Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam

Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the

development of enterprises in universities and its relationship with university governance

in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On

this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance

reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education.

pdf 14 trang yennguyen 2760
Bạn đang xem tài liệu "Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam

Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 
83 
Original Article 
Development of Enterprises in Universities 
and Policy Implications for University Governance 
Reforms in Vietnam 
Dinh Van Toan* 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Received 12 March 2019 
Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019 
Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the 
development of enterprises in universities and its relationship with university governance 
in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On 
this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance 
reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education. 
Keywords: Enterprises development in universities, university governance, university 
governance reform. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: dinhvantoan@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4201 
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 
84 
Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học và những 
gợi ý chính sách về đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam 
Đinh Văn Toàn* 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 12 tháng 3 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung phân tích, làm rõ lý luận về phát triển doanh nghiệp trong 
các trường đại học và mối quan hệ giữa phát triển doanh nghiệp với vấn đề quản trị đại 
học. Đồng thời, nghiên cứu cũng khảo sát thực trạng phát triển doanh nghiệp trong các 
trường đại học ở Việt Nam, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách nhằm đẩy nhanh tiến 
trình đổi mới quản trị đại học trong thời kỳ của giáo dục đại học 4.0 hiện nay. 
Từ khóa: Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học, quản trị đại học, đổi mới quản trị 
đại học. 
1. Giới thiệu * 
Phát triển doanh nghiệp (PTDN) trong các 
cơ sở giáo dục đại học, thường gọi là trường 
đại học (ĐH), liên quan đến nhiều nội dung 
cần bàn luận như: tổ chức và quản trị trong 
các đại học, khởi nghiệp và khởi nghiệp đổi 
mới sáng tạo, trong đó việc hình thành các 
doanh nghiệp mới là một kết quả quan trọng. 
Kể từ năm 2000 đến nay, mỗi năm bình quân 
Đại học Quốc gia Singapore (NUS) thành lập 
khoảng 5 doanh nghiệp. Ở một số trường đại 
học tại Mỹ như Viện Công nghệ 
Massachusetts (MIT), Đại học Standford và 
Đại học Harvard, con số các doanh nghiệp 
được thành lập còn cao hơn rất nhiều. 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: dinhvantoan@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4201 
Mô hình trường đại học hoạt động gắn với 
hợp tác, liên kết với bên ngoài và phát triển các 
hoạt động kinh doanh (đại học doanh nghiệp), 
hình thành doanh nghiệp trực thuộc trường 
cũng được đề cập và bàn luận trong một số 
nghiên cứu, điển hình như nghiên cứu của Trần 
Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch (2003) [1]. Trong 
thực tiễn, nhiều đại học trên thế giới áp dụng 
phương thức này trong tổ chức quản lý để tăng 
cường năng lực chuyển giao công nghệ và 
thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ 
(KHCN) ra thị trường. Ngày nay, phương thức 
hoạt động như trên thường gắn với các trường 
đại học được tổ chức, vận hành theo hướng thúc 
đẩy khởi nghiệp sáng tạo và mô hình quản trị 
đại học (QTĐH) tiên tiến. Yokoyama (2006) đã 
tổng kết các hình thức phát triển trường đại học 
tiến tới mô hình quản trị tiên tiến qua nhiều cấp 
độ với các đặc điểm tổ chức, điều hành ở một 
số trường đại học điển hình trên thế giới [2]. 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 85 
Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy các nhà hoạch 
định và nhà khoa học ngày càng quan tâm đến các 
hoạt động hợp tác, gắn kết với doanh nghiệp và 
đời sống xã hội để phục vụ cộng đồng của các 
trường đại học. Các hoạt động này liên quan trực 
tiếp đến PTDN, đổi mới mô hình tổ chức quản lý 
và tiến tới quản trị tiên tiến trong trường đại học. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây [3, 4] và thực 
tiễn cũng cho thấy các hoạt động này của các 
trường đại học còn có nhiều hạn chế và vướng 
mắc, hiệu quả hợp tác còn thấp, đổi mới công 
nghệ và thúc đẩy sáng tạo còn chậm, kết quả 
nghiên cứu khoa học (NCKH) ít được đưa vào 
ứng dụng thực tiễn. Điều này làm giảm hiệu quả 
đóng góp của các trường đại học cho nền kinh tế - 
xã hội, đồng thời làm chậm tiến trình đổi mới tổ 
chức và QTĐH. 
Thông qua nghiên cứu tổng quan lý thuyết 
về PTDN, bài viết phân tích sâu thêm sự liên hệ 
giữa hoạt động này với đổi mới tổ chức quản lý 
và quản trị trường đại học để đưa ra những gợi 
ý chính sách về đổi mới QTĐH. Các gợi ý này 
có thể gợi mở việc xây dựng chính sách, cải 
tiến cơ chế quản lý của cơ quan nhà nước đối 
với giáo dục đại học hiện đại phù hợp xu thế 
hội nhập, đồng thời góp phần đổi mới quản trị 
trường đại học theo hướng tăng cường tự chủ 
và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu của giáo 
dục đại học 4.0. 
2. Cơ sở lý luận 
PTDN được biết đến một cách rộng rãi như 
sự tổng hợp các vai trò, chức năng của doanh 
nhân gồm khả năng và mong muốn của các cá 
nhân trong hoặc ngoài tổ chức hiện có để nhận 
biết, tạo nên cơ hội kinh doanh mới (sản phẩm 
mới, phương pháp sản xuất mới, đề án tổ chức 
mới và sự kết hợp sản phẩm - thị trường mới) 
và giới thiệu những ý tưởng của họ tới thị 
trường. Theo Wennekers và Thurik (1999), các 
hoạt động này thường đối mặt với sự không 
chắc chắn và những trở ngại khác bằng sự quyết 
định hình thức, sử dụng các nguồn lực và tổ 
chức thực hiện [5]. Đối với các trường đại học, 
trong bối cảnh ngày càng có sự liên kết gần hơn 
với thị trường và doanh nghiệp, nhiều nghiên 
cứu đã chỉ ra những tác động của các liên kết 
này, tác động của tư duy “'doanh nghiệp”, 
phong cách quản lý “doanh nghiệp” (mô hình 
đại học doanh nghiệp) đối với các nguồn lực tài 
chính, tới việc ứng dụng các nguyên tắc của 
doanh nghiệp trong mô hình quản lý và điều 
hành trường đại học [6-11]. Các nghiên cứu 
trên cũng đã được các nhà khoa học như Han và 
Heshmati (2013), Trần Anh Tài (2010) tổng 
hợp [12-13] . 
Etzkowitz (2002) cũng sử dụng thuật ngữ 
phát triển “doanh nghiệp đại học” (University 
Entrepreneurship) để mô tả sự chuyển đổi quản 
trị cùng với hình thành doanh nghiệp trong 
trường đại học của MIT như kết quả của sự hợp 
tác và liên kết với các ngành công nghiệp tư 
nhân và các cơ quan chính phủ [7]. Clark 
(1998) đã khái niệm hóa việc tìm kiếm các 
phương pháp mới mà 5 trường đại học nghiên 
cứu của châu Âu đang tìm kiếm như sự 
“'chuyển đổi kinh doanh”' để giảm sự phụ thuộc 
nặng nề vào sự hỗ trợ và giám sát của chính phủ 
trong bối cảnh các tổ chức này cần sự chuyển 
đổi và đổi mới [6]. Có thể nói tinh thần kinh 
doanh, chuyển đổi kinh doanh hay đổi mới mô 
hình tổ chức, điều hành trong trường đại học là 
các tiền đề quan trọng cho PTDN trong trường 
đại học. Đây cũng là các nhân tố tự thân của các 
trường đại học trong tiến trình đổi mới quản trị 
theo hướng QTĐH tiên tiến. 
Yokoyama (2006) cho rằng các thuật ngữ 
như PTDN và “tinh thần kinh doanh” trong bối 
cảnh của các trường đại học không nhất thiết 
phải được hiểu với ý tưởng thu lợi nhuận và 
chấp nhận rủi ro, thậm chí là mang tính thương 
mại cao. Thay vào đó, nghiên cứu của 
Yokoyama (2006) tập trung vào thái độ của các 
trường đại học trong việc cố gắng tự chủ về 
chuyển giao công nghệ, tài chính hay nâng cao 
trách nhiệm của trường đại học và các nhà khoa 
học đối với xã hội nói chung. PTDN trong 
trường đại học dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế 
quản lý và điều hành. Do đó, 5 hình thức phát 
triển từ thấp đến cao của mô hình trường đại 
học mà Yokoyama đưa ra có thể coi như kết 
quả trực tiếp của quá trình PTDN và tinh thần 
kinh doanh trong các trường đại học tiến tới mô 
hình QTĐH tiên tiến (Bảng 1). 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 
86 
y 
Bảng 1 Các hình thức phát triển của trường đại học 
Mức Hình thức Đặc điểm chính trong cơ chế tổ chức điều hành 
1 
Thí điểm mẫu 
(Ví dụ: Đại học Tokyo) 
- Tăng sự tự quyết định của trường đại học 
- Sự ra đời của văn hóa doanh nghiệp 
- Xem xét lại vấn đề quản trị, quản lý, lãnh đạo và tài trợ nội bộ trong 
trường đại học 
- Thiết lập kế hoạch chiến lược 
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường trách nhiệm trong 
trường đại học 
2 
Trường đại học theo 
định hướng doanh 
nghiệp (Đại học 
Waseda) 
- Mở rộng hoạt động kinh doanh 
- Chính sách theo định hướng thị trường 
- Xung đột giữa các giá trị học thuật và kinh doanh 
- Sự ra đời của tinh thần quản lý trong các hoạt động 
3 
Trường đại học định 
hướng kinh doanh non 
trẻ (Đại học 
Nottingham Trent) 
- Phụ thuộc vào tài chính công 
- Tự nhận dạng là một trường đại học mang tinh thần kinh doanh 
- Đóng góp vào nền kinh tế địa phương 
4 
Trường đại học doanh 
nghiệp thích ứng 
(Đại học Surrey) 
- Thể chế tự quyết định 
- Thu nhập đáng kể từ tài trợ bên ngoài 
- Cơ cấu quản trị và cấu trúc quản lý theo định hướng thị trường 
- Tích hợp cơ cấu doanh nghiệp, kinh doanh và học thuật 
5 Hình thức lý tưởng 
- Tự chủ hoàn toàn và tự lực 
- Chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các tác nhân tham gia vào các 
hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng 
- Tích hợp văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp và văn hóa học thuật; 
văn hóa quản lý và phối hợp trong một tổ chức mà không có xung đột 
Nguồn: Yokoyama, 2006 [2].
Trường đại học theo định hướng mô hình 
QTĐH tiên tiến trước hết cần tiếp cận tinh thần 
kinh doanh và tăng cường hợp tác với doanh 
nghiệp. Sau đó, cần thay đổi phương thức tổ 
chức, quan tâm nhiều hơn đến quản lý, điều 
hành dựa trên hiệu quả các hoạt động. Cùng với 
các hoạt động mang tinh thần “kinh doanh” như 
vậy, việc thành lập các doanh nghiệp và sự hoạt 
động hiệu quả của các đơn vị dịch vụ hỗ trợ 
như văn phòng chuyển giao công nghệ (OTT) 
sẽ thúc đẩy chuyển giao tri thức từ các trường 
đại học tới doanh nghiệp [4]. Kết quả của các 
hoạt động và sự chuyển dịch này làm tăng tính 
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, là 
cơ sở vững chắc cho thành công của quản trị đại 
học tiên tiến. Các trường đại học có mô hình tổ 
chức và phương thức quản trị tiên tiến luôn lấy 
mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của người học và 
các bên liên quan thông qua việc triển khai có 
hiệu quả cao mọi hoạt động gắn với đổi mới 
sáng tạo. 
Kết quả nghiên cứu và khảo sát mang tính 
học thuật về mối liên hệ giữa PTDN trong 
trường đại học với các ngành công nghiệp và 
môi trường bên ngoài của Yusof và Jain (2010) 
cũng cho thấy vai trò cầu nối của các văn phòng 
chuyển giao công nghệ trong trường đại học là 
hết sức quan trọng [14]. Các trường đại học 
hoạt động theo mô hình QTĐH tiên tiến và sự 
hoạt động hiệu quả của các văn phòng này sẽ 
thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp mới. 
Tiến trình hình thành doanh nghiệp trong 
trường đại học cùng với sự phát triển kinh tế - 
xã hội, các ngành công nghiệp và cộng đồng 
kinh doanh sẽ có tác động lan tỏa và thúc đẩy 
hoàn thiện môi trường bên ngoài. PTDN trong 
đại học cần một môi trường bên ngoài phù hợp 
- hệ sinh thái (bao gồm mạng lưới sáng tạo). 
Ngược lại, một hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới sáng 
tạo xung quanh trường đại học lại thúc đẩy 
mạnh mẽ quá trình chuyển đổi sang mô hình 
QTĐH tiên tiến của nhà trường (Hình 1). 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 87 
Sự hình thành và hoạt động của các doanh 
nghiệp trong trường đại học có thể theo một số 
hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung có liên 
quan chặt chẽ với chu kỳ của nghiên cứu - thử 
nghiệm - chuyển giao - ứng dụng thực tiễn và 
thương mại hóa. Các doanh nghiệp được thành 
lập thường gặp trong các đại học nhằm thương 
mại hóa sản phẩm KHCN bắt nguồn từ các kết 
quả và ý tưởng nghiên cứu - được gọi là doanh 
nghiệp “Spin-off”. Đặc trưng của các doanh 
nghiệp này là được hình thành và nuôi dưỡng 
trong trường đại học cùng vai trò quan trọng 
của các nhà khoa học, nhà sáng chế với các ý 
tưởng sáng tạo. Mặt khác, doanh nghiệp trong 
trường đại học thường được phát triển từ các 
sản phẩm hay ý tưởng sáng tạo, thường gọi là 
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startups). Các 
doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và 
nhỏ để đối phó với nguy cơ rủi ro cao. Do vậy, 
startups là nét đặc trưng vốn có của các trường 
đại học trong thời đại ngày nay, bởi lẽ bản thân 
các trường đại học là môi trường lý tưởng cho 
phát triển khởi nghiệp gắn với đổi mới, sáng 
tạo [15]. 
Thuật ngữ PTDN cũng đã được áp dụng để 
nghiên cứu và giải quyết cụ thể đối với các hoạt 
động theo định hướng thị trường xảy ra trong 
giáo dục đại học hiện đại. Phân tích các hoạt 
động chuyển giao công nghệ của các trường đại 
học và các kết quả liên quan đến PTDN, các 
học giả như: Bercovitz và Feldman (2006), 
Bercovitz và cộng sự (2001), Feldman và cộng 
sự (2002), Owen-Smith (2005), Owen-Smith và 
Powell (2003), Colyvas và Powell (2007) đã 
xác định các hoạt động hướng ra thị trường bao 
gồm việc tạo ra các startups phục vụ đời sống 
xã hội là điển hình của PTDN trong trường đại 
học [17-22]. Bên cạnh đó, các hành vi và hoạt 
động của sinh viên theo định hướng thị trường 
và vai trò của sinh viên khởi nghiệp kinh doanh 
hay “doanh nhân sinh viên” được nhà nước bảo 
trợ đôi khi cũng được coi là phát triển tinh thần 
kinh doanh và PTDN trong đại học [23]. 
Ngoài mục tiêu lợi nhuận, phát triển kinh 
doanh và hình thành doanh nghiệp trong trường 
đại học có điểm khác biệt so với các doanh 
nghiệp và doanh nhân ở mục tiêu chuyển giao 
tri thức, chuyển giao công nghệ và ý tưởng mới 
ra thị trường. Đặc biệt, nó góp phần hoàn thiện 
mô hình tổ chức và điều hành theo hướng đổi 
mới QTĐH. Theo Bercovitz và Feldman 
(2002), các hoạt động PTDN trong trường đại 
học góp phần tích cực cho phát triển kinh tế tri 
thức và đóng góp cho tiến bộ xã hội [19]. Do 
vậy, các quốc gia thường có những chính sách 
hỗ trợ và thúc đẩy sự ra đời và phát triển của 
các doanh nghiệp trong trường đại học, đồng 
thời tạo môi trường đổi mới và chuyển dịch 
sang mô hình QTĐH tiên tiến. 
3. Phát triển doanh nghiệp trong đại học ở 
một số quốc gia tiêu biểu 
PTDN trong các trường đại học đã khá phổ 
biến trong nhiều thập niên qua trên thế giới. 
Gần đây nhất, một quốc gia mới nổi lên ở châu 
Á thành công nhất phải kể tới là Singapore. Sự 
chuyển đổi NUS sang mô hình QTĐH tiên tiến, 
gắn với PTDN và đổi mới sáng tạo được bắt 
đầu từ cuối thập niên 1990 khi quyết định thành 
lập doanh nghiệp đầu tiên trong đại học. Trong 
thời kỳ đầu, NUS thành lập văn phòng cấp phép 
về công nghệ. Văn phòng này không quá chú ý 
đến mục tiêu lợi nhuận cấp phép mà chú trọng 
mở rộng quan hệ, quảng bá các kết quả công 
nghệ của NUS trên thị trường bằng cách ưu tiên 
cấp bản quyền sáng chế cho các doanh nghiệp 
mới được thành lập. Bên cạnh đó, NUS cung 
cấp các thiết b ... với 
cách quản lý kiểu hành chính vẫn hiện diện chủ 
yếu. Điều này là do vẫn còn quá nhiều các quy 
định, cơ chế quản lý ở tầm quốc gia, địa 
phương, các Bộ, ngành mang tính hành chính 
mà CSGDĐH phải tuân thủ. Quan niệm trường 
đại học là nơi tụ hội các tư tưởng học thuật 
dường như mới chỉ dừng ở mức độ mong muốn 
của giới học thuật. Quản lý hành chính và thủ 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 93 
tục theo hệ thống cấp bậc làm hạn chế các liên 
kết theo chuyên môn, ít nhấn mạnh vai trò của 
đội ngũ học thuật, giảng viên và người học mà 
dành quyền lực cho các bộ phận quản lý điều 
hành và phục vụ. Như vậy, khi chưa xây dựng 
được một văn hóa học thuật đúng nghĩa, chưa 
có cơ cấu tổ chức và quản lý, vận hành theo 
kiểu doanh nghiệp thì khó có thể xây dựng 
được trường đại học định hướng đổi mới sáng 
tạo và áp dụng QTĐH tiên tiến. 
Đổi mới tổ chức, quản lý và PTDN trong 
trường đại học 
Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, 
PTDN cùng với quá trình chuyển đổi mô hình 
tổ chức và áp dụng quản trị tiên tiến trong các 
trường đại học luôn đi song hành với sự thay 
đổi của nhà trường trong quản lý điều hành: từ 
chương trình đào tạo và nghiên cứu khoa học 
theo hướng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tăng 
khả năng thương mại hóa sản phẩm khoa học và 
công nghệ. Những thay đổi này còn nhằm gỡ bỏ 
các rào cản, tăng quyền chủ động, tự chủ và tự 
chịu trách nhiệm của các đơn vị nghiên cứu, các 
khoa; xây dựng môi trường dân chủ và tôn 
trọng tự do học thuật thông qua sự đóng góp 
của giảng viên, người học cũng như các bên 
liên quan. Cùng với chiến lược đúng đắn, các 
chính sách cởi mở, cơ cấu tổ chức quản lý và 
điều hành theo hướng hiệu quả, quy trình ra 
quyết định linh động để đáp ứng kịp thời nhu 
cầu các bên liên quan, các trường đại học sẽ 
thực sự từ bỏ mô hình “đơn vị sự nghiệp”, cùng 
với nó là cơ chế “hành chính” trong điều hành. 
Bên cạnh đó, một trong những yêu cầu cấp 
thiết đối với các CSGDĐH trong thời gian tới 
là: cần gắn bó hơn với các doanh nghiệp và nhà 
đầu tư để thúc đẩy khởi nghiệp; quan tâm hơn 
đến quản trị chia sẻ và thúc đẩy mạnh mẽ 
thương mại hóa các kết quả nghiên cứu KHCN; 
ban hành chính sách và xây dựng cơ chế 
khuyến khích sự hợp tác giữa các nhà khoa học, 
giảng viên và doanh nghiệp ngay ở giai đoạn 
đầu của nghiên cứu thử nghiệm, sớm hình thành 
các doanh nghiệp học thuật và phát triển thành 
các doanh nghiệp Spin-off. Các trường đại học 
có năng lực nghiên cứu cần thành lập sớm các 
đơn vị chuyên trách kết nối với doanh nghiệp, 
các đối tác như: văn phòng cấp phép sở hữu trí 
tuệ và chuyển giao công nghệ; vườn ươm công 
nghệ và hỗ trợ khởi nghiệp. Đặc biệt, các 
trường đại học cần có các giải pháp tạo động 
lực, hỗ trợ nhà khoa học, giảng viên phát huy 
tinh thần chủ động, khởi nghiệp sáng tạo, xây 
dựng quy trình thành lập doanh nghiệp khởi 
nghiệp và các hoạt động kinh doanh theo hướng 
dễ tiếp cận và triển khai. 
Về mô hình doanh nghiệp, trong khi Chính 
phủ và các Bộ chưa hoàn thiện đồng bộ các cơ 
chế và chính sách như ở các quốc gia tiêu biểu 
khác, các trường đại học cần xem xét thành lập 
các doanh nghiệp theo mô hình công ty mà 
trường sở hữu toàn bộ hay một phần có chức 
năng khai thác các kết quả nghiên cứu, cung 
cấp dịch vụ và triển khai các ý tưởng kinh 
doanh. Để phù hợp với quy định hiện hành của 
Luật Phòng chống tham nhũng và Luật Doanh 
nghiệp (2014), hệ thống các doanh nghiệp trong 
trường đại học được khuyến cáo có thể chia 
thành 2 cấp: (1) Công ty mẹ trực thuộc trường 
đại học với mô hình TNHH, chịu sự kiểm soát 
của trường đại học thông qua vốn góp, tài sản 
và nhân sự chủ chốt; (2) Nhóm các công ty con 
và một số công ty vệ tinh, liên kết với công ty 
mẹ có thể theo mô hình công ty cổ phần để đa 
dạng hóa trong kêu gọi vốn đầu tư. Tại các đại 
học quốc gia, đại học vùng (đại học 2 cấp), 
ngoài doanh nghiệp trực thuộc đại học, các 
trường đại học, viện nghiên cứu thành viên có 
thể thành lập các doanh nghiệp theo mô hình 
TNHH trực thuộc hoặc công ty cổ phần như 
một đơn vị liên kết với các doanh nghiệp khác 
nhằm khai thác lợi ích từ việc thương mại hóa 
các kết quả nghiên cứu và chuyển giao 
công nghệ. 
Kiến nghị đối với Nhà nước và chính 
quyền các cấp 
Bên cạnh sự đổi mới tự thân của trường đại 
học, quản lý giáo dục nói chung và QTĐH nói 
riêng còn phụ thuộc rất lớn vào vai trò quan 
trọng của Nhà nước và chính quyền các cấp từ 
Trung ương đến địa phương. Trong thực tiễn 
đòi hỏi của giáo dục đại học 4.0 ở Việt Nam 
hiện nay, để có môi trường gắn với mạng lưới 
sáng tạo, thúc đẩy và hỗ trợ PTDN và đổi mới 
quản trị trong các trường đại học theo hướng 
tiên tiến, các bên gồm Chính phủ, Bộ Giáo dục 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 
94 
và Đào tạo và các Bộ, ngành, chính quyền địa 
phương với vai trò là cơ quan chủ quản của các 
trường đại học cần giải quyết một số vấn đề cấp 
bách sau đây: 
- Để có sự đồng bộ về chính sách hỗ trợ, 
Chính phủ cần sớm có Nghị định và văn bản 
hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học. 
Trong đó, cần có quy định rõ về việc thành lập 
doanh nghiệp trong đại học theo hướng ưu tiên 
và hỗ trợ đặc biệt cho các công ty ở giai đoạn 
thử nghiệm (có thể hợp tác với tư nhân, doanh 
nghiệp ngoài đại học) hoặc mô hình ươm tạo, 
trong đó xem xét điều chỉnh việc tham gia của 
cán bộ, giảng nhà trường vào quản lý, điều hành 
doanh nghiệp cho phù hợp; Có cơ chế tài chính 
riêng, phù hợp với các doanh nghiệp khởi 
nghiệp và vườn ươm công nghệ trong trường 
đại học để khuyến khích ứng dụng và thương 
mại hóa các kết quả nghiên cứu. 
- Các bộ luật như Đầu tư nước ngoài, Phòng 
chống tham nhũng, Sở hữu trí tuệ và các quy 
định về công chức, viên chức cần sớm được sửa 
đổi một cách đồng bộ để hoàn thiện một hệ sinh 
thái khởi nghiệp. Trong hệ thống pháp luật cần 
cho phép các giảng viên, nhà khoa học thuộc 
đối tượng công chức, viên chức được thành lập 
và trực tiếp tham gia quản lý, điều hành doanh 
nghiệp trên cơ sở kết quả nghiên cứu. Trường 
hợp của các quốc gia như Brazil, Nhật Bản và 
Singapore là những ví dụ điển hình cho thấy chỉ 
khi Chính phủ gỡ bỏ những rào cản về chính 
sách, cho phép các trường đại học được đầu tư 
vào các dự án với các doanh nghiệp bên ngoài 
thì các hoạt động PTDN và đổi mới QTĐH mới 
được thúc đẩy mạnh mẽ và mang lại kết quả 
tích cực. 
- Với mục tiêu thúc đẩy nhanh sự phát triển 
của thị trường công nghệ, tạo thuận lợi cho trao 
đổi tri thức và công nghệ, Chính phủ cần ban 
hành chính sách cụ thể về bản quyền, cấp phép 
và chuyển giao công nghệ giữa các bên. Chính 
sách này cần thể hiện mạnh mẽ tính hỗ trợ, tạo 
điều kiện đặc biệt cho sự hợp tác giữa các bên 
trong chuyển giao công nghệ từ nhà trường cho 
doanh nghiệp và thương mại hóa phục vụ 
xã hội. 
- Chính sách về giao đất và cơ chế rõ ràng 
về định giá quyền sử dụng đất, tài sản trí tuệ, 
thương hiệu của các trường đại học cũng như 
cơ chế phối hợp giữa ba bên: Chính phủ (Trung 
ương và địa phương) - các trường đại học - 
doanh nghiệp hay hợp tác công - tư trong đầu tư 
và kinh doanh, thành lập các loại doanh nghiệp 
cần được xây dựng và công bố. 
Đối với các cơ quan chủ quản của các 
trường đại học: 
- Cần đổi mới mạnh mẽ chính sách và cơ 
chế quản lý giáo dục đại học theo hướng trao 
quyền tự trị, tự chủ cho các trường đại học, xóa 
bỏ chế độ cơ quan chủ quản, đồng thời đề xuất 
với Chính phủ hoàn thiện các văn bản pháp quy 
để thúc đẩy nhanh các tiến trình này theo hướng 
trao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình 
và trách nhiệm xã hội của các CSGDĐH. 
- Cần có các chế tài quy định việc chuyển 
giao, thương mại hóa đề tài/dự án có tính thực 
tiễn cao của các nhà khoa học trong trường đại 
học gắn với các doanh nghiệp hoặc thành lập 
doanh nghiệp trong các trường đại học để 
thương mại hóa các kết quả. Đồng thời, giao 
quyền quyết định cho các hiệu trưởng, các giám 
đốc đại học trong quyết định thành lập doanh 
nghiệp và góp vốn, sử dụng tài sản công, đất đai 
trong góp vốn cổ phần và tổ chức sản xuất, 
kinh doanh. 
5. Kết luận 
Hình thành và PTDN trong trường đại học 
cùng với đổi mới tổ chức và quản lý trường đại 
học luôn phù hợp với xu thế tự chủ đại học và 
QTĐH tiên tiến. Đặc biệt, các hoạt động này 
ngày càng có vai trò quan trọng trong chia sẻ tri 
thức, chia sẻ nguồn lực giữa các trường đại học 
với doanh nghiệp và xã hội, phục vụ cộng đồng. 
PTDN trong trường đại học cần được hiểu 
không chỉ bao gồm việc hình thành doanh 
nghiệp mới và hỗ trợ phát triển kinh doanh, hợp 
tác với các ngành công nghiệp để thương mại 
hóa sản phẩm KHCN, mà còn là một quá trình 
chuyển đổi tư duy trong các trường đại học để 
tạo lập môi trường đổi mới, sáng tạo. 
Trong quá trình chuyển đổi và phát triển, 
các trường đại học cần được giải phóng các 
nguồn lực cũng như tiềm năng của mình để 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 95 
mang lại nguồn lợi từ đổi mới, sáng tạo. Do 
vậy, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương 
các cấp chủ quản trường đại học luôn phải đóng 
vai trò “bà đỡ” tạo khung khổ pháp lý và các cơ 
chế hỗ trợ, xúc tác để các trường thực hiện 
được sứ mệnh trên. Mối liên kết giữa ba bên 
trong mô hình xoắn sẽ mang lại sự phát triển 
bền vững. Cũng thông qua các hợp tác, PTDN 
trong trường đại học được thúc đẩy, trực tiếp 
góp phần vào thành công trong đổi mới QTĐH 
và phát triển bền vững của các trường đại học ở 
Việt Nam. Các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada 
và một số nước tiêu biểu ở khu vực châu Á như 
Nhật Bản, Singapore đã gặt hái nhiều thành 
công từ đổi mới chính sách và sự hợp tác này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trần Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch, Mô hình đại 
học doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý 
cho Việt Nam, Tái bản lần thứ nhất, NXB Khoa 
học Xã hội, 2003. 
[2] K. Yokoyama, “Entrepreneurialism in Japanese 
and UK Universities: Governance, Management, 
Leadership and Funding”, Higher Education. 52 
(2006) 523. https://doi.org/10.1007/s10734-005-
1168-2. 
[3] Dinh Van Toan, “University - Enterprise 
Cooperation in International Context and 
Implications for Vietnam”, Vietnam Economic 
Review. No. 7 (2017) 275. 
[4] Dinh Van Toan, Hoang Van Hai, Nguyen Phuong 
Mai, “The Role of Entrepreneurship Development 
in Universities to Promote Knowledge Sharing: 
The Case of Vietnam National University, 
Hanoi”, Asia Pacific Conference on Information 
Management 2016: Common Platform to A 
Sustainable Society In The Dynamic Asia Pacific, 
Hanoi, 2016. 
[5] S. Wennekers, R. Thurik, “Linking 
Entrepreneurship and Economic Growth”, Small 
Business Economics. 13 (1999) 27. 
https://doi.org/10.1023/A:1008063200484. 
[6] B.R. Clark, Creating Entrepreneurial Universities: 
Organizational Pathways of Transformation, 
Oxford: IAU Press and Pergamon, 1998. 
[7] H. Etzkowitz, MIT and The Rise of 
Entrepreneurial Science, Routledge, New York, 
2002. https://doi.org/10.4324/9780203216675. 
[8] R.L. Geiger, Knowledge and Money: Research 
Universities and the Paradox of the Marketplace, 
Stanford University Press, 2004. 
[9] S. Slaughter, L. Leslie, Academic Capitalism: 
Politics, Policies and The Entrepreneurial 
University, John Hopkins University Press, 
Baltimore, 1997. 
[10] S. Slaughter, G. Rhoades, Academic Capitalism 
and The New Economy: Markets, State and 
Higher Education, John Hopkins University Press, 
Baltimore, 2004. 
[11] J. Washburn, University Inc: The Corporate 
Corruption of Higher Education, Stanford 
University Press, 2005. 
[12] J. Han, A. Heshmati, “Determinants of Financial 
Rewards from Industry-University 
Collaboration in South Korea”, IZA Discussion 
Paper. No. 7695 (2013). 
[13] Trần Anh Tài, “Liên kết nhà trường và doanh 
nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu 
khoa học - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt 
Nam”, Đề tài cấp ĐHQG, 2009-2010, 2010. 
[14] M. Yusof, K.K. Jain, “Categories of University-
level entrepreneurship: A literature survey”, Int. 
Entrep, Manag, J. 6 (2010) 81-96. DOI 
10.1007/s11365-007-0072-x. 
[15] Dinh Van Toan, “Promoting university startups’ 
development: International experiences and policy 
recommendations for Vietnam”, Vietnam’s Socio-
Economic Development. Vol. 22, No. 90, 7 
(2017) 19-42. 
[16] F.T. Rothaermel, S.D. Agung, L. Jiang, 
“University entrepreneurship: A taxonomy of the 
literature”, Industrialand Corporate Change. 
Volume 16, Number 4, Oxford University Press 
(2007) 691-791. 
[17] J. Bercovitz, M. Feldman, “Entrepreneurial 
Universities and Technology Transfer: A 
Conceptual Framework for Understanding 
Knowledge Based Economic Development”, The 
Journal of Technology Transfer. 31 (2006) 175. 
https://doi.org/10.1007/s10961-005-5029-z 
[18] J. Bercovitz et al., “Organizational Structure as a 
Determinant of Academic Patent and Licensing 
Behavior: An Exploratory Study of Duke, John 
Hopkins, and Pennsylvania State Universities”, 
The Journal of Technology Transfer. 26 (2001) 
21. https://doi.org/10.1023/A:1007828026904 
[19] M. Feldman, J. Bercovitz, R. Burton “Equity and 
The Technology Strategies of American Research 
Universities”, Management Science. 48 (2002) 
105-121. 
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 
96 
[20] J. Owen-Smith, “Trends and transitions in the 
institutional environment for public and private 
science”, Higher Education. 49 (2005) 91-117. 
[21] J. Owen-Smith, W.W. Powell, “The Expanding 
Role of University Patenting in the Life Sciences: 
Assessing The Importance of Experience and 
Connectivity”, Research Policy. 32 (2003) 
1695-1711. 
[22] J.A. Colyvas, W.W. Powell, “From Vulnerable to 
Venerated: The Institutionalization of Academic 
Entrepreneurship in The Life Science”, in Martin 
Ruef, Michael Lounsbury (ed.), The Sociology of 
Entrepreneurship (Research in the Sociology of 
Organizations, Emerald Group Publishing 
Limited. Volume 25 (2007) 219-259. 
[23] C. Luthje, N. Franke, “Fostering entrepreneurship 
through university education and training: Lessons 
from Massachusetts Institute of Techolology”, 
European Academy of Management, 2nd Annual 
Conference on Innovative Research in Management, 
Stockholm, 2002. 
[24] G. Dalmarco, W. Hulsink, “Creating 
entrepreneurial university in an emerging country: 
Evidence from Brazil”, Technological Forecasting 
and Social Change. (2018). DOI: 
10.1016/j.techfore.2018.04.015. 
[25] Đinh Văn Toàn, “PTDN trong đại học: Kinh 
nghiệm trên thế giới và gợi ý chính sách cho Việt 
Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo. số 33, 12 
(2018) 58-60. 
[26] Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Hữu Thành Chung, 
Nghiêm Xuân Huy, Mai Thị Quỳnh Lan, Trần Thị 
Bích Liễu, Hà Quang Thụy, Nguyễn Lộc, “Tiếp cận 
giáo dục đại học 4.0 - Các đặc trưng và tiêu chí 
đánh giá”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên 
cứu Chính sách và Quản lý. 34 (2018) 1-28. 
DOI: https://doi.org/10.25073/25881116/vnupam.4160 
Ư 
ư 

File đính kèm:

  • pdfdevelopment_of_enterprises_in_universities_and_policy_implic.pdf