Đề cương Bài giảng Cơ sở cảnh quan học - Phạm Thị Hồng Nhung

1.1. Đối tượng của cảnh quan học

Cảnh quan học là một bộ môn khoa học phát triển nhanh chóng, hiện trở

thành một ngành quan trọng nhất của địa lý hiện đại. Những kết quả nghiên cứu

của nó được ứng dụng để giải quyết hàng loạt các vấn đề cấp bách hiện nay,

đặc biệt nhằm qui hoạch khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi

trường. Nó là khoa học nghiên cứu mối tác động tương hỗ giữa các các hợp

phần cấu trúc, các quy luật phân hoá để ứng dụng trong quá trình phát triển

kinh tế và xã hội.

Trong đó, cảnh quan là một quyển đặc thù của Trái Đất. Các hợp phần cấu

trúc tham gia vào quá trình hình thành cảnh quan là địa hình, nham thạch, khí hậu,

nước, đất và sinh vật. Trong đó, diễn ra quá trình trao đổi vật chất và năng lượng

với sự phân hoá phức tạp trong không gian và theo cả trục thời gian.

1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của địa lý tự nhiên

Địa lý tự nhiên là một trong hai nhánh quan trọng của khoa học địa lý.

Đối tượng nghiên cứu là lớp vỏ địa lý Trái Đất, thành phần, cấu trúc, các quy

luật phát triển và sự phân dị lãnh thổ.

Lớp vỏ địa lý là một hệ thống vật chất toàn vẹn. Tính toàn vẹn của lớp

vỏ địa lý được quyết định bởi sự trao đổi vật chất và năng lượng liên tục xảy ra

giữa các bộ phận riêng biệt cấu tạo bởi các quyển. Chính mối quan hệ này làm

cho lớp vỏ địa lý là một hệ thống. Hệ thống này bao gồm nhiều thành phần, hay

chính là do một số quyển của Trái Đất hợp lại, tức là gồm các lớp vỏ bộ phận.

Trên cùng là khí quyển (lớp khí quyển sát mặt đất đến độ cao 6- 8 km của tầng

đối lưu, nhiều nhất đến giới hạn tầng ôzon), thủy quyển (lớp nước trên bề mặt

đến độ sâu tối đa khoảng 11km), sinh quyển, thổ nhưỡng quyển, thạch quyển

(tầng đá trầm tích khoảng 4- 5 km và các thể xâm nhập macma).

Như vậy, địa lý tự nhiên chỉ nghiên cứu phần bề mặt Trái Đất trong

phạm vi từ tầng trên của thạch quyển đến phần dưới của khí quyển. Phạm vi đó4

được gọi là lớp vỏ địa lý- bộ phận phức tạp nhất của Trái Đất có sự tác động

của con người.

Các quyển cấu tạo nên lớp vỏ địa lý là đối tượng nghiên cứu của các

khoa học chuyên ngành của địa lý tự nhiên ví dụ như Địa mạo học, Khí hậu

học, Thủy văn học, Thổ nhưỡng học, Sinh vật học

pdf 140 trang yennguyen 8300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương Bài giảng Cơ sở cảnh quan học - Phạm Thị Hồng Nhung", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương Bài giảng Cơ sở cảnh quan học - Phạm Thị Hồng Nhung

Đề cương Bài giảng Cơ sở cảnh quan học - Phạm Thị Hồng Nhung
 0 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC 
KHOA KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG & TRÁI ĐẤT 
---------------&&-------------- 
ĐỀ CƢƠNG BÀI GẢNG 
HỌC PHẦN: CƠ SỞ CẢNH QUAN HỌC 
Số tín chỉ: 02 (30 tiết) 
Đối tượng: Cử nhân khoa học Địa lý, Khoa học Môi trường 
Biên soạn: Th.S Phạm Thị Hồng Nhung 
Thái Nguyên, năm 2011 
 1 
1. Tên môn học: Cơ sở cảnh quan học. 
2. Tên môn học bằng tiếng Anh: The basic of Landscape. 
3. Số đơn vị học trình của môn học: 2 
4. Phân bổ thời gian: 25 tiết lý thuyết 
 10 tiết bài tập, thảo luận 
5. Điều kiện tiên quyết: 
Sinh viên đã học qua các môn cơ bản nhƣ các khoa học trái đất, tài 
nguyên thiên nhiên. 
6. Mục tiêu học phần: 
- Cung cấp các kiến thức về khoa học cảnh quan và thành lập bản đồ cảnh 
quan. 
- Giúp sinh viên có khả năng phân tích tổng hợp, tham gia các hoạt động 
nghiên cứu điều tra đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, quy hoạch sử dụng 
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trƣờng. 
7. Tài liệu học tập 
7.1. Giáo trình, bài giảng chính 
1. A.G. Ixtrenko, 1969, Cảnh quan học và phân vùng địa lý tự nhiên, Ngƣời 
dịch Vũ Tự Lập, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội. 
2. Phạm Thị Hồng Nhung, 2010, Đề cương bài giảng Cơ sở cảnh quan, Khoa 
Khoc học Môi trƣờng và Trái Đất, Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Thái 
Nguyên. 
7.2. Tài liệu tham khảo 
3. A.G. Ixtrenko, 1985, Cảnh quan học ứng dụng, Ngƣời dịch Đào Trọng 
Năng, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội. 
4. X.V. Kalexnik,1978, Những quy luật địa lý chung của Trái Đất, Ngƣời dịch 
Đào Trọng Năng, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 
 2 
5. Nguyễn Thành Long và nnk, 1984, Thành lập bản đồ cảnh quan các tỷ lệ, 
Viện khoa học Việt Nam. 
6. Phạm Hoàng Hải, 1997, Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hơp lý tài 
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nôi 
7. Lê Bá Thảo, 1988, Cơ sở địa lý tự lý tự nhiên- Tập III, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội. 
8. Phạm Thế Thôn, 2007, Địa lý sinh thái môi trường, Nxb Khoa học kỹ thuật, 
Hà Nội. 
9. Nguyễn An Thịnh, 2010, Đề cương bài giảng Cơ sở sinh thái cảnh quan, 
Khoa Địa lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên- Đại học Quốc gia, Hà Nội 
8. Nguyễn Văn Vinh và nnk, 1999, Phân vùng cảnh quan Việt Nam (Phần đất 
liền và thềm lục địa), Phòng Sinh thái cảnh quan- Viện Địa lý- Trung tâm Khoa học 
Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Hà Nội. 
8. Cách tính điểm 
- Điểm giữa kỳ: 15%. 
- Điểm thảo luận, bài tập, chuyên cần: 15%: 
+ Bài tập: 5%. 
+ Chuyên cần (đi học đầy đủ, phát biểu xây dựng bài): 5%. 
+ Điểm thảo luận: 5%. 
- Điểm thi kết thúc học phần: 70%. 
 3 
CHƯƠNG 1: NHẬP MÔN KHOA HỌC CẢNH QUAN 
1.1. Đối tƣợng của cảnh quan học 
Cảnh quan học là một bộ môn khoa học phát triển nhanh chóng, hiện trở 
thành một ngành quan trọng nhất của địa lý hiện đại. Những kết quả nghiên cứu 
của nó đƣợc ứng dụng để giải quyết hàng loạt các vấn đề cấp bách hiện nay, 
đặc biệt nhằm qui hoạch khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi 
trƣờng. Nó là khoa học nghiên cứu mối tác động tƣơng hỗ giữa các các hợp 
phần cấu trúc, các quy luật phân hoá để ứng dụng trong quá trình phát triển 
kinh tế và xã hội. 
Trong đó, cảnh quan là một quyển đặc thù của Trái Đất. Các hợp phần cấu 
trúc tham gia vào quá trình hình thành cảnh quan là địa hình, nham thạch, khí hậu, 
nƣớc, đất và sinh vật. Trong đó, diễn ra quá trình trao đổi vật chất và năng lƣợng 
với sự phân hoá phức tạp trong không gian và theo cả trục thời gian. 
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của địa lý tự nhiên 
Địa lý tự nhiên là một trong hai nhánh quan trọng của khoa học địa lý. 
Đối tƣợng nghiên cứu là lớp vỏ địa lý Trái Đất, thành phần, cấu trúc, các quy 
luật phát triển và sự phân dị lãnh thổ. 
Lớp vỏ địa lý là một hệ thống vật chất toàn vẹn. Tính toàn vẹn của lớp 
vỏ địa lý đƣợc quyết định bởi sự trao đổi vật chất và năng lƣợng liên tục xảy ra 
giữa các bộ phận riêng biệt cấu tạo bởi các quyển. Chính mối quan hệ này làm 
cho lớp vỏ địa lý là một hệ thống. Hệ thống này bao gồm nhiều thành phần, hay 
chính là do một số quyển của Trái Đất hợp lại, tức là gồm các lớp vỏ bộ phận. 
Trên cùng là khí quyển (lớp khí quyển sát mặt đất đến độ cao 6- 8 km của tầng 
đối lƣu, nhiều nhất đến giới hạn tầng ôzon), thủy quyển (lớp nƣớc trên bề mặt 
đến độ sâu tối đa khoảng 11km), sinh quyển, thổ nhƣỡng quyển, thạch quyển 
(tầng đá trầm tích khoảng 4- 5 km và các thể xâm nhập macma). 
Nhƣ vậy, địa lý tự nhiên chỉ nghiên cứu phần bề mặt Trái Đất trong 
phạm vi từ tầng trên của thạch quyển đến phần dƣới của khí quyển. Phạm vi đó 
 4 
đƣợc gọi là lớp vỏ địa lý- bộ phận phức tạp nhất của Trái Đất có sự tác động 
của con ngƣời. 
Các quyển cấu tạo nên lớp vỏ địa lý là đối tƣợng nghiên cứu của các 
khoa học chuyên ngành của địa lý tự nhiên ví dụ nhƣ Địa mạo học, Khí hậu 
học, Thủy văn học, Thổ nhƣỡng học, Sinh vật học. 
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của địa lý tự nhiên tổng hợp 
Các hợp phần của lớp vỏ địa lý hay các hợp phần của lớp vỏ cảnh quan 
dƣới góc độ của cảnh quan học thay đổi trong không gian từ nơi này đến nơi 
khác trong mối quan hệ phụ thuộc, tƣơng tác lẫn nhau. Chính sự phụ thuộc và 
tác động qua lại này đã tạo nên các tổng hợp thể vật chất phức tạp. 
Nghiên cứu tổng hợp các quyển đó trong mối quan hệ tác động qua lại 
với nhau trong lớp vỏ địa lý trên những lãnh thổ khác nhau là nhiệm vụ của địa 
lý tự nhiên tổng hợp. Nghiên cứu địa lý tự nhiên tổng hợp là nghiên cứu các thể 
tổng hợp lãnh thổ địa lý hay thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, hay tổng hợp thể tự 
nhiên khác nhau trên các phần lãnh thổ khác nhau (các địa tổng thể). 
Theo Ixatsenko, 1991: "Tổng hợp thể tự nhiên không phải là một tập hợp 
đơn giản, mà là một phức hợp các yếu tố tạo nên một thực thể vật chất phức 
tạp có tính toàn vẹn và thống nhất. Nó được coi là một hệ thống không gian và 
thời gian của các hợp phần địa lý có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân 
bố và phát triển như một thể thống nhất ". 
Tổng hợp thể tự nhiên tồn tại ở 2 dạng: tổng hợp thể tự nhiên đầy đủ và 
tổng hợp thể tự nhiên không đầy đủ. Dạng thứ nhất bao gồm các hợp phần đang 
tồn tại ở nơi xác định với đầy đủ tất cả các thành phần tự nhiên. Dạng thứ hai 
chỉ bao gồm các thành phần riêng biệt, hoặc các bộ phận của thành phần có 
quan hệ chặt chẽ với nhau hơn cả nhƣ địa mạo- thổ nhƣỡng, thực vật- thổ 
nhƣỡng, đơn vị đất đai, đơn vị sinh thái cảnh. 
Thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đƣợc xem nhƣ là một hệ thống đặc biệt, 
có mức độ tổ chức cao với cấu trúc phức tạp và mối quan hệ phụ thuộc lẫn 
nhau giữa các hợp phần và tuân thủ theo những qui luật chung. Hệ thống này 
gọi là địa hệ. Địa hệ có đặc điểm sau: 
 5 
- Gồm nhiều yếu tố và bộ phận cấu tạo, giữa chúng tồn tại mối tác động 
và phụ thuộc lẫn nhau bởi các dòng vật chất, năng lƣợng và thông tin. 
- Mỗi một địa hệ thống bất kỳ cũng là một bộ phận của địa hệ bậc cao. 
- Địa hệ thống có mối quan hệ với môi trƣờng bên ngoài. 
Nhƣ vậy, địa hệ thống là một khái niệm chung, có qui mô khác nhau từ 
lớn đến nhỏ từ điểm địa lý đến toàn bộ lớp vỏ địa lý, từ cấp địa phƣơng đến cấp 
khu vực và cấp hành tinh. 
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của cảnh quan học 
 Trong các địa tổng thể ấy thì các tổng thể lãnh thổ tự nhiên nhỏ, không 
lớn, có quan hệ mật thiết với sự tồn tại và phát triển của con ngƣời mà con 
ngƣời quan sát đƣợc, nhận thức đƣợc, sử dụng đƣợc gọi là cảnh quan. Cảnh 
quan là phạm vi không gian lãnh thổ của bề mặt Trái Đất nơi mà con ngƣời và 
các thể sinh vật sinh sống tác động qua lại và có mối quan hệ mật thiết với 
nhau. Nó là bậc cơ sở cho phân vùng địa lý tự nhiên vì các đơn vị lớn hơn chỉ 
là sự kết hợp về lãnh thổ của các cảnh quan (ví dụ miền Bắc Việt Nam gồm 
577 cá thể cảnh quan). Nghiên cứu các thể tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên của 
lớp vỏ địa lý trong đó chú trọng nghiên cứu cảnh quan đƣợc gọi là khoa học địa 
lý cảnh quan. 
Cảnh quan học có đối tƣợng nghiên cứu là các thể tổng hợp địa lý, cấu 
tạo, sự phát triển và sự phân bố của chúng. Nói cách khác, cảnh quan học là 
một bộ phận của địa lý tự nhiên, nghiên cứu sự phân hóa lãnh thổ của lớp vỏ 
địa lý. 
1.2. Khái niệm về cảnh quan 
1.2.1. Quan điểm về cảnh quan 
Từ “cảnh quan” là tên gọi khá cổ của một ngành khoa học địa lý hoàn 
chỉnh, đƣợc sử dụng để biểu thị tƣ tƣởng chung về một tập hợp quan hệ tƣơng 
hỗ của các hiện tƣợng khác nhau trên bề mặt Trái Đất. 
 6 
Cảnh quan lần đầu tiên đƣợc sử dụng nhƣ là một khái niệm khoa học vào 
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, lấy từ tiếng Đức (die Landschaft) nghĩa là 
“quang cảnh”. Sự ra đời của khoa học cảnh quan xuất phát từ các công trình 
nghiên cứu về sự phân chia địa lý tự nhiên bề mặt Trái Đất của các nhà địa lý 
Nga kinh điển nhƣ: V.V. Đocusaev, L.C. Berge, G.N. Vƣxotxkii... hay G.F. 
Morozov (Đức); Z. Passage, A. Hettner (Anh)... 
Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay vẫn tồn tại các quan điểm khác 
nhau về cảnh quan. Trên cơ sở các quan điểm chung này có các định nghĩa 
khác nhau về cảnh quan. 
Trong khoa học Địa lý Xô viết có 3 nhóm quan điểm chính về cảnh 
quan. Theo đó khái niệm cảnh quan đƣợc hiểu theo 3 nghĩa tùy theo khối lƣợng 
và nội dung muốn diễn tả. 
a, Quan điểm coi cảnh quan là khái niệm chung 
Đây là quan điểm đầu tiên về cảnh quan. Ý nghĩa sử dụng của từ "cảnh 
quan” giống với khí hậu, địa hình, thổ nhƣỡng... đồng nghĩa với tổng thể địa lý 
ở các cấp phân vị khác nhau và phân vùng khác nhau với các đại diện tiêu biểu 
nhƣ F.N. Milkov, D.L. Acmand... 
D. L. Armand đã cho rằng "tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên là một phần 
lãnh thổ hay khu vực đƣợc phân chia một cách ƣớc lệ bằng các ranh giới thẳng 
đứng theo nguyên tắc đồng nhất tƣơng đối và các ranh giới nằm ngang theo 
nguyên tắc mất dần ảnh hƣởng của nhân tố mà theo đó tổng thể đƣợc định ra... 
vì thuật ngữ tổng thể lãnh thổ hay khu vực tự nhiên rất dài, tuy chính xác nhƣng 
không thuận nên tôi thay nó bằng thuật ngữ ngắn gọn là "cảnh quan"”. 
b, Quan điểm khác coi cảnh quan mang tính kiểu loại (khái niệm loại 
hình) 
Khi đó cảnh quan là khái niệm được khái quát hóa để chỉ các tổng thể 
loại hình nhƣ theo B.B. Polunop, N.A. Govodexki..., phản ánh các khu vực 
tách biệt của lớp vỏ địa lý có nhiều dấu hiệu chung. 
Những ngƣời theo quan niệm này cho rằng: các thể tổng hợp địa lý tự 
nhiên chứa đựng trong nó các đặc tính phản ánh tính chất chung và tính chất 
 7 
riêng biệt của tổ hợp các thành phần cấu tạo nên chúng. Nhờ vào việc nghiên 
cứu các đặc tính chung nào đó, tính lặp lại mà ngƣời ta có thể phát hiện các thể 
tổng hợp tự nhiên bằng con đƣờng phân loại cảnh quan theo các cấp phân loại 
nhƣ hệ cảnh quan - phụ hệ cảnh quan - kiểu cảnh quan - phụ kiểu cảnh quan - 
loại cảnh quan - hạng cảnh quan... Tiêu biểu cho quan niệm này là hệ thống 
phân vị cảnh quan của N.A. Gvozedexki. Hệ thống phân loại này ứng dụng cho 
việc thành lập bản đồ cảnh quan. 
Cảnh quan khi mang tính kiểu loại đƣợc áp dụng cho cả cảnh quan tự 
nhiên và cảnh quan nhân sinh, là đối tƣợng áp dụng các biện pháp bảo vệ thiên 
nhiên, nghiên cứu cảnh quan khi nhiều yếu tố chƣa định lƣợng một cách chắc 
chắn và cần phải công nhận tính đồng nhất tƣơng đối để có thể gộp chúng vào 
cùng một nhóm. 
Ngoài cách phân loại cảnh quan nhƣ đã nêu ở trên, cần phải chú ý đến 
cách phân loại cảnh quan theo quan điểm phân loại các tổng thể địa lý. Trên cơ 
sở đã xác định đƣợc các tổng thể địa lý, dựa vào một nhóm các dấu hiệu nào đó 
mà ta có thể tiến hành phân loại chúng cho mục đích cụ thể. Các tác giả tiêu 
biểu cho cách phân loại này là A.G. Ixatsenko, Vũ Tự Lập. 
c, Quan điểm coi cảnh quan là những cá thể địa lý (khái niệm cá thể) 
Cảnh quan là những cá thể địa lý không lặp lại trong không gian, là đơn 
vị cơ bản trong hệ thống phân vùng địa lý tự nhiên, có nội dung xác định và chỉ 
tiêu rõ ràng, thể hiện sự quan hệ tƣơng hỗ của các hợp phần tự nhiên trong một 
lãnh thổ nhất định. Nó là một lãnh thổ cụ thể (cá thể), đồng nhất về mặt phát 
sinh và lịch sử phát triển, đặc trưng nền địa chất đồng nhất, một kiểu khí hậu 
đồng nhất, một phức hợp thổ nhưỡng, sinh vật quần đồng nhất và có một cấu 
trúc. Các đơn vị cá thể cảnh quan đƣợc xác định theo các nguyên tắc, phƣơng 
pháp phân vùng địa lý tự nhiên theo hệ thống phân vị từ trên xuống dƣới và có 
thể đƣợc nghiên cứu bằng phƣơng pháp hoạ đồ cảnh quan thực địa. 
Ngƣời đầu tiên đề xƣớng quan điểm này là L.X.Berg và đƣợc phát triển 
trong các công trình của A.A. Grigoriev (1957), X.V. Ixatsenko (1953, 1965, 
1989), N.A. Xonlxev (1948, 1949). 
 8 
Quan niệm cá thể đƣợc dùng cho nghiên cứu phân vùng địa lý tự nhiên 
và nghiên cứu cảnh quan ở tỷ tỷ lệ nhỏ, trung bình khi có đầy đủ các cơ sở. 
 Như vậy, ba quan điểm kể trên đều giống nhau ở một điểm là coi cảnh 
quan là một tổng thể địa lý tự nhiên, song sự khác biệt là ở chỗ coi cảnh quan là 
đơn vị thuộc cấp phân vị nào. Phần lớn các học giả đều tán thành quan điểm 
của L.X. Becgo coi cảnh quan là một trong những đơn vị cấp thấp của phân 
vùng địa lý tự nhiên. 
1.2.2. Các khái niệm về cảnh quan 
a, Khái niệm của các nhà địa lý Liên Xô (cũ) và Việt Nam 
Các khái niệm, định nghĩa về cảnh quan đƣợc các nhà khoa học đƣa ra ở 
các thời điểm khác nhau thể hiện sự phát triển của khoa học này. Mặc dù, đến 
nay có nhiều định nghĩa khác nhau về chi tiết nhƣng tƣơng đối gần nhau. 
Theo L.X. Berg- ngƣời đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu cảnh 
quan ở Liên Xô, năm 1931 đã viết: “Cảnh quan địa lý là một tập hợp hay một 
nhóm các sự vật, các hiện tượng, trong đó đặc biệt là địa hình, khí hậu, nước, 
đất, lớp phủ thực vật và giới động vật cũng như hoạt động của con người hòa 
trộn với nhau vào một thể thống nhất hòa hợp, lặp lại một cách điển hình trên 
một đới nhất định nào đó của Trái Đất”. 
Đến S.V. Kalexnik (năm 1959): “ Cảnh quan địa lý là một bộ phận nhỏ 
của bề mặt Trái Đất, khác biệt về chất với các bộ phận khác, được bao bọc bởi 
các ranh giới tự nhiên và bản thân là một sự kết hợp các hiện tượng và đối 
tượng tác động lẫn nhau một cách có quy luật được biểu hiện một cách điển 
hình trên một không gian rộng và có quan hệ mọi mặt với lớp vỏ địa lý”. Ông 
còn nhấn mạnh rằng: “Cảnh quan phải đƣợc phân chia trực tiếp ngoài thực địa 
bằng con đƣờng trắc hội cảnh quan ”. Định nghĩa này nhƣ một khái niệm chung 
trong khoa học địa lý, giống nhƣ khái niệm chung về thổ nhƣỡng, khí hậu, sinh 
vật... 
Năm 1962, N.A. Xolsev đƣa ra định nghĩa rõ ràng hơn với những tiêu 
chuẩn nhƣ: “Cảnh quan địa lý là một tổng thể tự nhiên có lãnh thổ đồng nhất 
về mặt phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, một kiểu địa hình, một khí hậu 
 9 
giống nhau và bao ngoài một tập hợp các cảnh khu chính và phụ, đặc trưng 
cho cảnh quan đó, liên kết với nhau về mặt động lực, lặp đi lặp lại trong không 
gian một cách có quy luật”. 
Định nghĩa này nhấn mạnh cảnh quan là một hệ thống những tổng hợp 
thể lãnh thổ tự nhiên đơn giản, cấu tạo một cách có quy luật, đƣợc xác lập tựa 
nhƣ là “từ dƣới lên”. Tuy nhiên, cảnh quan lần lƣợt cũng lại là một phần của 
những đơn vị lãnh thổ phức tạp hơn của lớp vỏ địa lý, tức là cả “từ trên xuống”. 
Sau đó, N.A. Xolsev lại đƣa ra các điều kiện chủ yếu cho các cảnh quan 
độc lập (cá thể) nhƣ sau: 
1. Lãnh thổ mà các cảnh quan hình t ... h vật với điều kiện nhiệt- 
ẩm với sự hòa trộn của các luồng di cƣ với hệ sinh vật bản địa. Vì thế, hệ thống 
cảnh quan Việt Nam chia làm 3 phụ hệ: 
+ Phụ hệ cảnh quan nhiệt đới có mùa đông lạnh, ẩm đƣợc phân bố chủ yếu ở 
phần Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và khu vực Bắc Trung Bộ kéo dài đến địa 
phận đèo Bạch Mã (vĩ tuyến 160 vĩ Bắc). 
+ Phụ hệ cảnh quan nhiệt đới có mùa đông hơi lạnh và một mùa khô tồn tại 
ở khu vực Tây Bắc và cực Tây Bắc Trung Bộ. 
+ Phụ hệ cảnh quan nhiệt đới có một mùa khô, nóng đƣợc phân bố ở phía 
Nam bao gồm Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. 
 132 
cấp chỉ là những nét đặc trƣng chung nhất của cấp đó. Những đơn vị ở cấp 
càng nhỏ thì tính đồng nhất của hợp phần càng cao. 
Khung 5.3. Tính đồng nhất của cảnh quan ở cấp lớp và phụ lớp. 
Nhƣ vậy, theo nguyên tắc này những đơn vị cảnh quan có các hợp phần 
cùng nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và hình thái tƣơng đối đồng nhất 
đều có thể xếp vào cùng cấp mặc dù chúng có thể phân bố xa nhau. Chẳng hạn, 
loại cảnh quan rừng nguyên sinh phát triển trên đất feralit mùn vàng nhạt trên 
núi (loại cảnh quan số 1) của CQ Đại Từ (Thái Nguyên) phân bố ở khu vực dãy 
Tam Đảo, ở độ cao trên 1.000m nhƣng nằm rải rác với số lần xuất hiện là 9. 
5.3. Xây dựng bản đồ cảnh quan 
5.3.1. Cách thức xây dựng bản đồ cảnh quan 
a, Xây dựng bảng chú giải 
Cấp lớp CQ núi của Việt Nam chia thành 3 phụ lớp: 
+ Phụ lớp cảnh quan núi cao. 
+ Phụ lớp cảnh quan núi trung bình. 
+ Phụ lớp cảnh quan núi thấp. 
+ Phụ lớp cảnh quan vùng trũng giữa núi 
Tính đồng nhất chung nhất là cảnh quan này thƣờng tƣơng ứng với nhóm kiểu 
địa hình núi có độ cao tuyệt đối trên 500m, thuộc 2 xứ núi Hoa Nam và Đông Dƣơng. 
Các núi có tuổi thành tạo không đồng nhất, song hầu nhƣ đƣợc cải tạo vào chu kỳ tạo 
núi Indonxini và kết thúc trong chu kỳ Kimeri. Các dãy núi đều có dấu hiệu của các bề 
mặt san bằng- dấu ấn của pha tạo núi trong chu kỳ tạo núi Hymalaya. Đồng thời tác 
động của các quá trình ngoại sinh làm cho bề mặt bị cắt xẻ, có nơi sâu hàng ngàn mét 
tạo thành các đèo nhƣ Lũng Lô, Khau Cọ, đèo Mây, đèo Ngang... Khí hậu có sự phân 
hóa theo đai cao, trên 1.500m tồn tại mùa lạnh quanh năm. Đây là các bồn thu nƣớc 
lớn với mạng lƣới sông, suối dài quá trình xâm thực- bóc mòn là quá trình chính. Cân 
bằng vật chất trong cảnh quan luôn trong trạng thái thiếu hụt vì chức năng chủ yếu là 
cung cấp vật chất cho các lớp cảnh quan dƣới thấp. Tình trạng khai thác rừng, khai 
thác khoáng sản và các hoạt động canh tác nông nghiệp làm biến đổi cảnh quan mạnh 
mẽ. 
 133 
Bảng chú giải của bản đồ cảnh quan thể hiện toàn bộ hệ thống phân loại 
của cảnh quan một lãnh thổ, từ bậc phân vị cao đến bậc phân vị thấp. Do đó 
phải xây dựng bảng chú giải trƣớc mới xác định đƣợc đơn vị cơ sở để thể hiện 
trên bản đồ cảnh quan. 
Hình 5.2. Bảng chú giải của bản đồ cảnh quan huyện Đại Từ 
Bảng chú giải đƣợc xây dựng theo bảng ma trận. Các cột dọc ở lề bên 
trái biểu diễn nền tảng rắn (địa hình, loại đất). Cột ngang ở bên trên biểu diễn 
nền tảng nhiệt- ẩm (kiểu khí hậu, thực vật, thuỷ văn). Sự giao thoa giữa các cột 
dọc và hàng ngang tạo ra các ô ma trận có ghi số và tô màu đặc trƣng cho đơn 
vị cảnh quan (các khoanh vi). Mỗi khoanh vi ký hiệu bằng chữ in hoa hoặc in 
thƣờng, chữ viết hoa hoặc viết thƣờng, nhƣng thƣờng là đánh số. Số hiệu và 
màu sắc trên ô ma trận của bản chú giải ghi và tô đúng theo số, màu trên bản 
đồ. Từ mỗi ô ma trận của bản chú giải theo chiều ngang sẽ đọc đƣợc các thông 
 134 
tin về địa hình, đất, đá, theo chiều dọc sẽ đọc đƣợc các thông tin về khí hậu, 
thủy văn, sinh vật. 
b, Thành lập bản đồ cảnh quan 
Bản đồ cảnh quan đƣợc thành lập trên cơ sở tổng hợp các bản đồ thành 
phần nhƣ bản đồ địa mạo, bản đồ địa hình, bản đồ sinh khí hậu, bản đồ thảm 
thực vật, bản đồ thổ nhƣỡng, bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Đơn vị cơ sở trên 
bản đồ thƣờng là thể hiện cho cấp phân vị thấp nhất của cảnh quan khu vực 
nghiên cứu. Tùy theo qui mô lãnh thổ, tỷ lệ nghiên cứu thì đơn vị cơ sở có sự 
khác nhau, có thể là loại, hay dạng, hay nhóm dạng cảnh quan. Trong đó: 
- Bản đồ địa mạo, địa hình là cơ sở nền rắn và phân chia các lớp cảnh quan. 
- Bản đồ sinh khí hậu đƣợc sử dụng làm cơ sở chia ra các kiểu cảnh quan. 
- Bản đồ thảm thực vật là cơ sở để phân chia ra nhóm thực vật tự nhiên 
và nhóm thực vật nhân tác. 
- Bản đồ đất kết hợp với bản đồ thảm thực vật và các bản đồ khác là cơ 
sở phân chia các loại cảnh quan. Khi chia đến cấp dạng cảnh quan cần kết hợp 
giữa bản đồ thổ nhƣỡng thêm với bản đồ địa mạo căn cứ vào độ dốc. 
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất là cơ sở để phân ra thành các nhóm HST 
đặc trƣng, ví dụ nhƣ rừng nguyên sinh ít bị tác động, rừng thứ sinh, rừng trồng, 
trảng cỏ xen nƣơng rẫy, cây hàng năm và cây công nghiệp, lúa nƣớc, diện tích 
mặt nƣớc... Bản đồ này còn là cơ sở kiểm tra bản đồ cảnh quan với thực tế để 
biết đƣợc hợp lý với thực tiễn. 
Trƣớc khi chƣa có sự hỗ trợ của máy tính, việc thành lập bản đồ cảnh 
quan dựa vào phƣơng pháp họa đồ, chồng ghép các bản đồ thành phần bằng tay 
trên bàn kính hay trên giấy can theo trình tự bản đồ địa mạo, bản đồ địa hình, 
bản đồ sinh khí hậu, bản đồ thảm thực vật, bản đồ thổ nhƣỡng. 
Hiện nay, công việc này có sự hỗ trợ của công nghệ GIS để thành lập các 
bản đồ chuyên đề, sau đó chồng xếp lên nhau để có bản đồ tổng hợp. Trong đó, 
phần mềm Mapinfo là phần mềm đƣợc sử dụng thông dụng với chức năng tổ 
chức các thông tin theo tập tin, theo các lớp đối tƣợng và liên kết các thông tin 
thuộc tính với các đối tƣợng bản đồ. Phần mềm Map sử dụng để xử lý, số hóa 
 135 
các bản đồ thành phần. Tiến hành chồng xếp các lớp thông tin của bản đồ thành 
phần để có ranh giới và khoanh vi của đơn vị cơ sở, đơn vị thấp nhất của CQ 
khu vực nghiên cứu. 
5.3.2. Xây dựng bản đồ cảnh quan các tỷ lệ 
Các loại bản đồ cảnh quan đƣợc xây dựng ở rất nhiều tỷ lệ khác nhau. 
Theo những qui định của tỷ lệ bản đồ chia làm 3 loại: tỷ lệ nhỏ, tỷ lệ trung bình 
và tỷ lệ lớn. 
Bản đồ cảnh quan tỷ lệ nhỏ và trung bình mang tính khái quát nhằm phản 
ánh các qui luật chủ yếu của sự phân hóa tự nhiên trong không gian, trong thời 
gian và thể hiện mối quan hệ tƣơng hỗ giữa các hợp phần trong cảnh quan. Đơn 
vị cơ sở trong các bản đồ cảnh quan tỷ lệ nhỏ (1\2.000.000 đến 1\1.000.0000) 
lấy đơn vị cơ sở là kiểu cảnh quan. Bản đồ cảnh quan tỷ lệ trung bình 
(1\500.000 đến 1\250.000) thƣờng có đơn vị cơ sở là hạng cảnh quan. Vì thế, 
bản đồ cảnh quan này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Là cơ sở đáng tin 
cậy cho công tác qui hoạch chung, có tính chiến lƣợc về phát triển KT-XH và 
bảo vệ môi trƣờng. 
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay việc khai thác đất đai, mở rộng sản xuất và 
sử dụng TNTN đƣợc thực hiện trong phạm vi tƣơng đối hẹp. Việc xây dựng qui 
hoạch và kế hoạch sản xuất, bảo vệ môi trƣờng ngoài tuân theo các qui luật 
chung còn cần các thông tin chi tiết, cụ thệ từ các bản đồ cảnh quan tỷ lệ lớn (từ 
1\100.000 đến 1\10.000). Cấp đơn vị cơ sở có thể từ loại đến dạng, diện cảnh 
quan. 
Việc nghiên cứu, xây dựng bản đồ CQ ở tỷ lệ lớn không những có giá trị 
khoa học mà còn có giá trị thực tiễn cao. Bởi vì việc khai thác đất đai, sử dụng 
tài nguyên diễn ra trên các đơn vị CQ hạng, loại, dạng, diện nên việc nắm đƣợc 
đặc điểm các thành phần và mối quan hệ giữa chúng cho phép xác định các 
biện pháp khai thác hợp lý và phòng ngừa những bất lợi hay những tiêu cực xảy 
ra sau khai thác. Với việc sử dụng hợp lý, đúng đắn TNTN là tạo điều kiện cho 
 136 
các dạng tài nguyên phục hồi, tái tạo nhanh hơn, hạn chế tình trạng cạn kiệt 
nhanh chóng tài nguyên không phục hồi đƣợc. 
BÀI TẬP CHƢƠNG 5 
5.1. Xây dựng bản đồ cảnh quan (họa đồ cảnh quan và thành lập trên 
Mapinfo) huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 
1. Cảnh quan học nhân sinh 
Cũng giống nhƣ những quan niệm về CQ, CQNS đƣợc xem xét ở nhiều góc độ, 
cách tiếp cận, thậm chí với những tên gọi khác nhau. Nhiều tác giả gọi những CQ 
đƣợc hình thành do những tác động của con ngƣời vào CQ tự nhiên là CQNS, song 
một số tác giả khác lại gọi đó là CQ văn hóa vì cho rằng đó là kết quả của những hoạt 
động văn hóa tự nhiên. 
Nhà địa lý văn hóa Mỹ Sauer xem xét những CQ đƣợc thành tạo sau khi có hoạt 
động của một nền văn hóa, một nhóm yếu tố văn hóa lên tự nhiên, những CQ đó đƣợc 
ông gọi là CQ văn hóa. Từ đây có thể thấy rằng, cảnh quan tự nhiên qua thời gian 
chịu sự chi phối của nhân tố con ngƣời (VH) hình thành nên các đơn vị lãnh thổ 
mang dấu ấn của con ngƣời với các dạng hoạt động nhân sinh phong phú và đa dạng 
(dân số, nông nghiệp, công nghiệp...), đó chính là CQ văn hóa hay còn gọi là CQNS. 
Nhƣ vậy, Sauer và nhiều nhà địa lý khác đã thừa nhận và đánh giá cao vai trò của tầm 
VH tới việc hình thành CQVH. Ứng với một cộng đồng ngƣời trong một giai đoạn 
lịch sử nhất định sẽ cho ra đời một bộ mặt đặc thù của CQNS trong một vùng lãnh 
thổ cụ thể. Điều này khẳng định, sự hình thành và phát triển của CQNS trong một 
vùng lãnh thổ cụ thể. Điều này khẳng định, sự hình thành và phát triển của CQNS 
phụ thuộc chặt chẽ vào những giá trị thực và sự thay đổi của tầm văn hóa theo không 
gian và thời gian. 
Quan niệm và cách nhìn nhận của Sauer đƣợc nhiều nhà địa lý nhân văn tán 
thành và ủng hộ. “CQVH được thành tạo từ CQTN bởi sự tác động của nhóm yếu tố 
VH. VH là chủ thể tác động, CQ tự nhiên là đối tượng bị tác động và CQVH là kết 
quả”. Theo thời gian bản thân một tầm văn hóa cũng bị thay đổi do sự phát triển của 
XH và dẫn đến những CQ cũng thay đổi theo, đồng thời trải qua các giai đoạn phát 
triển khác nhau, CQ có thể đạt tới trạng thái cực đỉnh của quá trình phát triển. Tuy 
nhiên, quan niệm về CQVH còn chƣa có tính thống nhất cao, thậm chí “với sự xâm 
nhập của một nền VH hay một nhóm yếu tố văn hóa ngoại lai sẽ làm cho những hợp 
phần của CQVH thay đổi, thậm chí đƣợc trẻ hóa hoặc xuất hiện CQVH mới với cấu 
trúc khác trƣớc”. 
 137 
Thuật ngữ, CQNS đƣợc Gozep sử dụng từ năm 1930 khi ông dùng nó vào việc 
định rõ đặc tính các dạng lãnh thổ ở khu vực địa hình cát. Tiếp theo, Ramenxki đã 
chú ý tới các đơn vị cảnh quan hình thành dƣới các tác động của con ngƣời. Ông cho 
rằng, đối tƣợng nghiên cứu của CQ học không phải chỉ ở mỗi đơn vị CQ tự nhiên mà 
cả ở những CQ bị biến đổi do tác động của con ngƣời và cả những CQVH do con 
ngƣời tạo ra, đó chính là CQNS. Tuy nhiên khi đó những khái niệm về CQNS đƣa ra 
còn chƣa rõ rằng và tùy thuộc vào những nghiên cứu cụ thể, tùy vào góc độ nhìn nhận 
mà quan niệm của mỗi ngƣời có khác nhau. 
Năm 1973 Minkov đã đƣa ra khái niệm “CQNS là các CQ được xây dựng bởi 
con người và cũng là các CQ tự nhiên mà trong đó có bất kỳ một thành phần nào bị 
thay đổi tận gốc và không tận gốc của các hợp phần đó”. Nhƣ vậy, Minkov thừa 
nhận rõ ràng sự hiện hữu của CQNS, nó không chỉ là các CQ đƣợc xây dựng bởi các 
công trình kỹ thuật của con ngƣời, mà còn bao gồm các CQ tự nhiên đã bị tác động 
để dẫn đến một hợp phần nào đó bị thay đổi. 
Trong khi đó, Drozdov (1988) lại xem xét CQNS ở khía cạnh dƣới mọi hình 
thức tác động chủ quan và khách quan của con ngƣời. Theo ông “CQNS là các địa 
tổng thể mà trong đó có sự biến dạng nảy sinh liên quan đến sự xuất hiện của hoạt 
động con người”. Đây là một khái niệm khá rộng, hàm chứa cả sự thay đổi CQ dƣới 
tác động gián tiếp của con ngƣời. Có thể nhận thấy rằng, hầu hết những CQ tự nhiên 
khi xuất hiện những tác động trực tiếp hay gián tiếp (quản lý, bảo tồn) đều trở thành 
CQNS và nhƣ vậy cũng giống nhƣ Sauer và nhiều nhà địa lý khác, CQNS của 
Drozdov chứa đựng 2 nhóm nhân tố cấu thành là tự nhiên và nhân sinh. 
Theo hƣớng này, trong các công trình nghiên cứu của mình, Ixatsenko (1991) 
cũng xem CQNS chỉ là sự biến dạng khác nhau của CQ tự nhiên do hoạt động của 
con ngƣời gây ra. 
Từ điển Bách khoa toàn thƣ địa lý Liên Xô (1988) chỉ rõ: “CQNS là CQ địa lý 
được tạo nên từ kết quả các hoạt động có mục đích của con người, đồng thời cũng là 
những CQ xuất hiện trong quá trình biến đổi CQ tự nhiên ngoài ý thức của con 
người”. Qua đó, một lần nữa các nhà địa lý Xô Viết khẳng định những CQ tự nhiên 
khi xuất hiện các dạng hoạt động nhân sinh (chủ ý hay vô ý) đều là những CQ nhân 
sinh. Nhƣ vậy, về bản chất thì CQNS hình thành do kết quả của các tác động trực tiếp 
hay gián tiếp của con ngƣời. 
Giống nhƣ quan niệm của Ixatsenko, Nguyễn Văn Vinh và cộng sự xem xét 
CQNS ở góc độ là những CQ bị biến đổi bởi sự hoạt động có ý thức hay vô ý thức 
của con ngƣời. Tuy không thể hiện trong khái niệm, nhƣng các tác giả chú ý đến mức 
độ tác động của con ngƣời vào các đơn vị tự nhiên để dẫn đến sự hình thành CQNS. 
Hơn nữa, tác động phải dẫn đến những thay đổi về lƣợng trong CQ nhƣng cũng có 
thể chƣa đủ làm cho CQ tự nhiên biến đổi (CQ bị tác động yếu). 
 138 
Theo Nguyễn Cao Huần, “CQNS là CQ tự nhiên mà trong đó có bất kì một hợp 
phần nào đó bị biến đổi hoặc được bảo tồn bởi hoạt động của con người”. Hoạt động 
của con ngƣời nhƣ một yếu tố thành tạo và quản lý CQ. Tác giả nhận thấy trong thực 
tế có những CQ ít bị biến đổi nhƣng đƣợc bảo tồn, quản lý bởi con ngƣời và có xu thế 
đƣợc cải thiện nhờ sự quản lý khôn ngoan của con ngƣời, đó cũng là một dạng 
CQNS, ví dụ khu bảo tồn thiên nhiên, rừng cấm...Tác giả cũng cho rằng sự khác biệt 
lớn của CQNS so với CQTN là nó chịu sự chi phối rõ rệt của quy luật XH. 
Tóm lại, hầu hết các tác giả đều thừa nhận sự tồn tại của CQNS và đó là những 
CQ hiện đại mang dấu ấn của hoạt động con ngƣời. Nếu nhƣ dạng hoạt động thể hiện 
hình thức thì nội dung của nó biểu đạt tầm văn hóa của một cộng đồng ngƣời trên một 
lãnh thổ cụ thể ở một giai đoạn lịch sử nhất định mà kết quả là tạo nên những CQ 
gồm các hợp phần tự nhiên hòa nhập với những yếu tố do con ngƣời tác động, tạo 
dựng nên và nó tiếp tục bị biến đổi theo nhu cầu và tầm nhận thức của con ngƣời. 
Điều này lần nữa khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của nhiều tác giả Bắc 
Mỹ về sự hình thành CQNS. 
 139 
Seminar: 6 tiết (0- 0- 6) 
1. Qui luật địa đới và biểu hiện của qui luật ở Việt Nam. 
2. Qui luật phi địa đới và biểu hiện của qui luật ở Việt Nam. 
3. Các hợp phần và yếu tố cơ bản thành tạo cảnh quan Việt Nam. 
4. Phân tích các tác động của con ngƣời đến việc hình thành và phát 
triển cảnh quan hiện đại. 
5. Hệ thống các đơn vị phân vùng cảnh quan Việt Nam tỷ lệ 
1/1.000.000. 
6. Hệ thống các cấp phân vị, các chỉ tiêu phân loại áp dụng cho bản đồ 
cảnh quan Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000. 
7. Đặc điểm động lực của cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam. 
8. Phân tích các chức năng của cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam 
HƢỚNG DẪN 
1. Nội dung 
- Lớp Địa chia 3 nhóm thực hiện chủ đề 6, 7, 8. 
- Lớp MT chia 5 nhóm thực hiện chủ đề 1, 2, 3, 4, 5. 
2. Yêu cầu 
- Mỗi nhóm cử 1 nhóm trƣởng và chia các nội dung cụ thể cho từng thành viên (nộp 
bản phân công nhiệm vụ cho giáo viên). 
- Nội dung đánh máy bản Word (không quá 30 trang), đƣợc format theo mẫu của 
NCKH (nếu không sẽ trừ điểm). 
- Báo cáo bằng Power point: đẹp, khoa học và trình bày không quá 30 phút, bốc thăm 
trình bày. 
- Báo cáo trong 2 buổi của 2 tuần cuối tháng 4: 4 nhóm\buổi. 

File đính kèm:

  • pdfde_cuong_bai_giang_co_so_canh_quan_hoc_pham_thi_hong_nhung.pdf