đến (bao gồm dân tộc Kinh và các dân 
tộc thiều số miền núi phía Bắc). Chẳng hạn, 
buôn Kao, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma 
Thuột, tỉnh Đăk Lăk, có 217 hộ, 1.130 nhân 
khẩu, trong đó, dân tộc Ê Đê 120 hộ, 769 
nhân khẩu, dân tộc Kinh 97 hộ, 341 khẩu, 
còn lại là các dân tộc Tày và Mường ; buôn 
Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh 
Lâm Đồng, có 114 hộ, 537 nhân khẩu, trong 
đó, dân tộc Chu Ru 70 hộ, 359 nhân khẩu, 
dân tộc Kinh 44 hộ, 178 nhân khẩu, còn lại 
là người Cơ Ho và người Nùng. 
Do là làng góp, hình thành từ nhiều dân 
tộc khác nhau trên cơ sở làng của một dân 
tộc thiểu số tại chỗ, nên tổ chức xã hội ở các 
làng xen cư dân tộc thiểu số tại chỗ với dân 
tộc mới đến nhìn chung phức tạp và có 
những đặc thù riêng. 
Hệ thống tổ chức xã hội mới được xây 
dựng. Về nguyên tắc, cán bộ được cơ cấu để 
có đủ đại diện các dân tộc trong thôn làng. 
Mặc dù vậy, do khác biệt về trình độ quản lý 
nhà nước và trình độ giáo dục, thường thấy 
là các chức danh quan trọng như trưởng 
thôn, bí thư chi bộ là người các dân tộc mới 
đến, các chức danh khác như phó thôn, công 
an viên, mặt trận và trưởng các ngành đoàn 
thể chính trị là người các dân tộc thiểu số tại 
chỗ. Hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ 
chức xã hội mới thuộc loại trung bình trong 
bốn loại thôn làng. Bất cập là do cơ cấu dân 
tộc đa dạng và phức tạp, có trình độ phát 
triển kinh tế - xã hội tự thân khác nhau, tâm 
lý, văn hóa, phong tục, tập quán và ngôn 
ngữ không giống nhau nên việc điều hành 
triển khai các chủ trương, đường lối, chính 
sách của Đảng và Nhà nước thường gặp khó 
khăn, trở lực. 
Thiết chế tổ chức xã hội truyền thống còn 
được duy trì ở bộ phận dân tộc thiểu số tại chỗ 
nhưng mờ nhạt và vắng bóng dần ở các dân 
tộc mới đến. Tại Buôn Kao, Ea Kao, Buôn 
Ma Thuột, Đăk Lăk, vai trò của già làng và tổ 
hòa giải ở người Ê Đê vẫn được duy trì, còn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 6/2012 
76 
vai trò của thầy cúng đã mất hẳn do sự tồn tại 
của Tin lành. Tại buôn Ma Am, Đà Loan, Đức 
Trọng, Lâm Đồng, vai trò của già làng, thầy 
xử kiện, thầy cúng và tổ hòa giải ở bộ phận 
dân tộc Chu Ru đều được duy trì, trong đó, 
thầy cúng người Chu Ru cũng đồng thời là 
thành viên mặt trận xã và già làng của thôn. 
Vai trò của thiết chế tự quản hương thôn 
người Kinh và của thiết chế tự quản bản làng 
các dân tộc thiểu số mới đến hầu như mất hẳn. 
Trong khi cấu trúc dòng họ của bộ phận dân 
tộc thiểu số tại chỗ còn tương đối nguyên vẹn 
thì do hệ quả của di cư theo quy mô gia đình, 
cấu trúc dòng họ của bộ phận dân tộc mới đến 
hầu như không còn, dẫn đến vai trò của dòng 
họ đậm nét ở bộ phận dân tộc thiểu số tại chỗ 
và mờ nhạt đi ở các dân tộc mới đến. Tính 
chất manh mún của thành phần dân tộc dẫn 
đến các tổ chức xã hội phi quan phương mới 
(ở làng dân tộc Kinh và làng các dân tộc thiểu 
số mới đến) như hội Người cao tuổi, hội đồng 
niên, các câu lạc bộ văn hóa - thể thao không 
có điều kiện xuất hiện và tồn tại. 
Thành phần tôn giáo ở các thôn làng xen 
cư dân tộc thiểu số tại chỗ với dân tộc mới 
đến nhìn chung phức tạp hơn so với các loại 
hình thôn làng khác. Nhiều khi trong một 
thôn làng tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau: 
tại buôn Kao tồn tại đồng thời ba tôn giáo là 
Tin Lành của người Ê Đê, Công giáo của 
người Kinh và Phật giáo của người Kinh; tại 
buôn Ma Am tồn tại đồng thời ba tôn giáo, 
Tin Lành và Công giáo ở người Chu Ru, đạo 
Phật ở người Kinh. Ở bộ phận dân tộc tại 
chỗ theo tôn giáo mới của các thôn làng này, 
tồn tại hệ thống tổ chức tôn giáo bao gồm 
ban chức việc, ông biện, trưởng các giáo 
đoàn (Công giáo) hay ban quản nhiệm, ban 
chấp sự, trưởng các giáo đoàn (Tin Lành). 
Kết luận 
Ở các vùng miền núi khác đã và đang tồn 
tại tổ chức xã hội thôn làng tương đối thống 
nhất do là làng một dân tộc, cư dân trong 
một thôn làng có cùng đặc điểm và trình độ 
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và phong 
tục tập quán. 
Ở Tây Nguyên, tồn tại đồng thời nhiều 
kiểu tổ chức xã hội khác nhau trong phạm vi 
một thôn làng, mỗi kiểu thôn làng có những 
đặc điểm riêng về hiệu quả hoạt động. Tổ 
chức xã hội mới ở các làng dân tộc Kinh 
hoạt động khá tốt, đáp ứng yêu cầu đặt ra; 
bên cạnh đó, ảnh hưởng của các tổ chức xã 
hội truyền thống hầu như đã giải thể. Tổ 
chức xã hội mới ở các làng dân tộc thiểu số 
mới đến hoạt động tương đối tốt, cơ bản đáp 
ứng yêu cầu đặt ra; bên cạnh đó, ảnh hưởng 
của tổ chức xã hội truyền thống còn tồn tại 
nhưng đã mờ nhạt. Tổ chức xã hội mới ở các 
làng dân tộc thiểu số tại chỗ chưa đáp ứng 
yêu cầu đặt ra; bên cạnh đó, ảnh hưởng của 
tổ chức xã hội truyền thống còn đậm nét. Tổ 
chức xã hội mới ở các làng xen cư dân tộc 
thiểu số tại chỗ với dân tộc mới đến hoạt 
động hiệu quả trung bình; bên cạnh đó, ảnh 
hưởng của tổ chức xã hội truyền thống 
không còn ở bộ phận dân tộc mới đến và tồn 
tại mờ nhạt ở bộ phận các dân tộc thiểu số 
tại chỗ. 
Tổ chức xã hội thôn làng Tây Nguyên là 
rất đa dạng và phức tạp. Sự tồn tại đồng 
thời nhiều kiểu thiết chế tổ chức xã hội 
khác nhau trong phạm vi một thôn làng, 
mỗi kiểu lại có những đặc điểm riêng về 
trình độ phát triển xã hội tự thân, ngôn ngữ 
- văn hóa, hiệu quả hoạt động của thiết chế 
tổ chức xã hội mới và mức độ ảnh hưởng 
của thiết chế tổ chức xã hội truyền thống là 
thách thức đối với phát triển bền vững Tây 
Nguyên, nhất là ở kiểu thôn làng dân tộc 
thiểu số tại chỗ và kiểu thôn làng xen cư 
dân tộc thiểu số với dân tộc mới đến. Thứ 
nhất, thách thức cho xây dựng và thực hiện 
chính sách vì không thể áp dụng một chính 
sách cho tất cả các kiểu thiết chế tổ chức 
xã hội thôn làng khác nhau. Thứ hai, thách 
thức cho triển khai các chủ trương, chính 
Tổ chức xã hội 77 
sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng 
và Nhà nước, vì trình độ khác nhau của 
cán bộ, người dân các nhóm dân tộc trong 
kiểu làng xen cư dân tộc thiểu với dân tộc 
mới đến và trình độ thấp kém của cán bộ, 
người dân trong kiểu làng dân tộc thiểu số 
tại chỗ. Thứ ba, thách thức cho việc xây 
dựng nếp sống văn hóa vì sự đa dạng văn 
hóa của các dân tộc trong kiểu làng xen cư 
dân tộc thiểu số với dân tộc mới đến và 
tính đặc thù của văn hóa trong kiểu làng 
dân tộc thiểu số tại chỗ. 
Trong thập niên tới, tính đa dạng và phức 
tạp về văn hóa có thể là lợi thế, nhưng tính đa 
dạng và phức tạp về thiết chế tổ chức xã hội 
của các dân tộc lại là thách thức và trở lực đối 
với sự nghiệp phát triển bền vững Tây Nguyên. 
Yêu cầu đặt ra là cần xây dựng các mô hình 
thôn làng phù hợp với đặc điểm tổ chức xã hội 
thôn làng, đảm bảo để thôn làng trở thành pháo 
đài vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội và 
bảo đảm an ninh - chính trị Tây Nguyên. 
______________________ 
Chú thích 
1. Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Số liệu kinh tế 
- xã hội và xóa đói giảm nghèo Tây Nguyên năm 2009, 
tr. 76. 
2. Bùi Minh Đạo, 2011. Thực trạng phát triển Tây 
Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 167 
3. Đỗ Quang Hưng, 2011. Một số vấn đề về Tin Lành 
Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 
2, tr. 4. 
4. Bùi Minh Đạo, 2010. Tổ chức và hoạt động buôn 
làng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 134 -135. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bùi Minh Đạo, 2010. Tổ chức và hoạt động 
buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây 
Nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
2. Bùi Minh Đạo, 2011. Thực trạng phát triển Tây 
Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững, 
Nxb. Khoa học xã hôi, Hà Nội. 
3. Đỗ Quang Hưng, 2011. Một số vấn đề về Tin 
Lành Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học xã hội Tây 
Nguyên, số 2. 
4. Đỗ Quang Hưng,2011. Một số vấn đề về Tin 
Lành Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học xã hội Tây 
Nguyên, số 2. 
5. Henri Maitre, 2009. Rừng người Thượng. Nxb. 
Tri thức. Hà Nội. 
6. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc 
gia, 2002. Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội 
buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, Nxb. Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
7. Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, 2009. Số 
liệu kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo Tây 
Nguyên năm 2009. 
8. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, 1986. Một 
số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
9. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, 1989. Tây 
Nguyên trên đường phát triển. Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfto_chuc_xa_hoi_o_thon_lang_tay_nguyen_hien_nay.pdf