Đánh giá tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây (2009-2012) trường hợp tỉnh Trà Vinh

Tóm tắt

Theo đánh giá của tổ chức quốc tế, chỉ số quyền

năng giới (GEM) của Việt Nam đạt 0,554, đứng thứ

62/109 nước (2010), thuộc nhóm nước có sự phát

triển trung bình về giới. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại

một số vấn đề cần khắc phục trên “con đường tiến

tới bình đẳng giới”. Vì vậy, bài viết nghiên cứu

tình hình bất bình đẳng giới ở Việt Nam – Trường

hợp tỉnh Trà Vinh cụ thể qua các lĩnh vực chính trị,

kinh tế, lao động – việc làm, giáo dục và gia đình.

Qua đó, bài viết đưa ra đánh giá về tình hình bất

bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Trà

Vinh nói riêng trong những năm gần đây (2009 -

2012), góp thêm cho độc giả cái nhìn rõ hơn về

vấn đề bình đẳng giới của Việt Nam và của tỉnh

Trà Vinh trong đoạn hiện nay

pdf 8 trang yennguyen 3000
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây (2009-2012) trường hợp tỉnh Trà Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây (2009-2012) trường hợp tỉnh Trà Vinh

Đánh giá tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm gần đây (2009-2012) trường hợp tỉnh Trà Vinh
40
Soá 15, thaùng 9/2014 40
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM 
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2009-2012) 
TRƯỜNG HỢP TỈNH TRÀ VINH
Assessing the gender inequity in Vietnam in recent years (2009-2012)
A case study in Tra Vinh
Tóm tắt
Theo đánh giá của tổ chức quốc tế, chỉ số quyền 
năng giới (GEM) của Việt Nam đạt 0,554, đứng thứ 
62/109 nước (2010), thuộc nhóm nước có sự phát 
triển trung bình về giới. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại 
một số vấn đề cần khắc phục trên “con đường tiến 
tới bình đẳng giới”. Vì vậy, bài viết nghiên cứu 
tình hình bất bình đẳng giới ở Việt Nam – Trường 
hợp tỉnh Trà Vinh cụ thể qua các lĩnh vực chính trị, 
kinh tế, lao động – việc làm, giáo dục và gia đình. 
Qua đó, bài viết đưa ra đánh giá về tình hình bất 
bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Trà 
Vinh nói riêng trong những năm gần đây (2009 - 
2012), góp thêm cho độc giả cái nhìn rõ hơn về 
vấn đề bình đẳng giới của Việt Nam và của tỉnh 
Trà Vinh trong đoạn hiện nay.
Từ khóa: bình đẳng giới, bất bình đẳng giới, 
tình hình bình đẳng giới, giới và phụ nữ, quyền 
năng giới, bình đẳng giới hiện nay.
Abstract
According to the international organizations, 
gender empowerment measure (GEM) of Vietnam 
reached 0.554, ranking 62/109 countries (2010), 
belonging to the group of countries with average 
growth of the world. However, there still exist some 
problems that need overcoming on “the way to 
gender equality”. Therefore, the article is to study 
the gender inequity in Vietnam – a case study in 
Tra Vinh Province more specifically through the 
fields of politics, economics, labor - employment, 
education and family. Thereby, assessing the 
situation of gender inequality in Vietnam and in 
Tra Vinh province in recent years (2009-2012). The 
article contribute a clearer view on this issue in 
Vietnam and Tra Vinh province in the current period. 
Key words: gender equality, gender inequality, 
gender equality situation, gender and women, 
gender empowerment, gender equality now.
1. Đặt vấn đề1
Trong thời gian gần đây, vấn đề bình đẳng giới 
đang được cả cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. 
Bởi vì, trên thực tế tình trạng bất bình đẳng giới đã 
và đang diễn ra phổ biến, đây là một trong những 
nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển kinh tế xã 
hội. Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân làm 
tăng đói nghèo, cản trở việc chăm sóc sức khỏe dân 
cư, hạn chế các cơ hội tăng thu nhập và gây nên hàng 
loạt các tổn thất khác cho xã hội. Những nước tích 
cực thúc đẩy bình đẳng giới thường đạt được tốc độ 
phát triển kinh tế cao và phát triển bền vững hơn. 
Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu 
thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động 
kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu 
về bình đẳng giới, và là quốc gia đạt được sự thay 
đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới 
trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á2. Tuy nhiên, 
không phải vì những thành tựu đó mà Việt Nam đã 
đạt được mục tiêu bình đẳng giới thực sự. Ở nước 
ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, một 
1 Phòng Khảo thí, Trường Đại học Trà Vinh
2 Nguyễn, Thị Kim Ngân. Định hướng quản lý Nhà nước về bình 
đẳng giới tại Việt Nam. Xem 19.9.2014.
<
asp?action=view&id=227&catid=218&maxid=200>
kỷ nguyên mới, nhưng hiện tượng phụ nữ bị đánh 
đập, bị lạm dụng, bị phân biệt đối xử, vẫn còn 
khá phổ biến3. 
Trà Vinh là một tỉnh nằm ở phía Đông Nam 
Đồng bằng sông Cửu Long, giữa hai con sông lớn 
là sông Cổ Chiên và sông Hậu, có truyền thống 
trồng lúa nước lâu đời. Dân số của Trà Vinh chỉ 
khoảng 1.1 triệu dân (tính tới thời điểm đầu năm 
2013), trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 
30%4 . Với những điều kiện như vậy, cho thấy ít 
nhiều phần nào Trà Vinh sẽ gặp phải những khó 
khăn nhất định trong vấn đề thực hiện bình đẳng 
giới. Thời gian qua, Trà Vinh đã nỗ lực thực hiện 
“Chiến lược Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ” và 
đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận từ các 
mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng về bình đẳng giới, 
vì sự tiến bộ của phụ nữ. Vai trò, vị thế của phụ 
3 Bích Nghĩa. Thực trạng bình đẳng giới của cộng đồng dân tộc 
Khmer tại huyện Gò Quao,tỉnh Kiên Giang. Xem 19.9.2014.
<123doc.vn/document/2219549-luan-van-tot-nghiep-dai-hoc-
chuyen-nganh-phat-trien-nong-thon-thuc-trang-binh-dang-gioi-cua-
cong-dong-dan-toc-khmer-tai-huyen-go-quao-tinh-kien-giang.htm>
4 Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh. Tiềm năng phát triển. Xem 
19.9.2014<
LLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gDIws_QzcPIwP_AFNLA08nI28jd-
9cAA4MQE_2CbEdFAPBcwPA!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/
wps/wcm/connect/web+content/PortalTraVinh/tongquantravinhv2/
tiemnangphattrien/>
Lý Ngọc Nhãn1
41
Soá 15, thaùng 9/2014 41
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
nữ trong xã hội được nâng lên, tỷ lệ nữ tham gia 
trên các lĩnh vực ngày càng tăng, tạo ra của cải vật 
chất, tinh thần cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, 
bên cạnh những mặt đạt được, những tồn tại, yếu 
kém vẫn còn, như cơ hội học hành của trẻ em gái 
còn hạn chế; tình trạng ngược đãi, bạo lực gia đình 
vẫn còn tồn tại.
Hiện nay, vấn đề bất bình đẳng giới cũng như 
giải phóng phụ nữ ở nước ta mà đặc biệt là ở tỉnh 
Trà Vinh được các ban ngành và toàn xã hội quan 
tâm sâu sắc. Để có được cái nhìn khái quát hơn về 
tình hình bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và 
ở tỉnh Trà Vinh nói riêng, bài viết: “Đánh giá tình 
trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong những 
năm gần đây (2009 - 2012) – Trường hợp Tỉnh 
Trà Vinh” sẽ phân tích rõ hơn vấn đề này.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm Giới
“Giới: là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm 
và quyền lợi cho nam và nữ nhìn từ góc độ xã hội; 
giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu 
phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ 
trong một bối cảnh cụ thể trong xã hội”5. Đặc trưng 
cơ bản nhất của giới là do dạy và học mà có. Vì 
vậy, những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do 
xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của xã 
hội về phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng, nó phụ 
thuộc vào đặc điểm văn hóa, kinh tế và chính trị, 
xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực, các giai tầng 
xã hội. Các quan niệm, các hành vi, chuẩn mực xã 
hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được.
2.2. Khái niệm Bình đẳng xã hội
“Bình đẳng xã hội là nói tới sự thừa nhận và 
thiết lập các định kiến, các cơ hội và các quyền lợi 
ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá 
nhân các nhóm xã hội”6. 
Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là 
không bằng nhau, không ngang nhau về các khía 
cạnh cơ bản của đời sống xã hội giữa các cá nhân, 
các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình 
đẳng xã hội được dùng để chỉ mối tương quan xã 
hội nào không bằng nhau đến mức gây tổn hại đến 
quyền và lợi ích của bên yếu thế. 
2.3. Khái niệm Bình đẳng giới
“Bình đẳng giới: là một cách tiếp cận giải quyết 
các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ theo 
cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách 
bình đẳng, bảo đảm chống lại gánh nặng thiên lệch 
của những tác động tiêu cực”7.
5 Trần, Thị Kim Xuyến.2011. Tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn 
đề xã hội”, chương 1
6 Lê, Ngọc Hùng, Nguyễn, Thị Mỹ Lộc. 2000. Xã hội học về giới và 
phát triển. Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, chương 1
7 Trần, Thị Kim Xuyến.2011. Tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn 
đề xã hội”, chương 1.
Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng 
với nhau về:
- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng;
- Các cơ hội được tham gia đóng góp và hưởng 
lợi từ các nguồn lực xã hội và quá trình phát triển;
- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình 
đẳng;
- Được hưởng thành quả bình đẳng trong một 
lĩnh lực của xã hội.
Hiểu theo cách cụ thể hơn, bình đẳng giới có 
nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau 
và có cơ hội như nhau để làm việc và phát triển. 
Nói bình đẳng giới không có nghĩa là chỉ đấu tranh 
quyền lợi cho phụ nữ mà là đấu tranh cho sự bất 
bình đẳng của cả hai giới. Nhìn chung, trong thời 
đại ngày nay, sự bất bình đẳng xảy ra đối với phụ 
nữ là đa số nên người ta nói nhiều đến việc đòi 
quyền lợi cho phụ nữ. 
2.4. Khái niệm về bình đẳng giới theo lĩnh vực 
khoa học pháp lý
Các thuật ngữ “bình đẳng nam nữ”, “nam nữ 
bình quyền” được sử dụng trong các văn bản pháp 
luật để thể hiện sự bình đẳng về địa vị pháp lý 
của nam và nữ trong các quan hệ pháp luật cụ thể. 
Theo điều 3 khoản 3 Luật Bình đẳng giới: “Bình 
đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang 
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng 
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của 
gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của 
sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học: “Là 
sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ, 
cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội 
có xét đến đặc điểm riêng của nữ giới, được điều 
chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ một cách 
hợp lý. Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự 
thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với các 
đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang 
nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết lập 
các cơ hội ngang nhau đối với nữ và nam trong xã 
hội”- Luật bình đẳng giới (Việt Nam), 2006.
3. Nội dung
3.1. Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan 
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vì thế để hiểu hết 
về thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam là một 
việc hết sức khó khăn. Vì vậy, bài viết chỉ đề cập 
đến một số lĩnh vực chính có tác động mạnh đến 
bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
42
Soá 15, thaùng 9/2014 42
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Bảng 1: Cơ cấu đại biểu tham gia vào Quốc hội qua các giai đoạn
 Đơn vị tính: Phần trăm (%) 
Chỉ tiêu Tỷ lệ nữ đại biểu Tỷ lệ nam đại biểu
Quốc hội khóa I (1946 - 1960) 3% 97%
Quốc hội khóa II (1960 - 1964) 13.7% 86.3%
Quốc hội khóa III (1964 - 1971) 16.7% 83.3%
Quốc hội khóa IV (1971 - 1975) 29.7% 70.3%
Quốc hội khóa V (1975 - 1976) 32% 68%
Quốc hội khóa VI (1976 - 1981) 26% 74%
Quốc hội khóa VII (1981 - 1987) 21.78% 78.22%
Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992) 18% 82%
Quốc hội khóa IX (1992 - 1997) 18.84% 81.16%
Quốc hội khóa X (1997 - 2002) 26.2% 73,8%
Quốc hội khóa XI (2002 - 2007) 27.3% 72.7%
Quốc hội khóa XII (2007 - 2011) 25.76% 74.24%
Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016) 24.4% 75.6%
 Nguồn: Báo cáo về sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam của Chương trình 
Phát triển Liên Hiệp Quốc, năm 2012
Tỷ lệ phụ nữ được bầu vào Quốc hội của 
Việt Nam dao động xung quanh 25% kể từ năm 
2007. Tỷ lệ hiện nay là 24.4%, thấp hơn ba nhiệm 
kỳ trước. Mặc dù Việt Nam được xếp hạng cao ở 
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về sự tham 
gia của phụ nữ trong Quốc hội. Tuy nhiên, tính từ 4 
nhiệm kỳ gần đây, tỷ lệ nữ được bầu vào Quốc hội 
không vượt quá 30%. Điều này rất quan trọng và 
là một chỉ số cho thấy các nghị định và nghị quyết 
nhằm tăng tỷ lệ đại diện của phụ nữ trong chính trị 
chưa thực sự phát huy hiệu quả. Một trong những 
lý do làm giảm tỷ lệ đại diện nữ là số lượng nữ 
ứng viên được lựa chọn hoặc đề cử trong bầu cử 
thấp. Theo số liệu của Liên minh nghị viện, phụ nữ 
chỉ chiếm 31.4% ứng viên trong bầu cử trên toàn 
quốc năm 2015. Trong số 260 ứng viên nữ, chỉ 122 
người trúng cử (47%), trong khi đó tỷ lệ trúng cử 
của các ứng viên nam là 67%. Từ đó, cho thấy tình 
hình bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trong hoạt động 
chính trị ở nước ta.
Trong khi tỷ lệ nữ đại biểu tham gia cơ quan lập 
pháp đạt tương đối cao thì trong cơ quan dân cử ở 
địa phương, tỷ lệ phụ nữ lại thấp hơn.
Bảng 2: Tỷ lệ nữ đại biểu tham gia hội đồng nhân dân các cấp
Các cấp
Giai đoạn 1999 - 2004 Giai đoạn 2004 - 2011 Giai đoạn 2011 – 2016
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
Cấp Tỉnh 22.33% 77.67% 23.80% 76.20% 25.17% 74.83%
Cấp Huyện 20.12% 79.88% 23.20% 76.80% 24.62% 75.38%
Cấp Xã 16.56% 83.44% 20.10% 79.90% 21.71% 78.29%
 Nguồn: Bộ Nội Vụ -Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước –Quốc hội khóa XIII, năm 2011
Qua số liệu thống kê, ta thấy tỷ lệ nữ đại 
biểu tham gia hội đồng nhân dân các cấp có 
bước phát triển qua các thời kỳ. Đây là tín hiệu 
đáng mừng cho nước ta trên con đường xóa 
bỏ bất bình đẳng giới. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ giới 
tham gia hội đồng nhân dân các cấp vẫn còn 
khá thấp so với tỷ lệ này ở nam giới. Điều này 
đủ chứng minh một lần nữa khẳng định bất bình 
đẳng giới trong chính trị vẫn còn xảy ra. 
3.1.2. Bất bình đẳng giới trong kinh tế, lao động 
- việc làm
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ 
tham gia hoạt động kinh tế ở mức cao (83% so với 
3.1.1. Bất bình đẳng giới trong chính trị
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và trong 
quá trình hoạch định chính sách luôn được Đảng và 
Nhà nước ta ghi nhận trong các chủ trương, đường 
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong hơn 
60 năm trưởng thành và phát triển, vai trò, vị trí của 
phụ nữ đã và đang dần được khẳng định và có những 
đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất 
nước. Tuy nhiên, do vẫn còn tồn tại quan niệm cho 
rằng phụ nữ lãnh đạo thì hiệu quả sẽ không cao bằng 
nam giới nên phụ nữ có chức vụ cao còn tương đối 
hạn chế, chưa tương xứng với tỷ lệ nữ trong dân số.
43
Soá 15, thaùng 9/2014 43
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Qua số liệu thống kê từ bảng 4, cho thấy tỷ lệ 
lao động nữ không có hợp đồng lao động chiếm 
23.5% trong khi tỷ lệ lao động nam chỉ chiếm 
16%. Như vậy, theo số liệu điều tra tỷ lệ nữ 
không có hợp đồng lao động cao hơn so với lao 
động nam đến 7.5%.
Bảng 5: Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế việc làm
 Đơn vị tính: Phần trăm (%) 
Vị thế việc làm
Năm 2009 Năm 2011 Năm 2012
Tổng số % Nữ Tổng số % Nữ Tổng số % Nữ
Tổng số 100 48.7 100 48.2 100 48.5
Chủ cơ sở 4.8 32.6 2.9 30.7 2.7 30.2
Tự làm 44.6 51.1 43.9 48.8 45.1 49.5
Lao động gia đình 16.9 64.1 18.6 64.47 17.5 64.2
Làm công ăn lương 33.4 40.1 34.6 40.0 34.7 40.6
Xã viên hợp tác xã 0.1 29.5 0.01 39.6 0.01 50.2
 Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm của Tổng Cục Thống kê, năm 2012
Qua số liệu thống kê từ Bảng 5, ta thấy tỷ lệ 
lao động nữ chiếm tỷ lệ cao trong lao động gia 
đình chiếm 64.1%, đây là nhóm lao động yếu thế 
không có công việc ổn định và hầu như không 
được hưởng một loại hình bảo hiểm xã hội nào. 
3.1.3. Bất bình đẳng trong giáo dục
Giáo dục là một trong những chính sách được 
ưu tiên ở Việt Nam và Chính phủ đã có nhiều nỗ 
lực trong việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh 
vực giáo dục. Bình đẳng giới trong giáo dục làm 
tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã 
hội. Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng 
tích cực đến nguồn nhân lực của tương lai.
Tại Việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái được tạo 
điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao 
trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Ngân sách 
chi cho giáo dục không ngừng tăng lên năm 2002 
chiếm 16.7%, năm 2005 chiếm 18%, năm 2008 
đến nay 20% so với tổng ngân sách. Mức chi cho 
giáo dục của Việt Nam tương đương với một số 
nước phát triển. Kết quả của những ưu tiên này 
đã thu hẹp khoảng cách giới và việc góp phần đầu 
tư vào con người đã làm cho Việt Nam đạt chỉ số 
phát triển con người (HDI) và chỉ số  ... g gia đình
Gia đình là một trong những thiết chế cơ bản của 
xã hội. Cùng với tiến bộ xã hội, ngày càng có nhiều 
công cụ và các điều kiện giúp con người giảm nhẹ 
sức lao động, công việc trong gia đình. Mặc dù, 
tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ đã dần 
dần mất đi, nhưng có một nghịch lý vẫn đang tồn 
tại là việc nội trợ, nuôi dưỡng con cái, chăm sóc 
các thành viên trong gia đình vẫn được coi là công 
việc của phụ nữ và vẫn có quan niệm cho rằng 
các hoạt động này không mang lại giá trị kinh tế. 
Định kiến giới và tư tưởng trọng nam giới 
hơn phụ nữ vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở trong 
gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội với 
các biểu hiện như thích đẻ con trai hơn con gái, 
coi việc nội trợ, chăm sóc con cái là của phụ nữ, 
khi chia tài sản thừa kế thường dành cho con trai 
nhiều hơn, ưu tiên đầu tư vào con trai, quan niệm 
nam giới là người trụ cột, quyết định chính trong 
gia đình và đóng vai trò chính trong các quan hệ 
xã hội bên ngoài gia đình. Theo thống kê, tỷ lệ trẻ 
sơ sinh nam trên 100 nữ năm 2006: là 110, con 
số này vào năm 2011 là 112 và đến năm 2012 đạt 
mốc 113. Qua đó cho ta thấy, vai trò của phụ nữ 
trong xã hội chưa thực sự được đề cao, bất bình 
đẳng gia tăng.
3.2. Thực trạng bất bình đẳng giới ở tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh với dân số trên một triệu dân, trong đó 
dân tộc Khmer chiếm khoảng 30%. Thêm vào đó, 
Trà Vinh có nguồn tài nguyên thiên nhiên thuận lợi 
cho phát triển nông nghiệp8. Vì thế, mặc dù vấn đề 
bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ, xóa bỏ khoảng 
cách về giới luôn được Đảng, Nhà nước và các cấp 
chính quyền địa phương của Tỉnh quan tâm sâu 
sát, song Trà Vinh vẫn còn tồn tại vấn đề bất bình 
đẳng giới cụ thể ở một số lĩnh vực chủ yếu: bất 
bình đẳng giới trong chính trị, trong kinh tế, lao 
động – việc làm, trong giáo dục và trong gia đình.
3.2.1. Bất bình đẳng giới trong chính trị1
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển 
kinh tế và tiến bộ của xã hội, vai trò và địa vị của 
người phụ nữ ngày càng được nâng lên và có nhiều 
phụ nữ tham gia và giữ những vị trí quan trọng 
trong bộ máy nhà nước. Đặc biệt vấn đề bình đẳng 
giới ngày càng được xã hội quan tâm nhiều hơn. 
Tuy nhiên, tại Trà Vinh phụ nữ giữ những vị trí 
quan trọng trong bộ máy nhà nước còn rất hạn chế, 
chưa tương xứng với tỷ lệ nữ trong dân số của tỉnh.
8 Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh. Tiềm năng phát triển. 
Xem 19.9.2014<
c0/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gDIws_QzcPIwP_
AFNLA08nI28jd9cAA4MQE_2CbEdFAPBcwPA!/?WCM_
GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect /web+content /
PortalTraVinh/tongquantravinhv2/tiemnangphattrien/>
Bảng 7: Cơ cấu đại biểu của tỉnh Trà Vinh tham gia vào Quốc hội qua các giai đoạn
Cơ cấu
Quốc hội khóa XI 
(2002 - 2007)
Quốc hội khóa XII 
(2007 - 2011)
Quốc hội khóa XIII 
(2011 - 2016)
Tổng số đại biểu 7 6 6
Số đại biểu nữ 4 3 2
Tỷ lệ nữ đại biểu 57.14% 50% 33.33%
 Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, năm 2014
45
Soá 15, thaùng 9/2014 45
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Qua so sánh thống kê của bảng 1 và bảng 7, ta 
thấy tại Quốc hội khóa XIII, tỷ lệ nữ tham gia Quốc 
hội của tỉnh Trà Vinh (33.33%) cao hơn so với tỷ 
lệ nữ tham gia Quốc hội của cả nước (24.4%). Tuy 
nhiên, nhìn chung hiện nay tỷ lệ nữ tham gia vào 
Quốc hội của tỉnh Trà Vinh và của cả nước điều 
thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nam.
Ngoài ra, qua thống kê bảng 7 cho thấy tỷ lệ 
nữ của Tỉnh tham gia vào Quốc hội giảm dần: từ 
57.14% tại Quốc hội khóa XI xuống còn 50% tại 
Quốc hội khóa XII và gần đây nhất tại Quốc hội 
khóa XIII chỉ đạt mức 33.33%. Điều này cho thấy 
tỷ lệ nữ của Tỉnh tham gia vào Quốc hội ngày càng 
giảm và chỉ số này cũng cho thấy nghị định và nghị 
quyết nhằm tăng tỷ lệ đại diện của phụ nữ trong 
chính trị chưa thực sự phát huy hiệu quả. 
 Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan dân 
cử ở địa phương còn thấp hơn so với tỷ lệ nữ đại 
biểu tham gia cơ quan lập pháp, cụ thể ở bảng sau:
Bảng 8: Cơ cấu đại biểu nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp giai đoạn 2011 – 2016
Đơnvị
Số đại biểu HĐND 
đầu nhiệm kỳ
Diễn biến thay đổi
Số đại biểu HĐND 
đến 15/9/2014
Tổng 
cộng
Nữ
Tỷ lệ 
nữ
(%)
Tổng 
cộng
Cho 
thôi làm 
nhiệm vụ 
Từ 
trần
Lý 
do 
khác
Tổng 
cộng
Nữ
Tỷ lệ 
nữ
(%)
Tổng cộng 3161 579 18.31 127 88 31 8 3034 557 18,36
Tỉnh 50 8 16 0 0 0 0 50 8 16,00
Huyện- 
Thành phố
270 55 20.37 14 12 2 0 256 51 19,92
Xã-phường-
thị trấn
2841 516 18.16 113 76 29 8 2728 498 18,26
Nguồn: Báo cáo của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh, năm 2014
Qua số liệu thống kê bảng 8, ta thấy trong giai 
đoạn năm 2011 – 2016, tỷ lệ nữ đại biểu tham gia 
Hội đồng nhân dân các cấp của Tỉnh có bước phát 
triển nhẹ tăng từ 18.31% lên 18.36. Tuy nhiên, chỉ 
số này quá thấp so với tỷ lệ nam giới tham gia vào 
bộ máy nước của Tỉnh. Điều này chứng minh con 
đường tiến tới bình đẳng giới trong lĩnh vực chính 
trị vẫn đang tiếp diễn ở tỉnh Trà Vinh.
Khi so sánh tỷ lệ nữ của Tỉnh và tỷ lệ nữ của cả 
nước trong việc tham gia Hội đồng nhân dân đầu 
nhiệm kỳ 2011 – 2016, ta thấy tỷ lệ nữ của tỉnh Trà 
Vinh (18.31%) còn thấp hơn so với tỷ lệ nữ của cả 
nước (25.17%). Tín hiệu này nói lên tình trạng bất 
bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị vẫn đang 
tiếp diễn ở tỉnh Trà Vinh.
3.2.2. Bất bình đẳng giới trong kinh tế, lao động 
- việc làm
Bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ chỉ thực sự 
đạt được khi phụ nữ có khả năng độc lập về kinh 
tế. Cùng với cả nước, tỉnh Trà Vinh đã thực hiện 
“Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 
2011 – 2020” với mục tiêu: “Giảm khoảng cách 
giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; 
tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông 
thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các 
nguồn lực kinh tế, thị trường lao động”. Song, do 
nhiều yếu tố khác nhau làm cho tình hình bất bình 
đẳng giới vẫn còn tồn tại trong kinh tế, lao động và 
việc làm. Điều này được thể hiện thông qua bảng 
thống kê sau.
Bảng 9: Một số chỉ tiêu của thị trường lao động 
Trà Vinh giai đoạn 2010 - 2012
Chỉ tiêu Nữ Nam
Tỷ lệ việc Năm 2010
làm/dân số Năm 2011
(Phần trăm %) Năm 2012 
54.38 61.86
57.19 64.75
57.21 64.69
Tỷ lệ Năm 2010
Thất nghiệp / Năm 2011
lao động Năm 2012
(Phần trăm %) 
4.80 4.00
5.18 2.11
3.38 1.70
Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm của Tổng 
Cục Thống kê, năm 2012
Qua thống kê, ta thấy tỷ lệ việc làm/dân số của 
nữ giới trên địa bàn tỉnh có chiều hướng tăng trong 
giai đoạn 2010 - 2012 nhưng tỷ lệ này luôn thấp 
hơn so với nam giới. Hầu hết, trong giai đoạn 2010 
– 2012, tỷ lệ việc làm/dân số nữ của Trà Vinh thấp 
hơn nhiều so với tỷ lệ việc làm/dân số nữ của cả 
nước (71.1%, năm 2012). Điều này làm tăng thêm 
gánh nặng xã hội cho tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, thống kê cũng cho thấy tỷ lệ 
thất nghiệp ở nữ giới giảm đáng kể ở năm 2012 
46
Soá 15, thaùng 9/2014 46
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
(3.38%). Tuy nhiên chỉ tiêu này vẫn luôn cao hơn 
so với tỷ lệ thất nghiệp ở nam giới. Tỷ lệ thất 
nghiệp nữ của tỉnh Trà Vinh tương tự như tỷ lệ thất 
nghiệp nữ của cả nước luôn cao hơn nam giới. Qua 
đó, cho thấy bất bình đẳng ở nước ta nói chung và 
ở địa bàn tỉnh Trà Vinh nói riêng vẫn còn tiếp diễn 
trong nội dung này. 
Chính vì vậy, công tác về bình đẳng giới trong 
giai đoạn hiện nay là một trong những yếu tố cơ 
bản và quan trọng nhất luôn được các cấp lãnh đạo 
quan tâm nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của 
từng người, từng gia đình và toàn xã hội. 
3.2.3. Bất bình đẳng trong giáo dục
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi 
Luật Bình đẳng giới được thông qua và có hiệu 
lực, việc thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục 
nói chung và trong quản lý giáo dục đã đạt được 
những kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ nữ ở các cấp 
bậc học đặc biệt là cấp bậc cao ngày càng tăng; 
vị thế và vai trò của nữ trong hệ thống giáo dục 
ngày càng được khẳng định rõ nét. Tuy nhiên, 
trong thực tế phần lớn tỷ lệ nữ ở các cấp bậc học 
vẫn còn thấp hơn so với nam giới nhất là ở những 
vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc 
thiểu số như tỉnh Trà Vinh.
Bảng 10: Tỷ lệ học sinh trong các bậc học phổ thông
Đơn vị tính: Phần trăm (%)
Cấp bậc
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Tỷ lệ 
đi học 
chung
Tỷ lệ 
nữ
Tỷ lệ 
đi học 
chung
Tỷ lệ 
nữ
Tỷ lệ 
đi học 
chung
Tỷ lệ 
nữ
Tỷ lệ 
đi học 
chung
Tỷ lệ 
nữ
Tiểu học 100 100 100 100 100 100 100 100
Trung học cơ sở 72.71 75.46 73.21 75.08 75.58 77.04 76.00 77.66
Trung học phổ thông 35.45 39.80 32.82 37.55 30.11 35.26 31.10 38.49
 Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục và đào tạo của Tổng Cục Thống kê, năm 2012
Qua số liệu thống kê bảng 10, cho thấy số lượng 
học sinh phổ thông thuộc tỉnh Trà Vinh giảm dần 
theo từng bậc học, bậc học càng cao thì tỷ lệ học sinh 
đi học chung và tỷ lệ học sinh nữ càng giảm xuống. 
Số liệu còn cho thấy tỷ lệ học sinh nữ lớn hơn tỷ 
lệ học sinh đi học chung. Qua đó, cho thấy được 
khoảng cách giữa nam và nữ đang dần được thu 
hẹp thông qua lĩnh vực giáo dục nhất là cấp bậc 
phổ thông.
Tình hình bất bình đẳng giới của tỉnh Trà Vinh 
còn thể hiện thông qua lĩnh vực giáo dục theo từng 
bậc của các ngành nghề, cụ thể sau:
Bảng 11: Tỷ lệ học sinh, sinh viên trong các bậc học ngành nghề
Năm
Trung cấp chuyên 
nghiệp
Cao đẳng Đại học
Tổng 
số
Số 
lượng 
nữ
Tỷ 
lệ nữ 
(%)
Tổng 
số
Số 
lượng 
nữ
Tỷ 
lệ nữ 
(%)
Tổng 
số
Số 
lượng 
nữ
Tỷ 
lệ nữ 
(%)
Năm 2009 3689 1476 40.01 3510 1947 55.47 6379 1178 18.47
Năm 2010 3951 1580 39.99 3081 1160 37.65 12010 4462 37.15
Năm 2011 3385 1354 40.00 2542 1519 59.76 16009 7695 48.07
Năm 2012 2811 1629 57.95 3192 1867 58.49 24124 9523 39.48
Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục và đào tạo của Tổng Cục Thống kê, năm 2012
Từ số liệu thống kê của bảng 11, cho thấy có 
sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ 
trong các bậc học ngành nghề của tỉnh Trà Vinh cụ 
thể là năm 2009 tỷ lệ nữ chỉ đạt 18.47% nhưng chỉ 
sau hai năm tỷ lệ này tăng lên đến 48.07% . Số liệu 
này cho thấy, sự chênh lệch về trình độ học vấn, 
trình độ chuyên môn giữa nam và nữ ngày càng 
được thu hẹp. 
Tuy nhiên, qua bảng số liệu này ta còn thấy được 
ở các cấp bậc học cao cụ thể là bậc đại học thì tỷ 
lệ học sinh, sinh viên nữ là 39.48% thấp hơn nhiều 
so với nam giới tính tại thời điểm năm 2012. Qua 
đó thấy được tình trạng bất bình đẳng giới trong 
lĩnh vực giáo dục của Trà Vinh vẫn còn tồn tại.
 Ngoài ra, khi so sánh với tỷ lệ học sinh, sinh 
viên nữ trong các bậc học ngành nghề ở nước ta thì 
tỷ lệ nữ của tỉnh Trà Vinh thấp hơn nhiều, cụ thể 
là tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ ở bậc học đại học 
47
Soá 15, thaùng 9/2014 47
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Tài liệu tham khảo
Lương, Thị Thủy. 2008. “Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới”. Tạp chí luật học. Trường Đại học 
Luật Hà Nội, số 3, tr.44 – 49.
Tổng Cục Thống kê. 2012. Niêm giám thống kê. Số liệu thống kê về dân số, lao động, giáo dục và đào tạo.
Cục Thống kê Tỉnh Trà Vinh. 2012. Niêm giám thống kê. Số liệu thống kê về dân số, lao động, 
giáo dục và đào tạo. 
Bộ Nội Vụ - Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước – Quốc hội khóa XIII. 2011. Báo cáo số lượng và cơ 
cấu thành phần đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016.
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc. 2012. Báo cáo về sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh 
đạo và quản lý ở Việt Nam.
Luật bình đẳng giới (Việt Nam). 2006.
vào năm 2012 của cả nước là 49.94%, tỷ lệ này 
xấp xỉ với tỷ lệ nam của cả nước, trong khi đó tỷ 
lệ học sinh, sinh viên nữ của tỉnh Trà Vinh chỉ đạt 
39.48%. Tín hiệu này cho thấy trình độ dân trí nữ 
của tỉnh Trà Vinh còn thấp so với nam của Tỉnh và 
so với nữ của cả nước. Qua đó cho thấy, tình trạng 
bất bình đẳng về giới ở tỉnh Trà Vinh vẫn còn tồn 
tại trong nội dung này.
3.2.3. Bất bình đẳng trong gia đình
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển 
kinh tế và tiến bộ xã hội của Trà Vinh, vai trò và địa 
vị của người phụ nữ ngày càng được nâng lên và 
có nhiều phụ nữ vừa đảm việc nhà vừa tham gia 
vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt vấn 
đề bình đẳng giới, ngày càng được chính quyền và 
xã hội quan tâm nhiều hơn. 
Thế nhưng trên thực tế, việc thực thi Luật Bình 
đẳng giới vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm 
đối với chị em phụ nữ. Sự giải phóng phụ nữ dường 
như chỉ dừng lại ở cái mà cơ chế xã hội mới mang 
lại, chưa đi sâu vào đời sống gia đình. Trong các 
gia đình, ít nhiều vẫn còn tồn tại các hiện tượng 
bất bình đẳng giới như: chưa ghi nhận đúng vai trò 
của nữ giới, sự phân công lao động trong gia đình 
chưa hợp lý, vẫn còn tồn tại vấn đề phân biệt đối 
xử giữa nam và nữ, bạo hành phụ nữ có hạn chế 
nhưng vẫn còn xảy raHiện tượng này càng diễn 
ra trầm trọng hơn tại các vùng nông thôn nghèo, 
vùng có đông đồng bào Khmer. Đa phần phụ nữ 
nghèo ở nông thôn, phụ nữ dân tộc Khmer thường 
ít được đi học nên không tiếp cận được tiến bộ xã 
hội, phụ nữ ít có “tiếng nói” trong gia đình, ngoài 
làm những công việc trong gia đình như nội trợ, 
chăm sóc con cái, phụ nữ còn phải làm ruộng, 
làm thuê, buôn bán nhỏ, để kiếm thêm thu nhập 
trong gia đình. Đôi lúc, phụ nữ còn phải chịu nạn 
bạo hành trong gia đình, bị ngược đãi từ chồng, gia 
đình chồng, nhưng những phụ nữ ấy vẫn chấp 
nhận cam chịu, không tự giải thoát cho mình9.1
9 Tác giả khảo sát
Nguyên nhân chính là do xã hội còn tồn tại 
những thành kiến, định kiến về vai trò, vị trí của 
phụ nữ trong gia đình và xã hội, do tư tưởng “gia 
trưởng của người đàn ông trong gia đình”, tư tưởng 
“trọng nam khinh nữ”,
Một nguyên nhân khác nữa là do không ít phụ 
nữ hiểu chưa đầy đủ về quyền và bình đẳng giới, 
đã bỏ quên thiên chức, những giá trị cao quý đặc 
thù vốn có ở người phụ nữ như vai trò chức năng 
sinh con, xây dựng tổ ấm, chăm lo, nuôi dưỡng 
và dạy dỗ con cái, chăm sóc cha mẹ già, làm hậu 
phương cho chồng, là chỗ dựa tinh thần cho người 
đàn ông; quên đi việc gìn giữ và phát huy những 
đức tính quý báu vốn có ở người phụ nữ như khéo 
léo, tinh tế, sự tận tụy hy sinh, lòng bao dung, tình 
thương yêu chồng con.
Qua đó cho thấy, ngày nay phụ nữ đảm nhiệm 
một trọng trách rất to lớn trong gia đình quả thật 
là một gánh nặng trên vai. Mặc dù vậy, vai trò của 
phụ vẫn chưa được khẳng định và quyền quyết 
định trong gia đình vẫn thuộc về người đàn ông. 
Tình trạng bất bình đẳng vẫn còn.
4. Kết luận
 Bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ là một 
trong những mục tiêu đã khẳng định trong các văn 
bản, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trong Hiến pháp 
và đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp 
luật, tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao 
quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh 
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Qua phân 
tích ta thấy, Việt Nam nói chung và tỉnh Trà Vinh 
nói riêng có nhiều bước phát triển trong vấn đề 
bình đẳng giới trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhìn 
chung vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam mà 
đặc biệt là ở tỉnh Trà Vinh vẫn còn tiếp diễn. Mọi 
người cần có một cái nhìn đúng đắn về quyền bình 
đẳng và bảo vệ quyền đó của phụ nữ, xã hội cần 
chung tay xóa bớt khoảng cách bất bình đẳng giới 
vì một xã hội Việt Nam phát triển hơn.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tinh_trang_bat_binh_dang_gioi_o_viet_nam_trong_nhun.pdf