Dấu ấn chủ nghĩa hiện thực trong truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX: Trường hợp Sơn Vương

TÓM TẮT

Sơn Vương là một trong số ít tác giả có thể xem là thành công với thể loại truyện ngắn trong

giai đoạn đầu thế kỉ XX ở Nam Bộ. Truyện của ông hấp dẫn từ nội dung đến nghệ thuật, văn phong

trong sáng và dễ hiểu nên phù hợp với người bình dân thời đó. Cho đến bây giờ, những truyện

ngắn của Sơn Vương vẫn hấp dẫn người đọc ở cách tiếp cận vấn đề, cách đặc tuyển những chi tiết,

tình tiết đặc tả tâm tư, tình cảm, tính cách, con người và cuộc sống của cư dân vùng đất Nam Bộ.

Bài viết này tập trung tìm hiểu mười hai truyện ngắn của Sơn Vương (tức nhà văn tướng cướp

Trương Văn Thoại) được sưu tầm, nghiên cứu, tập hợp trong tuyển tập Sơn Vương – Nhà văn –

Người tù thế kỉ (Nxb Văn học, 2007) nhằm xác quyết dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực giai đoạn này

thông qua thể loại truyện ngắn trong sáng tác của ông

pdf 12 trang yennguyen 3320
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn chủ nghĩa hiện thực trong truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX: Trường hợp Sơn Vương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn chủ nghĩa hiện thực trong truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX: Trường hợp Sơn Vương

Dấu ấn chủ nghĩa hiện thực trong truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX: Trường hợp Sơn Vương
 TẠP CHÍ KHOA HỌC 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION 
JOURNAL OF SCIENCE 
Vol. 17, No. 4 (2020): 705-716 
ISSN: 
1859-3100 Website:  
705 
Bài báo nghiên cứu* 
DẤU ẤN CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC 
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: 
TRƯỜNG HỢP SƠN VƯƠNG 
Trương Thị Linh 
Trường Đại học Thủ Dầu Một, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Trương Thị Linh – Email: linhtt@tdmu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 12-11-2019; ngày nhận bài sửa: 16-02-2020, ngày chấp nhận đăng: 23-4-2020 
TÓM TẮT 
Sơn Vương là một trong số ít tác giả có thể xem là thành công với thể loại truyện ngắn trong 
giai đoạn đầu thế kỉ XX ở Nam Bộ. Truyện của ông hấp dẫn từ nội dung đến nghệ thuật, văn phong 
trong sáng và dễ hiểu nên phù hợp với người bình dân thời đó. Cho đến bây giờ, những truyện 
ngắn của Sơn Vương vẫn hấp dẫn người đọc ở cách tiếp cận vấn đề, cách đặc tuyển những chi tiết, 
tình tiết đặc tả tâm tư, tình cảm, tính cách, con người và cuộc sống của cư dân vùng đất Nam Bộ. 
Bài viết này tập trung tìm hiểu mười hai truyện ngắn của Sơn Vương (tức nhà văn tướng cướp 
Trương Văn Thoại) được sưu tầm, nghiên cứu, tập hợp trong tuyển tập Sơn Vương – Nhà văn – 
Người tù thế kỉ (Nxb Văn học, 2007) nhằm xác quyết dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực giai đoạn này 
thông qua thể loại truyện ngắn trong sáng tác của ông. 
Từ khóa: chủ nghĩa hiện thực; Sơn Vương; truyện ngắn 
1. Đặt vấn đề 
Đầu thế kỉ XX, cùng với sự xâm lấn về chính trị, thì văn hóa, tư tưởng, học thuật 
của phương Tây cũng từng bước thâm nhập vào Việt Nam, sớm nhất tại Nam Bộ. Đi theo 
đó là các trào lưu sáng tác văn học và nghệ thuật mà tiêu biểu là trào lưu lãng mạn, hiện 
thực. Các trí thức Tây học đã đưa hai trào lưu này trở thành một phần của đời sống văn hóa 
tinh thần người Việt Nam Bộ. Bắt kịp xu hướng đó, với tinh thần trọng sự thực, Sơn 
Vương đã thể hiện mọi phương diện của cuộc sống lên trang viết của mình. Ông đã sử 
dụng ngôn ngữ hàng ngày, lời văn xuôi trơn tuột như lời nói và vì thế có khả năng biểu 
hiện mọi trạng thái xúc cảm, mọi cảnh ngộ của con người một cách chính xác và kịp thời 
một cách chi tiết, cặn kẽ. Tinh thần trọng sự thực này không chỉ có ở trong sáng tác của 
nhà văn Sơn Vương mà còn được thể hiện thông qua tác phẩm của các nhà văn, nhà báo 
thời đó. Họ thể hiện quan niệm sáng tác thông qua các bài tự, tựa, bạt hoặc các thông 
Cite this article as: Truong Thi Linh (2020). Imprints of the realism in the Southern short stories 
in the early twentieth century: A case of Son Vuong. Ho Chi Minh City University of Education Journal of 
Science, 17(4), 705-716. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
706 
cáo báo chí về việc tổ chức các cuộc thi văn học được tổ chức thường niên trên các tạp chí 
như Nông cổ mín đàm, Đông Pháp thời báo “Người Lang Sa gọi Roman nghĩa là lấy trí 
riêng mà đặt riêng ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện 
có thật vậy.” (Vuong, 2000, tr.24). Ở đây, chúng ta thấy rõ yêu cầu phản ánh cuộc sống, 
phản ánh xã hội mang đầy màu sắc hiện thực cuộc sống, “dường như truyện có thật vậy”, 
chứ không lấy đề tài, chủ đề, cốt truyện từ những câu chuyện tuồng tích Trung Quốc, 
cũng không được nói đến những truyện hoang đường, có tính li kì quái dị như ông cha ta từ 
xưa đến nay hay làm. 
Giai đoạn đầu tập viết truyện theo kiểu phương Tây, cách sắp xếp đầu đuôi, lớp lang 
thứ tự câu chuyện vẫn còn nhiều bỡ ngỡ. Họ chủ yếu tập trung vào miêu tả hành động, sự 
kiện, cốt truyện nói chung là kể chuyện hơn là tập trung vào miêu tả tâm lí, các chi tiết, 
tình tiết, sắp xếp cốt truyện như các nhà văn hiện thực giai đoạn sau. Điều này ảnh 
hưởng không nhỏ đến mô thức kể chuyện của các nhà văn Nam Bộ giai đoạn này. Torodov 
(2011) trong Thi pháp văn xuôi cho rằng có hai kiểu mô thức kể chuyện về nhân vật: thứ 
nhất là mô thức miêu tả tâm lí nhân vật, thứ hai là mô thức chú tâm vào việc miêu tả hành 
động để diễn tả tính cách của nhân vật (p.114). Như vậy, các nhà văn Nam Bộ chủ yếu lấy 
kiểu mô thức thứ hai tức “lấy tình tiết làm trung tâm”1 để tập trung miêu tả hành động của 
nhân vật, vì lẽ đó chúng ta thấy trong tiểu thuyết, truyện ngắn Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỉ 
XX ít khi miêu tả tâm lí nhân vật hoặc nếu miêu tả thì cũng chưa đạt đến trình độ điêu 
luyện như các nhà văn hiện thực sau này. Sơn Vương cũng thế! Truyện của ông tập trung 
miêu tả hành động làm nền cho câu chuyện phát triển, nhưng bên cạnh đó là việc cố gắng 
miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật, sự tác động qua lại giữa tính cách và hoàn cảnh trong 
một số truyện ngắn của ông; điều này sẽ được chúng tôi thảo luận ở phần 3 của bài viết 
này. Nguyen (2007) cho rằng: “Hầu hết tác phẩm (trước năm 1931) của Sơn Vương, từ 
nhan đề đến nội dung chủ đề đều toát lên ý hướng hiện thực xã hội mà đời sống con người 
tạo dựng nên.” (p.13). 
Bài viết này phân tích dấu ấn hiện thực trong 12 truyện ngắn của Sơn Vương được 
thể hiện thông qua: thứ nhất là tính chất phân tích xã hội đối với các hiện tượng và quá 
trình của đời sống; thứ hai là tính đa diện trong việc miêu tả tính cách của các nhân vật. 
2. Tính chất phân tích xã hội đối với các hiện tượng và quá trình của đời sống 
Sơn Vương (Trương Văn Thoại) được xem như một nhà văn – tướng cướp lừng danh 
thời bấy giờ nhưng ông vốn là học trò của Nguyễn An Ninh, là người bạn chí thân của 
trung tướng Nguyễn Bình2. Trong bài viết Tại sao tôi đi ăn cướp? trong cuốn hồi kí Máu 
1 Chữ dùng của Phan Mạnh Hùng (2016). Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ trước 1932. TPHCM: 
NXB Đại học Quốc gia, tr.34 
2 Xem Nguyễn Q. Thắng (sưu tầm, nghiên cứu) (2007). Sơn Vương - Nhà văn - Người tù thế kỉ. NXB Văn 
học, tr.73. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trương Thị Linh 
707 
hòa nước mắt – Hơn ba mươi năm dưới thời Pháp thuộc) ông lí giải nguyên do: Ông đi ăn 
cướp - không phải vì cuộc sống bức bách - mà vì nhằm cung cấp “tài vật” cho những người 
làm cách mạng (họ không hề biết ông làm điều đó). Qua đó, ông thấy mình có ích trong 
cuộc đời làm một người con đất Việt. Điều này cho thấy được tâm tư tình cảm “ưu thời 
mẫn thế” của nhà văn trước tình cảnh đất nước bị ngoại xâm. 
Thông qua các truyện ngắn của Sơn Vương, người đọc thấy hiện lên một con người 
đau đáu nỗi đau đời, đau người, đau cho số phận một cổ hai tròng của đất nước. Một 
tâm trạng bi phẫn “lực bất tòng tâm” của những cư dân địa phương khi chính họ là những 
người có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng không thể làm gì khác ngoài việc “thà hi 
sinh thân mình” để đền ơn đối với quốc gia dân tộc. Tác giả cũng phần nào lí giải tại sao 
tinh thần của người dân một nước thuần nông nghiệp lại khiếp nhược trước súng đồng tàu 
thiếc của quân giặc, bởi trong tay họ chẳng có gì ngoài những vũ khí thô sơ, chỉ có thể tác 
chiến giáp lá cà trong khi của quân giặc lại là những vũ khí hiện đại có thể giết người ở 
khoảng cách xa, và có thể hủy diệt hàng loạt. Họ - những cư dân Nam Bộ - chỉ có thể tìm 
cách thể hiện tinh thần yêu nước của mình theo cách tiêu cực: giết một vài tên giặc và thế 
là tạm thỏa mãn với những gì mình làm được, dù nhỏ, cho đất nước, cho dù sau đó có bị 
tòa xử tử hình thì cũng đã góp một phần xương máu cho quê hương xứ sở. Đây phải chăng 
là tâm lí nhược tiểu của một bộ phận thanh niên một nước thuộc địa được thể hiện trong 
các truyện ngắn Ai kén chồng, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Lỗi về ai, Ai bạc tình, 
Lỗi về tôi (mượn bạn thử vợ) đã phản ánh. 
Nhân nói đến vấn đề kén chồng, kén vợ của những nam thanh nữ tú thời ấy, tác giả 
lên tiếng phê phán chế độ cai trị hà khắc xứ thuộc địa kể cả về chính trị lẫn kinh tế, khiến 
nhân dân trong xứ phải đứng dậy tự giải thoát mình dù cho tay không tấc sắt đấu với súng 
đồng, tàu thiếc. Hậu quả thế nào thì không cần nói ra cũng đã rõ, nhưng một khi không còn 
gì để mất, một khi làm thế nào để tồn tại cũng là vấn đề nan giải thì “Thà một phút huy 
hoàng rồi chợt tắt” họ cũng cam lòng. Điều này được phản ánh một cách rõ ràng trong tác 
phẩm Ai kén chồng: 
Năm vừa rồi từ Nam chí Bắc, nhơn dân xứ nào cũng muốn nổi lên dấy động binh đao song 
sức yếu tay không làm sao mà cự nổi với trái phá súng đồng của chánh phủ, kết cuộc đành 
ôm cái thất bại về mình, mà gây ra không biết bao nhiêu là cảnh tiêu điều ảo não, thật là 
đáng buồn không sao kể xiết. Nền kinh tế vì đó mà khủng hoảng dây dưa cho đến ngày nay, 
nhà buôn đóng cửa rất nhiều. Lại còn cái tăng thuế xuất cảng lúa gạo lên bốn mươi lăm phần 
trăm! Nay tuy đã bãi đi rồi, song hết thảy nông dân cũng vì nó mà nghiêng nghèo điêu 
đứng (Ai kén chồng, tr.177-178). 
Quan điểm trên của tác giả khiến người đọc liên tưởng đến những nghĩa binh dũng 
cảm trong Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đang hiện diện thông qua 
những trang văn của nhà văn Trương Văn Thoại. Với nhận thức sắc bén của một nhà văn – 
tướng cướp – ông lí giải tại sao người Việt lại tham gia các tổ chức cách mạng, tại sao lại 
giết những người ngoại quốc (cho dù mang tính tự phát) bởi họ nhận thức rõ: dù thế nào 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
708 
cũng chết thì thà chết cho quốc gia, dân tộc còn hơn sống chui, sống nhủi trước tình cảnh 
sống không ra sống của chính bản thân mình, của gia đình, vợ con. 
Trước tình cảnh dân nghèo cùng khổ, không cơm ăn, áo mặc nên hiển nhiên họ sẽ 
phản ứng lại chế độ chính trị một cổ hai tròng, tham quan ô lại Không những thế, quan 
quân triều đình thì bạc nhược và đây cũng là lí do khiến chủ nghĩa cộng sản thâm nhập 
mạnh mẽ vào tầng lớp dân nghèo một cách dễ dàng. Trong Chén cơm lạt của người thất 
nghiệp, tác giả rất chí lí khi cho rằng: 
Cũng vì cái nạn nghèo đói đó cho nên chủ nghĩa cộng sản mới dễ đâm chồi nảy mộng ở xứ 
ta. Nhơn cùng tắc biến, đói rách quá rồi việc gì mà chẳng dám làm, không làm thì cũng vì 
cái nạn đói mà chết! Cho nên chỗ này nổi lên biểu tình, chỗ khác làm cách mạng, trộm cướp 
lung tung Những người họ muốn sanh sự này kia đó, có phải là ngu dại gì mà không biết 
lượng sức họ! Họ biết sức yếu tay không khó mà cự nổi với súng đồng trái phá, họ biết lắm 
chớ. Song vì họ gặp tình cảnh cùng khổ quá, sống mà không cơm ăn no, không áo mặc ấm 
thì sống làm gì! Họ muốn chết, song không lẽ họ cầm dao mà tự sát, nên chẳng thà họ gây 
nên việc lớn mà chết, cái chết ấy có ý nghĩa, cái chết ấy đáng chết hơn Họ mượn võ lực 
của chính phủ mà đưa hồn họ về thế giới khác cho khỏe thân (Chén cơm lạt của người thất 
nghiệp, tr.201). 
Không kế sinh nhai, tình cảnh sinh sống ngặt nghèo của con người được phản ánh 
một cách cụ thể trong tác phẩm khiến người đọc không khỏi xót xa. Cho dù tác giả không 
công khai phê phán chế độ chính trị, quan lại cầm quyền bởi “lưỡi kéo kiểm duyệt”, 
nhưng thông qua những hình ảnh điểm xuyến như trên, người đọc cũng đã hình dung được 
phần nào cuộc sống của cư dân Nam Bộ thời đó, thậm chí là dân nghèo khắp Việt Nam 
đang sống một cuộc sống lay lất qua ngày đoạn tháng như thế nào. Thậm chí “Muốn làm 
ông làm cha thiên hạ thì không được đã đành; chớ đi làm đầy tớ cho người ta để kiếm hột 
cơm thừa mà cũng không được, thì thế sự đã cùng đồ đi rồi” (Chén cơm lạt của người thất 
nghiệp, tr.197). 
Sự ưu thời mẫn thế, nỗi đau của một người dân mất nước được tác giả thể hiện thông 
qua nhiều truyện ngắn khác nhau. Ngoài Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Ai kén 
chồng, Lỗi về ai, Lỗi về tôi (mượn bạn thử vợ) còn có nhân vật chính trong Ai bạc tình, 
thầy Nguyễn Đức Minh thay mặt cho tầng lớp thanh niên, đại diện cho hàng ngàn thanh 
niên trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, lên tiếng: 
Cái khó của tôi là như thế này: trong cơn quốc gia đại nạn, cái nghĩa vụ của chúng ta phải lo 
làm sao cho nước nhà trở nên cường thạnh; chớ thanh niên mà cứ miệt mài trong cuộc truy 
hoan, nịch ái vì bể tình sóng sắc, thì nòi giống Lạc Long này biết bao giờ mới mở mặt với 
năm châu? (Ai bạc tình, tr.281). 
Ai khiến cho tình cảnh người dân lâm vào cùng cực đến thế? Ai khiến cho vợ xa 
chồng, các cặp tình nhân phải xa nhau âm dương cách biệt? Đó chính là kẻ thù. Và để trị 
bệnh thất tình, các thanh niên trong truyện của Sơn Vương tìm cách hạ sát kẻ thù, nhưng 
kẻ thù của họ không phải là kẻ đã cướp vợ, cướp người yêu của họ mà kẻ thù được tác giả 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trương Thị Linh 
709 
ẩn đi, không lộ ra. Kẻ thù của họ chính là kẻ thù chung của dân tộc, kẻ thù khiến cuộc sống 
riêng của họ và của người dân lâm vào cảnh khốn cùng như Kim Toàn trong Lỗi về ai, 
trước khi tự tử theo người yêu thì đã “giết được kẻ thù” (tr.125); Vợ chồng Kim Lang – Lê 
Chung Tình trong Lỗi về tôi (mượn bạn thử vợ) quyết tâm đi trả thù nhưng không phải một 
cá nhân người nào mà là “Cái thù của tôi nói đây là thù chung!” (tr.144); hoặc thầy 
thông Phạm Linh Chi chợt ngộ ra “Có phải họ ỷ sức mạnh mà cướp miếng ăn của kẻ 
yếu hay không?” (Chén cơm lạt của người thất nghiệp, tr.2015) Tuy rằng sự lắp ghép 
của tác giả có phần khiên cưỡng nhưng thông qua đó cũng thấy được tấm lòng vì nước vì 
dân của nhà văn, và nhờ vậy, các tác phẩm của ông mới đến tay người đọc một cách 
dễ dàng. 
Bên cạnh sự ưu thời mẫn thế của một bộ phận người dân đối với tình cảnh ngàn cân 
treo sợi tóc của quốc gia dân tộc, thì tác giả cũng không quên nói đến vai trò của đồng 
tiền, của quyền lực khiến xã hội đảo điên, luân lí cương thường bị phá hoại bởi quan niệm 
“đa kim ngân phá luật lệ”. 
Bên cạnh những con người phải vật lộn với sự túng quẫn của cuộc sống, của kinh tế 
eo hẹp thì còn có những kẻ ăn không ngồi rồi, tìm mọi cách để ăn chơi hưởng lạc, tìm 
mọi cách dồn người ta vào cảnh khốn cùng để uy hiếp, đe dọa nhằm thỏa mãn dục vọng 
bản thân hoặc chỉ nhìn thấy danh vọng, quyền lực, tiền tài Xã hội đầy rẫy những kẻ như 
thế thì nói gì đến việc cứu nước, cứu dân. Đây chỉ là phần nào thực tế của cuộc sống khắc 
nghiệt mà tác giả đưa vào trong trang viết của mình nhằm phản ánh một cuộc sống đa sắc 
màu trong xã hội thời bấy giờ. Những điều này được tác giả thể hiện một cách đặc sắc 
thông qua các nhân vật phản diện: Tìm mọi cách quyến rũ vợ bạn/ người yêu của bạn như 
bác sĩ Khuê Nhân trong Lỗi về tôi (mượn bạn thử vợ), công tử Hòa Hoa trong Chén cơm 
lạt của người thất nghiệp, Triệu Phi Tiên trong Ăn năn đã muộn (Lửa gần rơm), Võ Bá 
trong Phản bạn vì tình; Sự đam mê vật chất của các nhân vật nữ như Hồng Hoa trong Ai 
kén chồng, người dì của cô Mai trong Ép dầu ép mỡ, cô Tư trong Ai bạc tình, Đào Hoa 
trong Bạc trắng lòng đen; Sự bạc tình của các nhân vật như Thái Sanh trong Lỗi hẹn quên 
thề, Phi Tâm trong Anh bạc tình, người vợ của Kỳ Sanh trong Bạc trắng lòng đen 
Trong xã hội đó, chỉ kẻ có tiền, có quyền mới có thể sống như một con Người (viết 
hoa – TTL), còn lại đều là những người dân thấp cổ bé họng: “Ôi! Cáo có tội lại nhè đem 
kiện với chồn phỏng có ích gì! Chúng nó vẫn một phồn (phường – TTL) với nhau cơ mà!” 
(Chén cơm lạt của người thất nghiệp, tr.194). Vả lại, người dân không thể làm gì kẻ vừa 
có tiền, vừa có quyền và thực chất là “pháp luật đặt ra để mà trừng trị những kẻ cắp vặt 
trộm xằng; chớ không làm gì được đứa đại gian đại ác?” (Chén cơm lạt  ...  
vợ đợ con, cầm vườn thế đất mà đóng cho đủ chứ sao” (Chén cơm lạt của người thất 
nghiệp, tr.200). 
Ngoài ra, trong truyện ngắn của Sơn Vương, vấn đề xung đột văn hóa giữa cũ – 
mới cũng được tác giả đặt ra và cố gắng kiến giải bằng lí do chính trị, bằng cách sống, 
bằng sự mâu thuẫn giữa quan niệm sống xưa và nay, bằng sự cách biệt giữa các giai tầng 
trong xã hội Mọi mối quan hệ đều bị đảo lộn: cha - con, chồng - vợ, anh - chị em, bạn 
bè, đồng nghiệp đều tập trung xung quanh mối quan hệ tình - tiền - quyền. Trong Lỗi về 
ai, người cha vô tâm sẵn sàng tố cáo con gái ruột giết vợ kế mà không tưởng đến tình cha 
con, chồng vợ mặc dù không chứng kiến: 
Nếu như ông Thanh đúng đắn, nghĩa là biết thương xót người quá vãng mà xót tới con thơ, 
thì dầu mà cô Hai Quyên có lỡ tay giết chết vợ thứ của ông đi nữa, thì cô hai Quyên cũng 
không đến nỗi vào ngục Đa kim ngân phá luật lệ, hoàng kim hắc thế tâm, lại mấy xứ tiền 
rừng bạc biển như xứ ta, thì ông thần công lí cũng ít hay bén mảng tới. (Lỗi về ai, tr.107). 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
712 
Hoặc như ông Cả trong tác phẩm Lỡ một lầm hai cứ khăng khăng phải coi tuổi, coi 
ngày gả vợ, gả chồng cho con. Ông lại bị cái bệnh dị ứng với những ai đi giày Tây, mặc Tồ 
tây, đội nón Tây: 
Cái thằng gì đâu bộ mặt vúc vắc như con trâu, nó tới nhà mình nó ỷ đi giày Tây rồi cồm cộp, 
bận cái áo bành tô lật mề đay ngực ra trơ trơ, còn đội cái nón nỉ ở sau quớt lên phải thế hòng 
chết, còn ở đàng trước nó lại bẻ cúp xuống, rõ ràng là quân du côn mà bà còn đốc tôi gả cho 
nó. (Lỡ một lầm hai, tr.157). 
Tệ mê tín dị đoan, coi ngày dựng nhà, coi tuổi dựng vợ gả chồng cũng được tác giả 
phản ánh một cách cụ thể và sinh động trong tác phẩm này. Tốt - xấu của con người phải 
chăng đều do ngày sinh, tháng đẻ quy định? Thông qua tác phẩm Lỡ một lầm hai, tác giả 
đặt ra vấn đề: vậy việc coi ngày, coi giờ, coi tuổi trong việc dựng vợ, gả chồng, làm nhà 
liệu có còn phù hợp trong thời đại mới? Khi mà làn gió văn hóa mới Âu Mĩ ngày càng thổi 
mạnh mẽ hơn vào không gian văn hóa của cộng đồng cư dân người Việt với tư tưởng 
không còn bảo thủ, trì trệ? 
3. Tính đa diện trong việc miêu tả tính cách 
Trong dòng văn học hiện đại, nhất là chủ nghĩa hiện thực, tính cách của con người là 
một đại lượng không nhất thành bất biến, mà sẽ thay đổi theo từng hoàn cảnh mà nhân vật 
sống, chẳng hạn Julia Soren trong Đỏ và Đen của Standal, Raskolnikov trong Tội ác và 
trừng phạt của Dostoyevsky Các nhân vật trong truyện ngắn Sơn Vương cũng thế, khi 
thì thật hiền lành, thậm chí “ăn không nên đọi, nói không nên lời” nhưng ở hoàn cảnh khác 
thì lại mạnh mẽ lên tiếng nói cá nhân, đòi quyền lợi với những câu nói, hành động trái 
ngược hoàn toàn. Tính cách của nhân vật có sự “lớn lên” tùy vào hoàn cảnh mà nhân vật 
được đặt vào và hoàn toàn không nhất thành bất biến như truyện, tiểu thuyết cổ điển 
phương Đông. Điều đó cho thấy tác giả đã tiếp nhận khuynh hướng sáng tác theo tinh thần 
của chủ nghĩa hiện thực một cách tích cực đồng thời cho thấy sự tiến bộ trong việc phản 
ánh sự thật đời sống của tác giả đã tiến một bước dài từ văn học cổ điển phương Đông 
sang văn học hiện đại phương Tây. 
Nghiên cứu 12 truyện ngắn của Sơn Vương, chúng tôi nhận thấy có hai khuynh 
hướng lựa chọn trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Thứ nhất, một số nhân vật trong tác 
phẩm của ông đã thể hiện sự thay đổi của tính cách tùy theo hoàn cảnh như: Hai nhân vật 
Hồng Hoa và Thị Lành trong Ai kén chồng; Cô Sảnh trong Lỡ một lầm hai; Minh Nguyệt 
trong Lỗi hẹn quên thề; Kim Duyên trong Ăn năn đã muộn; Phi Tâm trong Anh bạc tình; 
Kỳ Sanh trong Bạc trắng lòng đen Thứ hai, một số tác phẩm lại thể hiện sự giằng co lựa 
chọn con đường đi trong nội tâm của nhân vật như: Phạm Linh Chi trong Chén cơm lạt của 
người thất nghiệp, Kim Toàn trong Lỗi về ai, Tấn Dương trong Ép dầu ép mỡ 
Sự thay đổi của tính cách nhân vật có thể thấy rõ nhất là hai nhân vật nữ trong tác 
phẩm Ai kén chồng, đó là Lý Hồng Hoa và Thị Lành khi ở những hoàn cảnh khác nhau. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trương Thị Linh 
713 
Hoàn cảnh khiến họ thay đổi hẳn vai chủ động - bị động và cũng vì thế, ngôn ngữ, cử chỉ, 
thái độ của nhân vật cũng thay đổi theo cho phù hợp với vai của mình. 
Lý Hồng Hoa khi còn tiền còn của, còn quyền còn chức thì hống hách, không coi ai 
ra gì, đày đọa đày tớ đến điều, đặt điều vu oan giá họa cho người, còn hăm he Thị Lành: 
“Ừ vậy thì phải đi lấy đem về đây cho mau mau, nếu trở về không thì tao nặn lòi con non 
mày ra rồi kêu lính bắt bỏ khám ở tù rục xương à, nói cho mày giữ hồn. Hứ! Con gái mẹ 
mày nà!” (Ai kén chồng, tr.176) 
Nhưng khi sa cơ lỡ vận cũng biết xuống nước năn nỉ, một tiếng chị, hai tiếng em: 
“Thôi em, qua biết qua quấy rồi, nên nãy giờ em mắng nhiếc qua, qua cũng ngậm miệng 
làm thinh em chẳng nên nhiều lời cay đắng mà chi!” (Ai kén chồng, tr.188). 
Có thể thấy tâm trạng nhân vật thay đổi rõ nhất là Thị Lành, vốn là đứa ở của Hồng 
Hoa khi trước. Bị chủ khắc bạc nhưng không dám nói tiếng nào dù bị oan. Nhưng khi đã 
không còn là quan hệ chủ - tớ nữa thì lời nói, việc làm của nhân vật này có sức nặng ngàn 
cân, mang tính sát thương cao: 
Dạ thưa bà Ban: ngày nay dầu tôi có giàu sang đến bực nào đi nữa thì tôi với bà cũng 
là đạo thầy trò. Nay bà muốn chồng tôi không lẽ tôi đành để cho bà thất vọng, ấy là 
tôi nghĩ tình chủ tớ mà xin nhường lại cho bà, chớ tôi có nói gì đâu mà bà gọi rằng 
nhiều lời (Ai kén chồng, tr.188). 
Thậm chí sau đó Thị Lành còn cao giọng khi cơn giận lên đến đỉnh điểm của cuộc 
gặp mặt bất ngờ, chứ không nhún nhường, e lệ, mỉa mai như trên mà rất thẳng thắn kiểu 
người miền Nam với cách xưng hô mày – tao chợ búa: “Thiệt là đồ không ra gì, vậy chớ 
ông chồng Chệc của mày ở đâu, mày lại nhè chồng của con ở của mày mà muốn. Đồ khốn 
kiếp, muốn phá gia cang của người ta!” (Ai kén chồng, tr.189). 
Tâm trạng của nhân vật thể hiện sự giằng co, đấu tranh nội tâm giữa việc phải lựa 
chọn một trong hai con đường để đi. Nhân vật phải lựa chọn, đấu tranh với chính mình 
nhiều nhất trong các truyện ngắn của Sơn Vương có lẽ là Phạm Linh Chi trong Chén cơm 
lạt của người thất nghiệp. Lần thứ nhất là anh định giết con chó bởi nó ăn mất chén cơm 
nguội duy nhất còn lại trong nhà nhưng sau đó nghĩ lại thương nó, bởi anh hiểu “mình đói 
mình biết kiếm ăn, thì loài vật đói, nó cũng biết kiếm ăn như mình Nếu mình giận nó thì 
chẳng là mình ngu hèn lắm sao?” (Chén cơm lạt của người thất nghiệp, tr.203). Lần thứ 
hai, anh định tự tử nhưng may sao không chết, thế là anh đi ăn trộm để được vào tù, để 
khỏi phải suy nghĩ. 
Truyện miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật theo từng tầng nấc thang của sự 
mưu sinh khốn khó của những cư dân nghèo thành thị nơi phồn hoa đô hội vào bậc nhất 
Đông Dương vào thời đó, Sài Gòn. Điều này chứng tỏ tác giả đã phần nào thấy được hoàn 
cảnh tác động mạnh mẽ đến tâm trạng, tính cách của con người. Con người ngày càng cùn 
mòn hóa, vật chất hóa bởi họ không thể làm cách gì để có thể tồn tại khi mà xã hội không 
tạo cơ hội cho người ta có thể kiếm được một công việc tử tế khả dĩ có thể sinh tồn. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
714 
Trong Ăn năn đã muộn, người chồng lúc đầu phát hiện vợ ngoại tình, anh ta định giết 
vợ và nhân tình của vợ. Nhưng sau quá trình đấu tranh tâm lí, anh ta mặc kệ hai kẻ phản 
bội ấy mà suy nghĩ đến những việc lớn lao cao cả hơn là cứu nhân độ thế: 
Thân mình là rường cột của xã hội, mình cần phải học đòi theo những đấng anh hùng hào 
kiệt mà hi sinh thân thế vì nòi giống vì nước nhà; sá chi một con đàn bà hư mà mình đến 
phải gây nên việc án mạng? Mà mình mà làm vậy có ai khen cho mình đâu? Chi bằng mình 
nói ba điều bốn chuyện cho nó biết rồi đuổi nó đi, cái tội nó để cho tòa án lương tâm nó sửa 
phạt lấy thì hay hơn! (Ăn năn đã muộn, tr.248). 
Hoặc một nhân vật rất tiêu biểu cho kiểu Sở Khanh như Kỳ Sanh trong tác phẩm Bạc 
trắng lòng đen cũng được tác giả dụng công nhằm miêu sự biến đổi tâm lí của nhân vật. 
Kỳ Sanh là một người đàn ông chuyên đi dụ dỗ vợ người, nhưng đột nhiên chàng ta thay 
đổi tính nết bởi anh ta nhận thấy: “Luật trời công bình, hễ mình dâm vợ người ta thì vợ 
mình chia tình cùng người khác mà trừ. Vợ mình giết mình đặng theo trai!” (Bạc trắng 
lòng đen, tr.312). 
4. Kết luận 
Thông qua những truyện ngắn của Sơn Vương, chúng tôi thấy rằng: 
Thứ nhất, văn chương của cha ông cha ta truyền thống là thơ nên không có thói quen 
đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật, phân tích xã hội mà chỉ có thói quen miêu tả một trạng 
huống cảm xúc của con người thông qua một cảnh, vật nhất định ở một thời điểm nhất 
định. Và do thế, chủ nghĩa hiện thực du nhập vào Việt Nam với tinh thần sáng tác bám sát 
vào thực tế cuộc sống đã là điều mới mẻ và đầy sức hấp dẫn, lôi cuốn đối với người viết 
lẫn người đọc thời bấy giờ. Ngoài ra, kĩ thuật viết văn xuôi như trơn tuột như lời nói cũng 
góp phần vào việc đi sâu vào việc phân tích tâm lí nhân vật như văn học phương Tây dù 
sao cũng là điều mới mẻ và cần thời gian tập tành cho thuần thục ở giai đoạn đầu học viết 
tiểu thuyết, truyện ngắn theo lối mới. 
Thứ hai, truyện ngắn của ông chưa thể hiện rõ đặc trưng tinh thần phân tích tâm linh 
nhưng phân tích xã hội thì đã phần nào được thể hiện. Cho dù, sự phân tích ấy chưa sâu 
sắc, chỉ mới nêu lên được hiện trạng, chưa đi sâu vào việc phân tích lí do của những mâu 
thuẫn xã hội tồn tại giữa giai cấp trên, có tiền, có quyền với giai cấp dưới của xã hội, 
nghèo, không tiền, không quyền. Về việc phân tích tâm lí nhân vật, tác giả chưa đi sâu vào 
sự chuyển biến tâm lí sâu sắc của nhân vật trong những giai đoạn bản lề của cuộc sống khi 
phải lựa chọn giữa đúng, sai, phải, trái Một phần, có lẽ do tài năng của tác giả trong giai 
đoạn này chưa vào độ chín muồi; phần khác là do bị kiểm duyệt của nhà cầm quyền vì các 
tác phẩm thời gian này chủ yếu đăng trên báo chính thống bị sự kiểm duyệt gắt gao của 
chính quyền thực dân. Song không phải vì thế mà vấn đề phê phán chế độ chính trị không 
tồn tại. Tuy tác giả sử dụng lối phê phán nhẹ nhàng và chủ yếu chỉ vẫn chỉ trích một vài cá 
nhân mang tính chung chung nhưng thông qua đó nêu lên thực trạng của đời sống người 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Trương Thị Linh 
715 
dân nghèo hèn, cực khổ dưới tác động của chế độ chính trị hiện hành được thể hiện trong 
Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Lỗi về ai, Ai bạc tình 
Thứ ba, sự xuất hiện những giai tầng mới ở đô thị, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn 
giữa chế độ chính trị hiện hành đối với người dân xứ thuộc địa cũng được phản ánh trong 
các truyện ngắn của Sơn Vương một cách khéo léo cho dù chỉ là những mâu thuẫn vụn vặt, 
mang tính chất cá nhân nhiều hơn nhưng qua đó chúng ta thấy được tâm lí ưu thời mẫn thế 
của tác giả. Ngoài ra, tác giả còn nêu lên thực trạng của cư dân thuộc địa, tâm lí của những 
con người mất nước đối với hiện tình của đất nước trong vị thế “ngàn cân treo sợi tóc” ảnh 
hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Chúng tôi tin rằng, nếu không vì điều kiện xuất bản 
(như đã nói ở trên) thì khả năng phản ánh xã hội trong truyện ngắn của Sơn Vương còn 
mạnh mẽ, sâu sắc hơn như trong hồi kí của ông. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÁC PHẨM KHẢO SÁT 
Sơn Vương (1930). Phản bạn vì tình. Sài Gòn: Đức Lưu Phương. In trong tập Nguyễn Q. Thắng 
(sưu tầm, nghiên cứu) (2007). Sơn Vương – Nhà văn – Người tù thế kỉ, Tập 1. NXB Văn học. 
Sơn Vương (Không ghi năm xuất bản). Lỗi về tôi! Mượn bạn thử vợ. Sài Gòn: Đức Lưu Phương. In 
trong tập Nguyễn Q. Thắng (sưu tầm, nghiên cứu) (2007). Sơn Vương – Nhà văn – Người tù 
thế kỉ, tập 1. NXB Văn học. 
Sơn Vương (Không ghi năm xuất bản). Lỗi về ai. Sài Gòn: Đức Lưu Phương. In trong tập Nguyễn 
Q. Thắng (sưu tầm, nghiên cứu) (2007). Sơn Vương – Nhà văn – Người tù thế kỉ, tập 1. NXB 
Văn học. 
Sơn Vương (1931). Lỡ một lầm hai, Ai kén chồng, Chén cơm lạt của người thất nghiệp, Ăn năn đã 
muộn (lửa gần rơm), Anh bạc tình, Ai bạc tình, Bạc trắng lòng đen, Ép dầu ép mỡ, Lỗi hẹn 
quên thề. Sài Gòn: Đức Lưu Phương. In trong tập Nguyễn Q. Thắng (sưu tầm, nghiên cứu) 
(2007). Sơn Vương – Nhà văn – Người tù thế kỉ, tập 1. NXB Văn học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Do, D. D. (1981). Critical Realism in Western Literature [Chu nghia hien thuc phe phan trong van 
hoc phuong Tay]. Hanoi: Social Sciences Publishing House. 
Nguyen, T. H. H. (2015). The Issue of Realism in Literature Research in Vietnam from 1975 to 
Present [Van de chu nghia hien thuc trong khoa nghien cuu Van hoc o Viet Nam tu 1975 den 
nay]. Doctoral Thesis in Literature. Hochiminh City: University of Social Sciences and 
Humanities. 
Phan, M. H. (2016). The Art of Narrative in The Southern Novel before 1932 [Nghe thuat tu su 
trong tieu thuyet Nam Bo truoc 1932]. Hochiminh City: Viet Nam National University 
Publishing House. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 4 (2020): 705-716 
716 
Vuong, T. N. (collection, compilation) (2000). Commentary on Novels in Vietnamese Literature, 
from The Early Twentieth Century to 1945 [Nhung loi ban ve tieu thuyet trong van hoc Viet 
Nam, tu dau the ki XX den 1945]. Hanoi: Writers Association Publishing House. 
Todorov, Tz. (2011). The Poetics of Prose [Thi phap van xuoi]. The third edition. Translated by Le 
Hong Sam, Dang Anh Dao. Hanoi: University of Education Publishing House. 
Nguyen, V. T. (2015). Profile of Luc Chau Hoc - Searching about New Land’s People (Based on 
Literary Documents and History in the Southern Language from 1865-1930) [Ho so ve Luc 
Chau Hoc – tim hieu con nguoi vung dat moi]. Hochiminh City: Tre Publishing House. 
Nguyen, Q. T. (collection, research) (2007). Son Vuong - The Writer - The Century Prisoner [Son 
Vuong – Nha van – nguoi tu the ki]. Literature Publishing House. 
IMPRINTS OF THE REALISM IN THE SOUTHERN SHORT STORIES 
IN THE EARLY TWENTIETH CENTURY: A CASE OF SON VUONG 
Truong Thi Linh 
Thu Dau Mot University, Vietnam 
Corresponding author: Truong Thi Linh – Email: linhtt@tdmu.edu.vn 
Received: November 12, 2019; Revised: February 16, 2020; Accepted: April 23, 2020 
ABSTRACT 
Son Vuong is a successful author who wrote short stories in the early twentieth century in the 
South of Vietnam. His stories are fascinating from the content to the art. The technique of 
organizing and styles is very pure and easy to understand, therefore, appropriate to the public that 
time. Until now, his stories are still attracted to readers thanks to his approach to the subject 
matter and the way he chose the details which described the specifications of the Southern 
innermost feelings, emotions, characters, peoples and their life. This article focuses on the 12 short 
stories by Son Vuong (literary bandit Truong Van Thoai) which were published by Nguyen Q. 
Thang (collected, research) in the book Son Vuong - Writer - The prisoner of the century, 
(Literature Publishing House, 2007) to confirm the imprints of the realism in this period in the 
genre of short stories. 
Keywords: realism; Son Vuong; short story 

File đính kèm:

  • pdfdau_an_chu_nghia_hien_thuc_trong_truyen_ngan_nam_bo_dau_the.pdf