Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế

Nhằm tìm hiểu thực trạng, nhu cầu phát

triển nghề công xã hội tại các cơ sở y tế, nghiên

cứu mô tả cắt ngang đã đợc tiến hành tại 8

bệnh viện tuyến trung ơng, một số cơ sở y tế tại

6 tỉnh/thành và 4 cơ sở đào tạo về chuyên ngành

công tác xã hội (CTXH) trong cả nớc. Kết quả

nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế hiện đang

phải chịu áp lực lớn trong cung cấp dịch vụ

khám chữa bệnh (KCB) tại các cơ sở y tế công

lập thuộc các tuyến với tình trạng quá tải phổ

biến ở hầu hết các bệnh viện đợc khảo sát. Quy

mô và công suất sử dụng giờng bệnh luôn ở

mức cao với khoảng từ >110% đến 130% trong

khi định biên cán bộ y tế thờng thấp hơn so với

quy định. Gần 1/3 số cán bộ y tế đợc phỏng vấn

cha hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lợng

cung cấp dịch vụ KCB với lý do chủ yếu là thời

gian khám bệnh/lần cha thỏa đáng và các dịch

vụ t vấn hớng dẫn, hỗ trợ tâm lý cho bệnh

nhân cha đợc quan tâm đúng mức. Một số

bệnh viện đã triển khai hoạt động CTXH nhằm

giảm bớt áp lực công việc cho nhân viên y tế và

tăng cờng các trợ giúp xã hội cho bệnh nhân

trong quá trình KCB. Tuy nhiên, hoạt động

CTXH đang đợc thực hiện mang tính tự phát

với sự đa dạng cả về mô hình tổ chức, hình thức

sử dụng nhân lực cũng nh nội dung hoạt động.

Các hoạt động CTXH trong cộng đồng cũng rất

cần đợc chú ý nhng lại cha nhận đợc sự

quan tâm đúng mức. Cần tăng cờng đẩy mạnh

hơn nữa công tác truyền thông về sự cần thiết,

vai trò của hoạt động CTXH trong ngành y và có

lộ trình về phát triển nghề CTXH trong Ngành

cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng

của các đơn vị trong thực tế

 

pdf 8 trang yennguyen 3500
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế

Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế
17
NGHIÊN CứU ĐáNH GIá THựC TRạNG Và NHU CầU 
PHáT TRIểN NGHề CÔNG TáC Xã HộI TRONG NGàNH Y Tế
1
ThS Vũ Thị Minh Hạnh , ThS Vũ Thị Mai Anh, 
CN Hoàng Ly Na và cộng sự
2
Nhằm tìm hiểu thực trạng, nhu cầu phát 
triển nghề công xã hội tại các cơ sở y tế, nghiên 
cứu mô tả cắt ngang đã được tiến hành tại 8 
bệnh viện tuyến trung ương, một số cơ sở y tế tại 
6 tỉnh/thành và 4 cơ sở đào tạo về chuyên ngành 
công tác xã hội (CTXH) trong cả nước. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế hiện đang 
phải chịu áp lực lớn trong cung cấp dịch vụ 
khám chữa bệnh (KCB) tại các cơ sở y tế công 
lập thuộc các tuyến với tình trạng quá tải phổ 
biến ở hầu hết các bệnh viện được khảo sát. Quy 
mô và công suất sử dụng giường bệnh luôn ở 
mức cao với khoảng từ >110% đến 130% trong 
khi định biên cán bộ y tế thường thấp hơn so với 
quy định. Gần 1/3 số cán bộ y tế được phỏng vấn 
chưa hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lượng 
cung cấp dịch vụ KCB với lý do chủ yếu là thời 
gian khám bệnh/lần chưa thỏa đáng và các dịch 
vụ tư vấn hướng dẫn, hỗ trợ tâm lý cho bệnh 
nhân chưa được quan tâm đúng mức. Một số 
bệnh viện đã triển khai hoạt động CTXH nhằm 
giảm bớt áp lực công việc cho nhân viên y tế và 
tăng cường các trợ giúp xã hội cho bệnh nhân 
trong quá trình KCB. Tuy nhiên, hoạt động 
CTXH đang được thực hiện mang tính tự phát 
với sự đa dạng cả về mô hình tổ chức, hình thức 
sử dụng nhân lực cũng như nội dung hoạt động. 
Các hoạt động CTXH trong cộng đồng cũng rất 
cần được chú ý nhưng lại chưa nhận được sự 
quan tâm đúng mức. Cần tăng cường đẩy mạnh 
hơn nữa công tác truyền thông về sự cần thiết, 
vai trò của hoạt động CTXH trong ngành y và có 
lộ trình về phát triển nghề CTXH trong Ngành 
cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng 
của các đơn vị trong thực tế.
Tóm tắt: 
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy ở bất cứ 
giai đoạn nào với bất kể trình độ phát triển ra sao 
bao giờ cũng nảy sinh các vấn đề xã hội cùng với 
các nhóm xã hội yếu thế cần phải được quan tâm 
giúp đỡ. Các vấn đề này chỉ có thể giải quyết 
được bằng những tri thức và phương pháp khoa 
học của nghề Công tác xã hội.
Công tác xã hội lần đầu tiên được triển khai 
trong các bệnh viện vào năm 1905 tại Boston, 
Mỹ. Đến nay hầu hết các bệnh viện ở Mỹ đều có 
phòng Công tác xã hội và đã trở thành một trong 
những điều kiện bắt buộc để các bệnh viện được 
công nhận là hội viên của Hội các bệnh viện [1], 
[5]. Tại Việt Nam, CTXH trong bệnh viện cũng 
đã bước đầu xuất hiện tại một số bệnh viện 
tuyến TƯ và tuyến tỉnh. 
Ngày 25/3/2010, Chính phủ đã phê duyệt Đề 
án 32/2010/QĐ-TTg về “Phát triển nghề công 
tác xã hội giai đoạn 2010-2020” với mục tiêu 
phát triển công tác xã hội trở thành một nghề ở 
Việt Nam [3]. Ngày 15/7/2011, Bộ Y tế cũng đã 
ban hành Quyết định phê duyệt Đề án “Phát 
triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế giai 
đoạn 2011-2020” với mục tiêu hình thành và 
Đặt vấn đề
1
2
 - 
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế.
ThS Vũ Thị Mai Anh, ThS Trần Thị Hồng Cẩm, ThS Trần 
Vũ Hiệp, ThS Hoàng Thị Mỹ Hạnh, ThS Trịnh Thị Sang, ThS 
Nguyễn Việt Hà, ThS Nguyễn Trọng Quỳnh, ThS Nguyễn 
Văn Hùng, CN Hoàng Ly Na Viện Chiến lược và Chính 
sách Y tế.
BS. Phạm Thị Nga - Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ Y tế.
ThS. Nguyễn Thị Hồng Yến - Cục Quản lý Khám chữa bệnh, 
Bộ Y tế.
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí 
18
Nghiên cứu chính sách
phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế, 
góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả của sự 
nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe 
nhân dân [2].
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm 
hiểu thực trạng, nhu cầu phát triển nghề công 
tác xã hội tại các cơ sở y tế, trên cơ sở đó đề xuất 
kế hoạch đào tạo nhân lực về chuyên ngành này 
trong thời gian tới.
1. Phân tích những khó khăn, bất cập về nhân 
lực y tế tại các cơ sở y tế hiện nay đối với việc 
làm gia tăng sự hài lòng của người bệnh. 
2. Xác định nhu cầu đào tạo nhân lực chuyên 
ngành CTXH chăm sóc sức khỏe trong thời gian 
tới.
Mục tiêu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Nhóm triển khai thực hiện: lãnh đạo và 
cán bộ tại các cơ sở y tế từ Trung ương tới địa 
phương.
- Nhóm hưởng lợi: bệnh nhân, người dân 
trong cộng đồng.
Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại 8 bệnh viện tuyến trung ương (Bệnh 
viện Bạch Mai, Bệnh viện Trung ương Huế, 
Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đa khoa Trung 
ương Cần Thơ, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh 
viện K), 4 cơ sở đào tạo chuyên ngành công tác 
xã hội (Đại học Thăng Long, Đại học Khoa học 
xã hội và nhân văn, Đại học Lao động xã hội, 
Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh) và 11 bệnh 
viện đa khoa, chuyên khoa tuyến tỉnh, 7 bệnh 
viện tuyến quận/huyện, 6 trung tâm y tế dự 
phòng (TTYTDP)/Trung tâm Phòng chống các 
bệnh xã hội (TTPCBXH) và 12 xã/phường tại 6 
tỉnh/thành phố trong cả nước.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
Đối tượng, địa bàn và phương 
pháp nghiên cứu
ngang sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu là 
định lượng và định tính.
Các phương pháp thu thập thông tin bao 
gồm: (1) Thu thập thông tin bằng biểu mẫu 
thống kê (BMTK) gửi tới các bệnh 
viện/TTYTDP/TTPCBXH thuộc địa bàn nghiên 
cứu; (2) Điều tra bằng phiếu hỏi tự điền với 942 
nhân viên y tế (NVYT) và 151 nhân viên CTXH; 
(3) Phỏng vấn phiếu hỏi bán cấu trúc với 899 
bệnh nhân đang sử dụng dịch vụ tại các bệnh 
viện; (4) Phỏng vấn sâu 78 cuộc với lãnh đạo các 
đơn vị thuộc địa bàn nghiên cứu; (5) Thảo luận 
nhóm 101 cuộc với các nhóm đối tượng như bác 
sỹ, điều dưỡng, nhân viên CTXH, bệnh 
nhân/người nhà bệnh nhân, sinh viên năm 3,4 
đang theo học chuyên ngành CTXH...
Thông tin chung về các đơn vị thuộc địa 
bàn nghiên cứu
Về quy mô giường bệnh: Hầu hết các bệnh 
viện thuộc địa bàn khảo sát đều có số giường 
thực kê cao hơn so với số giường kế hoạch và 
luôn ở trong tình trạng quá tải với công suất sử 
dụng giường bệnh phổ biến ở mức từ >80% đến 
>110%. Trong số 26 bệnh viện được khảo sát tại 
các tuyến, có 16 bệnh viện, (chiếm 61,3%) có số 
giường thực kê nhiều hơn so với giường kế 
hoạch.
Về công suất sử dụng giường bệnh: Số bệnh 
viện quá tải về công suất sử dụng giường bệnh là 
21/23, chiếm 91,3%. Một số bệnh viện đang ở 
mức quá tải trầm trọng với công suất sử dụng 
giường bệnh vượt quá 150% như Bệnh viện K 
(253%), Bệnh viện Bạch Mai (165%), BVĐK 
TW Huế (150,1%).
Khó khăn, bất cập về nhân lực của các cơ 
sở Y tế hiện nay đối với việc đáp ứng nhu cầu 
của người bệnh trong cung cấp dịch vụ 
CSSK
Đối với các cơ sở KCB:
Tình trạng quá tải xảy ra ở hầu hết các bệnh 
viện. Càng ở bệnh viện tuyến trên, tỷ lệ cán bộ y 
Kết quả và bàn luận
19
tế nhận thấy tình trạng quá tải về số lượng bệnh 
nhân sử dụng dịch vụ KCB hàng ngày càng cao 
và càng trầm trọng. Số cán bộ công tác tại bệnh 
viện tuyến huyện nhận thấy quá tải về số lượng 
bệnh nhân sử dụng dịch vụ hàng ngày là 24,7% 
và quá tải trầm trọng chỉ có 3,5%. Các tỷ lệ 
tương ứng đối với cán bộ của bệnh viện tuyến 
tỉnh và bệnh viện tuyến TƯ cao hơn hẳn: 52,7% 
và 10,8% đối với bệnh viện tuyến tỉnh; 59,1% và 
17,9% đối với bệnh viện tuyến TƯ. Mức độ quá 
tải cao nhất là ở bộ phận Hành chính (62,2%), 
tiếp theo là lĩnh vực Lâm sàng (54,8%). 
Biểu 1. ý kiến của NVYT về mức độ quá tải số lượng bệnh nhân
hàng ngày theo phân tuyến bệnh viện.
Về nhân lực: Trong 26 bệnh viện được khảo 
sát, có 9 bệnh viện đã có đủ định biên theo quy 
định của Thông tư 08 (chiếm 34,6%), 6 bệnh 
viện vượt (chiếm 23,1%) và 11 bệnh viện chưa 
đủ (42,3%). Hiện vẫn còn gần 1/2 số bệnh viện 
thuộc địa bàn nghiên cứu chưa đáp ứng đầy đủ 
nhân lực Y tế theo quy định của Thông tư 08. 
67.3%
35.0%
33.9%
45.1%
92.0%
91.0%
65.5%
88.4%
84.0%
82.9%
70.6%
97.3%
0% 20% 40% 60% 80% 100%
BV Nhân dân 115
BV tâm thần Nam Định
BV Nhi TƯ
Biểu 2. Tỷ lệ nhân lực Y tế hiện có so với mức trung bình của Thông tư 08.
BVĐK tỉnh Nam Định
BVĐK tỉnh Lâm Đồng
BVĐK huyện Hải Hậu
BVĐK tỉnh Yên Bái
BVĐK TƯ Huế
BV K
BV Tâm thần TƯ 1
BV Lão khoa TƯ
BV Bạch Mai
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí 
100%
80%
60%
40%
20%
0%
Tuyến TƯ Tuyến tỉnh Tuyến huyện
0.2%
0.8%
1.0%
2.6%
5.9%
3.5%
Không ý kiến
Chưa sử dụng
hết công suất
Vừa phải
Quá tải
Quá tải trầm trọng
22.0%
59.1%
17.9%
10.8%
52.7%
32.9%
62.4%
24.7%
3.5%
20
Nghiên cứu chính sách
Bảng 1. Ước tính bình quân số bệnh nhân/cán bộ YT/ngày
Không chỉ quá tải trong cung cấp các dịch 
vụ cho người bệnh, nhân viên Y tế tại một số cơ 
sở KCB còn phải đương đầu với những thách 
thức từ sự thiếu hợp tác của bệnh nhân và người 
nhà bệnh nhân và tính chất đặc thù của từng 
chuyên khoa.
Tình trạng quá tải về số lượng bệnh nhân sử 
dụng dịch vụ/ngày và thiếu hụt về nhân lực Y tế 
là những tác nhân trực tiếp khiến cho chất lượng 
cung cấp dịch vụ tại hầu hết các cơ sở KCB hiện 
nay còn hạn chế. Kết quả khảo sát cho thấy, gần 
1/3 số cán bộ y tế trả lời phiếu tự điền thừa nhận 
chưa hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lượng 
cung cấp dịch vụ KCB hàng ngày, nhất là tại các 
bệnh viện tuyến TƯ. Lý do khiến cho các cán bộ 
y tế chưa hài lòng với dịch vụ do cơ sở KCB cung 
cấp là thời gian khám bệnh/lần chưa thỏa đáng 
(44%), chưa hướng dẫn cụ thể cho bệnh nhân về 
quy trình khám chữa bệnh (38%), chưa tư vấn 
đầy đủ trước khi cung cấp dịch vụ cận lâm sàng 
(24,9%) chưa tư vấn đầy đủ về thuốc và phác đồ 
điều trị (23,6%), chưa tư vấn tâm lý, động viên 
bệnh nhân an tâm điều trị (17%)...
Nhân viên Y tế thường xuyên chịu áp lực lớn 
trong công việc. Số lượng bệnh nhân/nhân viên 
y tế/ngày nhiều nhất là tại khu vực Khám bệnh, 
tiếp đến là khu vực Cận lâm sàng. Bình quân 
một nhân viên y tế tại bàn tiếp đón của khu vực 
khám bệnh phục vụ khoảng 49 bệnh nhân. Bình 
quân một bác sỹ tại khu vực Khám bệnh đã 
khám bệnh và kê đơn cho khoảng 42 bệnh 
nhân/ngày; khoảng thời gian trung bình/bệnh 
nhân chỉ đạt 11,4 phút.
Nội dung
Bình quân số
BN/CBYT/ngày
Tiếp đón và cung cấp thông tin về quy trình KCB cho bệnh nhân
Khám bệnh kê đơn tại phòng khám
Cung cấp các dịch vụ cận lâm sàng
Khám bệnh và chỉ định điều trị tại các khoa lâm sàng
Thực hiện theo đúng y lệnh của bác sĩ
Hoàn tất thủ tục ra viện
42
37
22
35
13
STT
491
2
3
4
5
6
Bảng 2. ý kiến của cán bộ Y tế về chất lượng KCB theo tuyến bệnh viện (%)
Mức độ Trung ương Tỉnh Huyện Chung
Rất bằng lòng 8.5% 11.8% 14.1% 10.8%
Bằng lòng
Chưa bằng lòng
Khó trả lời
55.5%
29.7%
6.3%
57.9%
23.2%
7.0%
69.4%
10.6%
5.9%
58.0%
24.6%
6.6%
Nhu cầu sử dụng dịch vụ KCB của người 
bệnh chưa được đáp ứng thỏa đáng: Tại tất cả 
các khâu trong chu trình khám chữa bệnh từ 
khoa khám bệnh tới các khoa cận lâm sàng, lâm 
sàng và hoàn tất thủ tục khi ra viện, vẫn còn 
nhiều khoảng trống trong cung cấp các dịch vụ 
hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân rất cần được lấp 
đầy bởi sự hiện diện của nhân viên CTXH. Bệnh 
nhân chưa thực sự hài lòng với chất lượng dịch 
vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện. Kết quả 
khảo sát cho thấy có 29,7% số cán bộ y tế thừa 
nhận sự chưa hài lòng của bệnh nhân đối với 
21
Bảng 3. ý kiến của bệnh nhân về lý do chưa hài lòng 
khi sử dụng dịch vụ khám bệnh (%).
dịch vụ KCB và 6,3% né tránh không nhận xét. 
Theo phản hồi của bệnh nhân tại các bệnh viện, 
khu vực Cận lâm sàng và khu vực Khám bệnh có 
tỷ lệ bệnh nhân hài lòng thấp hơn so với khu 
Điều trị: 89,4% và 91,8% so với 93,2%.
Lý do Khám bệnh Cận L.sàng Lâm sàng
Không được hướng dẫn chi tiết,
giải thích không đầy đủ
31,8
54,8
33,3
16,7
22,9
72,9
12,5
12,5
57,2
Điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo,
thiếu các dịch vụ hỗ trợ...
4,8 14,6 42,9
-
-
17,9
Mất thời gian chờ đợi
Thủ tục phức tạp
Thái độ ứng xử của nhân viên Y tế không tốt
Những lý do làm bệnh nhân chưa hài lòng mà 
nguyên nhân từ phía nhân viên y tế (không 
hướng dẫn chi tiết, giải thích không đầy đủ và 
thái độ ứng xử không tốt) chiếm tỷ lệ rất đáng 
quan tâm ở tất cả các công đoạn chủ yếu trong 
quá trình cung cấp dịch vụ KCB: từ >40% đến 
>70%. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này 
ngoài một phần do lỗi chủ quan từ nhân viên y 
tế, xét cho cùng đều do quá tải bệnh viện đem 
lại.
Đối với việc triển khai các Chương trình 
mục tiêu y tế quốc gia (CTMTYTQG) tại cộng 
đồng: Các CTMTYTQG triển khai ngày càng 
đa dạng trong khi nhân lực thực hiện các 
CTMTYTQG tại tuyến xã/phường chủ yếu là 
kiêm nhiệm; BN ngày càng nhiều, nhu cầu 
truyền thông GDSK, tư vấn hỗ trợ BN điều trị, 
tái hòa nhập cộng đồng ngày càng lớn.
Thực trạng CTXH tại các đơn vị Y tế 
thuộc địa bàn khảo sát
CTXH tại các bệnh viện:
Về mô hình tổ chức: Trong số 26 bệnh viện 
được khảo sát, có 22 đơn vị (84,6%) đã triển 
khai các hoạt động về CTXH nhưng chỉ có 5/22 
đơn vị (22,7%) có đầu mối chuyên trách về 
CTXH. Số bệnh viện còn lại là lồng ghép hoạt 
động về CTXH trong từng khoa/phòng trực 
thuộc. Mô hình tổ chức của các đầu mối chuyên 
trách về CTXH cũng không đồng nhất: có thể là 
trực thuộc Ban Giám đốc như Phòng CTXH của 
Bệnh viện Nhi TW hay Đơn vị Y Xã hội của BV 
Chợ Rẫy hoặc cũng có thể là một tổ thuộc khoa 
Điều dưỡng như ở BVĐK TW Huế, BV Nhân 
dân 115.
Về nhân lực: Có 151 nhân viên CTXH đang 
thực hiện các hoạt động hỗ trợ xã hội cho người 
bệnh tại 22 bệnh viện có triển khai các hoạt 
động này, trong đó 50,3% làm việc tại các BV 
tuyến trung ương; 23,2% làm việc tại BV tuyến 
tỉnh và 26,5% làm việc tại BV tuyến huyện. Nữ 
chiếm số đông trong những người làm CTXH tại 
bệnh viện (78,1%). Cán bộ được đào tạo chuyên 
ngành CTXH chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ 2%, còn lại 
chủ yếu được tào tạo trong ngành y (bác sỹ: 
10,6%; y sĩ: 9,3% và điều dưỡng: 58,9%).
Về phương thức hoạt động: Tỷ lệ cán bộ làm 
chuyên trách về CTXH tại các BV không cao 
(chỉ có 18,5%); số còn lại đa phần là làm kiêm 
nhiệm (41,8%) và cộng tác viên (39,7%). Kinh 
phí để duy trì các hoạt động về CTXH đã được 
huy động từ nhiều nguồn khác nhau song chủ 
yếu vẫn là từ các bệnh viện (81%).
Về những hoạt động đã triển khai: Nội dung 
của các hoạt động về CTXH đã được triển khai 
thực hiện khá phong phú trong thực tiễn, tuy 
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí 
22
Nghiên cứu chính sách
nhiên phần lớn vẫn là các hoạt động cung cấp 
thông tin về quy trình KCB cho bệnh nhân hoặc 
cung cấp các hỗ trợ về vật chất mang tính từ 
thiện xã hội hoặc kết nối với các dịch vụ phục vụ 
sinh hoạt trong và ngoài bệnh viện. Các nội 
dung về tư vấn và trợ giúp tâm lý cho bệnh nhân 
còn ít được các cơ sở KCB cũng như nhân viên 
CTXH thực hiện.
86.4%
81.8%
72.7%
90.9%
72.7%
54.5%
90.9%
77.3%
86.4%
86.4%
63.6%
22.7%
71.5%
41.7%
47.7%
41.1%
33.1%
70.2%
33.1%
41.1%
41.7%
53.0%
47.0%
46.4%
25.7%
0.6%
0% 50% 100%
Hướng dẫn thủ tục và quy trình khám chữa bệnh
Cung cấp thông tin, tư vấn về các dịch vụ CLS
Cung cấp thông tin, tư vấn về các dịch vụ lâm sàng
Chuyển tải thông tin của người bệnh tới CBYT
Hỗ trợ tâm lý cho người bệnh và gia đình
Hỗ trợ về vật chất cho người bệnh và gia đình
Quyên góp, tạo quỹ hỗ trợ cho người bệnh
Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bệnh
Giới thiệu BN tới các dịch vụ hỗ trợ khác trong BV
Hướng dẫn thủ tục xuất viện
Tư vấn hướng dẫn tuân thủ điều trị sau khi xuất viện
Nhắc lịch tái khám
Giới thiệu BN tới các dịch vụ hỗ trợ khác sau khi xuất viện
Khác
Nhân viên CTXH có cung cấp dịch vụ Bệnh viện có triển khai DV
86.4%
81.8%
Biểu 3. Nội dung của hoạt động CTXH tại các bệnh viện 
thuộc địa bàn khảo sát (%)
CTXH trong hầu hết các bệnh viện mặc dù 
mới chỉ mang tính tự phát nhằm đáp ứng những 
nhu cầu bức thiết của người bệnh và các cơ sở Y 
tế song cũng đã bước đầu mang lại nhiều lợi ích 
thiết thực, phát huy đắc lực vai trò hỗ trợ cho 
hoạt động điều trị.
Về những khó khăn, bất cập: mặc dù đây là 
một lĩnh vực rất cần thiết đối với các bệnh viện 
song để duy trì và phát triển họ đang phải đối 
mặt với nhiều khó khăn thách thức, trong đó nổi 
bật nhất là về nhân lực (85,7% chưa được đào 
tạo; 71,4% thiếu nhân lực); tiếp đến là thiếu 
kinh phí hoạt động (78,6%) và thiếu cơ sở pháp 
lý quy định về tổ chức, định biên của bộ phận 
này (71,4%)... Bên cạnh đó còn có một số khó 
khăn khác như: nội dung hoạt động chưa rõ ràng 
(64,3%) và thiếu sự cộng tác của nhân viên y tế 
(21,4%)...
CTXH tại cộng đồng:
Kết quả khảo sát cho thấy các hoạt động 
CTXH trong cộng đồng cũng rất cần được chú ý 
nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm đúng 
mức.
Nhu cầu đào tạo nhân lực chuyên ngành 
CTXHYT trong thời gian tới
23
Hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều nhận 
thấy hoạt động CTXH trong BV là rất cần thiết: 
76,9% số bệnh viện; 79,3% số cán bộ y tế và 
74,4% số bệnh nhân được phỏng vấn. ý kiến 
nên thành lập bộ phận độc lập chuyên trách về 
hoạt động này được 61,5% số bệnh viện và 
44,9% số cán bộ y tế đồng tình ủng hộ.
Về số lượng nhân viên CTXH: Tùy theo tuyến 
bệnh viện, quy mô, công suất sử dụng giường 
bệnh và cơ cấu tổ chức các khoa/phòng mà 
tuyển dụng số lượng nhân viên CTXH cho phù 
hợp với nhu cầu cũng như quy định về định biên 
trong thực tế. Với BV tuyến TƯ, tỉnh nên có bộ 
phận chuyên trách về CTXH trực thuộc Ban 
giám đốc (có từ 10- 25 nhân viên) và mạng lưới 
kiêm nhiệm tại các khoa/phòng trong bệnh viện 
(1 - 2 CB kiêm nhiệm/khoa/phòng). BV tuyến 
huyện cần 5 nhân viên CTXH chuyên trách và 
20 nhân viên CTXH kiêm nhiệm. Như vậy với 
42 bệnh viện TƯ, 348 bệnh viện tuyến tỉnh và 
615 bệnh viện huyện, ước tính cần > 3.000 nhân 
viên CTXH chuyên trách và > 12.000 nhân viên 
CTXH kiêm nhiệm trong cả nước.
Về hình thức tham gia: có 75,9% số cán bộ 
cho rằng nhân lực tiến hành các hoạt động về 
CTXH tại đơn vị nên làm chuyên trách và được 
đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này. Với ý kiến 
về cán bộ làm kiêm nhiệm, 51,4% cho rằng có 
thể phân công bác sỹ làm kiêm nhiệm; 60,8% 
nên phân công điều dưỡng làm kiêm nhiệm; 
49,8% nên phân công cán bộ các phòng chức 
năng làm kiêm nhiệm và 33,3% nên giao cho 
các tình nguyện viên bên ngoài...
cán bộ Y tế thường thấp hơn so với quy định. Tại 
cộng đồng, các CTMTYTQG được triển khai 
ngày càng đa dạng, số lượng bệnh nhân của các 
Chương trình ngày càng nhiều, nhân lực thực 
hiện phổ biến là kiêm nhiệm, vì vậy các hoạt 
động CTXH tại cộng đồng chưa được quan tâm 
thoả đáng.
Một số bệnh viện đã triển khai hoạt động 
CTXH nhằm giảm bớt áp lực công việc cho 
nhân viên y tế và tăng cường các trợ giúp xã hội 
cho bệnh nhân trong quá trình KCB. Tuy nhiên 
hoạt động CTXH hiện đang được thực hiện 
mang tính tự phát với sự đa dạng cả về mô hình 
tổ chức, hình thức sử dụng nhân lực cũng như 
nội dung hoạt động.
Nhu cầu phát triển nghề CTXH được hầu hết 
cán bộ lãnh đạo tại các cơ sở KCB và cán bộ 
triển khai các CTMTYTQG tại cộng đồng thuộc 
địa bàn khảo sát khẳng định, đồng thời cũng đã 
được một tỷ lệ đáng kể cán bộ y tế (79,3%) và 
bệnh nhân (74,4%) đồng tình. 
Kết luận
Nhân viên y tế tại các cơ sở y tế công lập các 
tuyến hiện đang phải chịu áp lực công việc lớn 
với tình trạng quá tải xảy ra phổ biến ở hầu hết 
các bệnh viện được khảo sát, quy mô và công 
suất sử dụng giường bệnh luôn ở mức cao với 
khoảng từ >110% đến 130% trong khi định biên 
Khuyến nghị
Cần có lộ trình về phát triển nghề CTXH 
trong Ngành cho phù hợp với nhu cầu và khả 
năng đáp ứng của các đơn vị trong thực tế. 
Đầu mối đảm nhận hoạt động về CTXH cần 
được tổ chức như một đơn vị độc lập trong các 
bệnh viện. Nội dung hoạt động về CTXH cần 
phải được hướng dẫn và triển khai toàn diện.
Chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực về CTXH 
trong các bệnh viện cũng như trong CSSKBĐ tại 
cộng đồng.
Ban hành hướng dẫn về tiêu chuẩn và chế độ 
chính sách đối với chức danh chuyên môn về 
CTXH trong ngành y tế.
Đẩy mạnh truyền thông về sự cần thiết, vai 
trò tác dụng của nhân viên CTXH trong ê kíp trị 
liệu tại BV cũng như tại cộng đồng.
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí 
24
Nghiên cứu chính sách
TàI LIệU THAM KHảO
1. Bộ Y tế (2010), Tài liệu Hội thảo “Phát triển công tác xã hội trong lĩnh vực y tế”, tháng 7/2010, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2011), Quyết định số 2514/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề á n “Phát triển nghề công 
tác xã hội trong ngành y tế giai đoạn 2011-2020.
3. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề á n “Phát triển nghề công tác xã 
hội giai đoạn 2010 2020” ngày 25/3/2010.
4. Charles A., Susan E. M., & Heidi H.L (2007), “Bằng chứng về giá trị hỗ trợ của CTXH trong bệnh viện”, 
Tạp chí Công tác xã hội trong ngành y tế, số 44(4), trang 17-32.
5. Jame P. D. (1992), “Vai trò của công tác xã hội trong bệnh viện”, Công tác xã hội trong ngành y tế, Số 
18(1), trang 107-116.
6. Rebecca G.J. & Sherry S. (2009), “CTXH bệnh viện: Vai trò và hoạt động chuyên môn”, Công tác xã hội 
trong ngành y tế, số ra 30/11, trang 856-870.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_danh_gia_thuc_trang_va_nhu_cau_phat_trien_nghe_co.pdf