Ensuring justice for people with intellectual disabilities in criminal procedure

Abstract: This paper analyzes the conditions for guaranteeing justice for people with

intellectual disabilities. The paper argues that justice is a highly generalized category,

reflecting the combined value system, relating to social morality, politics, law and the

operation of the state apparatus. A person who wants access to justice must understand and

wholly apply such factors as the legal system and law enforcement institutions. Yet, people

with intellectual disabilities are those with special cognitive disabilities, making it difficult

for them to understand and apply the stated factors. This requires that, people with intellectual

disabilities, in addition to their own efforts, need support from the state, society and family to

ensure their access to justice. Access to justice is a very important right of people with

disabilities. Thus, ensuring access to justice in criminal proceedings is to ensure the rights,

benefits, and dignity of this vulnerable group of people in society

pdf 10 trang yennguyen 3500
Bạn đang xem tài liệu "Ensuring justice for people with intellectual disabilities in criminal procedure", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ensuring justice for people with intellectual disabilities in criminal procedure

Ensuring justice for people with intellectual disabilities in criminal procedure
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 
44 
Review Article 
Ensuring Justice for People with Intellectual Disabilities 
in Criminal Procedure 
Vu Cong Giao1,*, Hoang Thi Bich Ngoc2 
1School of Law, Vietnam National University Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2Hanoi University of Procuracy, Duong Noi Ward, Ha Dong District, Hanoi, Vietnam 
Received 17 April 2019 
Revised 21 May 2019; Accepted 20 June 2019 
Abstract: This paper analyzes the conditions for guaranteeing justice for people with 
intellectual disabilities. The paper argues that justice is a highly generalized category, 
reflecting the combined value system, relating to social morality, politics, law and the 
operation of the state apparatus. A person who wants access to justice must understand and 
wholly apply such factors as the legal system and law enforcement institutions. Yet, people 
with intellectual disabilities are those with special cognitive disabilities, making it difficult 
for them to understand and apply the stated factors. This requires that, people with intellectual 
disabilities, in addition to their own efforts, need support from the state, society and family to 
ensure their access to justice. Access to justice is a very important right of people with 
disabilities. Thus, ensuring access to justice in criminal proceedings is to ensure the rights, 
benefits, and dignity of this vulnerable group of people in society. 
Keywords: Disable, intellectual disabilities, justice, criminal proceedings. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: giaovnu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4193 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 
45 
Vấn đề bảo đảm công lí cho người khuyết tật 
về trí tuệ trong tố tụng hình sự 
Vũ Công Giao1,*, Hoàng Thị Bích Ngọc2 
1Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Phường Dương Nội, Quận Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 17 tháng 04 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Bài viết phân tích những điều kiện bảo đảm công lí cho người khuyết tật về trí tuệ trong 
tố tụng hình sự. Theo các tác giả, công lí là một phạm trù có tính khái quát cao, phản ánh hệ giá trị 
tổng hợp, liên quan đến đạo đức xã hội, nền chính trị, pháp luật và hoạt động của bộ máy nhà 
nước. Một người muốn tiếp cận được công lí thì phải hiểu và vận dụng được tổng thể các yếu tố 
như: hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật. Trong khi đó, người khuyết tật về trí 
tuệ là những cá nhân có những khiếm khuyết đặc biệt về mặt nhận thức, khiến cho họ khó có thể 
hiểu và vận dụng được những yếu tố đã nêu. Điều này đòi hỏi ngoài sự cố gắng của bản thân, họ 
cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước, xã hội và gia đình mới bảo đảm được quyền tiếp cận công lí 
của mình. Tiếp cận công lí là quyền có ý nghĩa hết sức quan trọng với của người khuyết tật. Việc 
đảm bảo công lí trong tố tụng hình sự chính là bảo đảm các quyền, lợi ích, giá trị nhân phẩm của 
họ với tính cách là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. 
Từ khóa: Khuyết tật, người khuyết tật trí tuệ, công lí, tố tụng hình sự. 
1. Khái niệm “công lí”, “khuyết tật”, “người 
khuyết tật thiểu năng trí tuệ”* 
1.1. Khái niệm công lí 
“Công lí” (justice) là khái niệm đã được 
nhiều nhà tư tưởng trên thế giới đề cập và thảo 
luận trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: giaovnu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4193 
Khái niệm công lí được xác định dựa trên nhiều 
khía cạnh, góc độ tiếp cận, thể hiện những khác 
biệt giữa các nền văn hóa, giữa các thời điểm 
lịch sử khác nhau. Thời nay, quan điểm nổi bật 
về công lí là của nhà triết học chính trị hàng đầu 
của Mỹ J. Rawls. Ông coi ‘công lí như là sự 
công bằng’ (justice as fairness). Như vậy, để 
bảo đảm công bằng, tương tự như quyền con 
người, công lí phải được quy định bằng pháp 
luật và phải được bảo đảm thực hiện thông qua 
hệ thống tư pháp, mà cụ thể là tòa án. 
Bảo đảm công lí là nền tảng cho một xã hội 
trật tự, an toàn, ổn định, văn minh, hạnh phúc 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 46 
và thịnh vượng. Từ góc độ chính trị học, công lí 
chính là một tiêu chí quan trọng để đánh giá 
tính ưu việt của một chế độ xã hội. Tính chính 
đáng, chính nghĩa của sự xuất hiện, tồn tại của 
một chính quyền thường được đánh giá thông 
qua việc chính quyền đó có thừa nhận, bảo vệ 
và bảo đảm công lí trong thực thi quyền lực nhà 
nước hay không. Từ góc độ khác, công lí là giá 
trị, phẩm hạnh giữ cho các thành viên trong xã 
hội gắn kết chặt chẽ với nhau vì lợi ích chung 
của toàn thể cộng đồng. Để đảm bảo sự ổn định 
và phát triển của cộng đồng, những đức hạnh 
như sự công bằng, liêm chính và tử tế cần phải 
được xem là nền tảng và phải được lan tỏa sâu 
rộng trong xã hội. 
Về khía cạnh ngôn ngữ, khái niệm công lí 
cũng đã xuất hiện trong một số từ điển trong và 
ngoài nước. Ví dụ, ở nước ngoài, trong cuốn từ 
điển Luật Black (Black Law Dictionary), công 
lí được định nghĩa là “sự công bằng và hợp lí, 
với ba ý niệm cơ bản: sự nhấn mạnh về tầm 
quan trọng cá nhân, yêu cầu các cá nhân phải 
được đối xử một cách phù hợp, không thiên vị 
và bình đẳng” [1]. Ở Việt Nam, trong một số 
cuốn Từ điển Tiếng Việt, công lí cũng đã được 
giải thích như là “Công lí là lẽ phải, lẽ công 
bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không 
thiên lệch, không tư vị. Chế độ nào cũng coi tòa 
án là tượng trưng cho công lí, là cơ quan công 
lí của chế độ ấy” [2], “Công lí là sự nhận biết 
đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các quyền 
lợi ích chính đáng của mọi người” [3]. 
Ở Việt Nam, công lí và bảo vệ công lí được 
xác định là một trong những mục tiêu cơ bản 
của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 
(Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 
năm 2005 của Bộ Chính trị). Cụ thể, Chiến lược 
này đã nêu rõ, cần: “Xây dựng nền tư pháp 
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, 
bảo vệ công lí, từng bước hiện đại, phục vụ 
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là 
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và 
hiệu lực cao”. Cùng với đó, trong Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng 
Cộng sản Việt Nam đã đề ra những biện pháp 
nhằm đảm bảo cơ sở chính trị cho hoạt động cải 
cách tư pháp, để từ đó xây dựng cơ quan tư 
pháp thật sự là chỗ dựa vững chắc trong hoạt 
động bảo vệ công lí và quyền con người. Cụ 
thể, về mục đích và lộ trình thực hiện, Văn kiện 
xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện 
Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư 
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm 
minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, 
công lí, quyền con người, quyền công dân, bảo 
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà 
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, 
tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm 
quyền quản lí hành chính với trách nhiệm, 
quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của 
các cơ quan tư pháp” [4]. Như vậy, khái niệm 
công lí trong Chiến lược cải cách tư pháp và 
Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt 
Nam mang tính chất là một phạm trù gắn với 
lĩnh vực tư pháp, thể hiện qua việc xét xử bằng 
các thủ tục công bằng, hợp pháp, nhằm bảo vệ 
các quyền con người trong hoạt động tố tụng. 
Nói tóm lại, mặc dù có những quan niệm 
khác nhau, nhưng xét tổng quát, công lí có thể 
được hiểu là việc bảo đảm sự công bằng, bình 
đẳng giữa con người với con người. Công lí gắn 
liền với việc bảo đảm danh dự, nhân phẩm, các 
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, 
ngăn ngừa những hành xử tuỳ tiện, bạo ngược 
của các chủ thể trong xã hội, kể cả các cơ quan, 
viên chức nhà nước. Đây là một phạm trù đa 
diện, vừa mang tính pháp lí, vừa mang tính xã 
hội, đạo đức. 
1.2. Khái niệm “khuyết tật” 
Theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới 
(The World Health Organisation - WHO) có ba 
mức độ suy giảm khả năng là: khiếm khuyết 
(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật 
(handicap). Trong đó, khái niệm khiếm 
khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình 
thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lí 
hoặc/và sinh lí; khái niệm khuyết tật chỉ đến sự 
giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của 
sự khiếm khuyết; còn khái niệm tàn tật đề cập 
đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người 
mang khiếm khuyết do tác động của môi trường 
xung quanh lên cuộc sống của họ [5]. 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 47 
Công ước về quyền của người khuyết tật do 
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào năm 
2007 nêu định nghĩa người khuyết tật ở Điều 1, 
là “những người có khiếm khuyết lâu dài về thể 
chất, tâm thần, trí tuệ, hay giác quan mà khi 
tương tác với nhiều rào cản khác nhau thì dẫn 
tới việc gây trở ngại cho sự tham gia đầy đủ và 
hiệu quả của họ trong xã hội trên cơ sở bình 
đẳng với những người khác”. Đây là định nghĩa 
mang tính pháp lí quốc tế đầu tiên về “người 
khuyết tật”, vì vậy có ý nghĩa to lớn trong việc 
thống nhất những hành động và nỗ lực bảo vệ 
các quyền của người khuyết tật trên thế giới. 
Ở cấp độ quốc gia, pháp luật của một số 
nước cũng đã nêu định nghĩa về “người khuyết 
tật” mà chia sẻ những thuộc tính cơ bản trong 
định nghĩa nêu trên. Cụ thể, theo Đạo luật 
chống phân biệt đối xử với người khuyết tật của 
Vương quốc Anh (Disability Discrimination 
Act, 2010), người khuyết tật được hiểu là cá 
nhân có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể 
chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra sự suy 
giảm đến khả năng thực hiện các hoạt động, 
sinh hoạt hằng ngày một cách đáng kể và kéo 
dài. Theo đạo luật này, xét về mặt thời gian tác 
động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể 
kéo dài phải từ 12 tháng trở lên (dưới 12 tháng 
thì thường không được xem là khuyết tật, trừ 
khi bị tái đi tái lại). Trong Đạo luật về người 
khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (Americans 
with Disablities Act of 1990) người khuyết tật 
được định nghĩa là cá nhân có sự suy yếu về 
thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể 
đến một hay nhiều hoạt động quan trọng 
trong cuộc sống. Còn ở Việt Nam, Luật về 
người khuyết tật năm 2010 định nghĩa ở 
khoản 1 Điều 2, trong đó: “Người khuyết tật 
là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ 
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được 
biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, 
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. 
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể 
thấy khuyết tật là một hiện tượng phức tạp và 
có biểu hiện rất đa dạng. Khái niệm này phản 
ánh sự suy giảm về khả năng tương tác xã hội 
của một cá nhân mà xuất phát từ những vấn đề 
bất ổn nảy sinh trong chức năng của cơ thể của 
cá nhân đó. Về mặt hình thức, những biểu hiện 
và nhận thức về sự khuyết tật mang tính tương 
đồng ở các quốc gia, tuy nhiên việc đối xử với 
người khuyết tật có sự khác biệt nhất định giữa 
các xã hội, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là 
về kinh tế, xã hội, văn hoá. 
1.3. Khái niệm người khuyết tật về trí tuệ 
Trong tiếng Anh, ‘thiểu năng trí tuệ’ (hay 
‘khuyết tật về trí tuệ’) được thể hiện qua nhiều 
cụm từ có nội hàm tương tự nhau, ví dụ như 
‘intellectual disability’, ‘general learning 
disability’ hoặc ‘mental retardation’ Cụm từ 
general mental disability được sử dụng chủ yếu 
ở Vương quốc Anh [6], trong khi ở Hoa Kỳ và 
các văn kiện quốc tế hay trong các tài liệu học 
thuật của các học giả trên thế giới thường sử 
dụng cụm từ mental retardation. Tương ứng 
với cụm từ này là cụm từ mental retarded 
persons [7] (‘người thiểu năng trí tuệ’ hay 
‘người khuyết tật về trí tuệ’). 
Tình trạng thiểu năng trí tuệ được xác định 
trong Sách Trắng về Chăm sóc sức khỏe và xã 
hội với người thiểu năng trí tuệ ở Anh [8] qua 
ba tiêu chí như sau: (1) khả năng trí tuệ thấp 
(thường có chỉ số IQ thấp hơn 70 [9]); (2) suy 
giảm khả năng thích ứng xã hội; và (3) phát 
hiện thiểu năng trí tuệ từ lúc còn nhỏ. Như vậy, 
việc xác định một người có bị thiểu năng trí tuệ 
hay không phải xem xét sự hạn chế của người 
đó thông qua hai khía cạnh về năng lực, đó là 
khả năng nhận thức (khả năng học tập, đưa ra 
các quyết định và giải quyết các vấn đề,) và 
khả năng thích ứng (những kĩ năng cần thiết 
trong cuộc sống hằng ngày như là giao tiếp, 
tương tác và quan tâm tới người khác). 
Thiểu năng trí tuệ được phân chia thành hai 
dạng là hội chứng thiểu năng trí tuệ có biểu 
hiện rõ ràng (ví dụ, hội chứng Down, hội chứng 
Tớc-nơ); và hội chứng thiểu năng trí tuệ không 
biểu hiện rõ ràng (ví dụ, Alzheimer, trầm cảm, 
hay quên, hoang mang trong suy nghĩ). Theo 
báo cáo của Dự án Nghiên cứu Bệnh tật toàn 
cầu, ở thời điểm năm 2013, có khoảng 95 triệu 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 48 
người trên thế giới có hội chứng thiểu năng trí 
tuệ không biểu hiện rõ ràng [10]. 
Bên cạnh đó, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ 
cũng đã xác định thiểu năng trí tuệ là ‘có sự bất 
thường trong chức năng trí tuệ nói chung, xuất 
hiện trong quá trình phát triển và có sự liên 
quan đến: một là, sự khiếm khuyết trong nhận 
thức, và hai là, khả năng thích ứng với xã hội, 
hoặc liên quan đến cả hai điều này’ [11]. 
2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc bảo đảm 
công lí cho người khuyết tật về trí tuệ trong 
tố tụng hình sự 
 Theo một chuyên gia, bảo đảm công lí 
trong tố tụng hình sự chính là bảo đảm sự công 
bằng và các quyền, tự do của con người trong 
quá trình giải quyết vụ án hình sự [12]. Ở đây, 
các thủ tục tố tụng hình sự chính là những cơ 
chế, công cụ giúp mọi người tiếp cận công lí, 
song cũng có thể bị lợi dụng để vô hiệu hoá 
công lí. Để tố tụng hình sự là công cụ tiếp cận 
công lí của mọi người, cần phải đáp ứng các 
yêu cầu đó là: (i) Phải bảo đảm toà án có khả 
năng tìm kiếm sự thật và đưa ra những phán 
quyết chính xác; (ii) Phải bảo đảm thời gian xử 
lí vụ việc kịp thời, vì công lí bị trì hoãn là công 
lí bị từ chối (justice delayed is justice denied 
[13]); (iii) Chi phí tài chính cho việc tiếp cận 
với toà án phải hợp lí, không phải là rào cản đối 
với mọi người. Đây cũng được xem là những 
tiêu chí cơ bản dùng để đánh giá mức độ thành 
công trong cải cách tư pháp ở các quốc gia trên 
thế giới [14]. 
Một người khuyết tật về trí tuệ có thể tham 
gia vào quá trình tố tụng hình sự với tư cách là 
bị hại, bị cáo hoặc người làm chứng. Thực tế 
trên thế giới cho thấy nhiều người trong số họ 
không được đảm bảo đầy đủ các quyền tố tụng. 
Ví dụ, trong quá trình điều tra, xét hỏi, người 
khuyết tật về trí tuệ có thể dễ dàng bị “dẫn dắt” 
câu trả lời theo ý muốn của người thẩm vấn, bởi 
họ không đủ khả năng tương tác với câu hỏi và 
người hỏi. Hoặc trong quá trình cung cấp chứng 
cứ, người khuyết tật về trí tuệ thường không 
được hoặc không thể cung cấp chứng cứ trước 
tòa do những khiếm khuyết của họ. Chính vì 
vậy, nếu không có biện pháp bảo vệ đặc biệt, có 
thể dẫn đến oan sai trong cá ...  hiện tại và trong 
tương lai vì ít có khả năng hồi phục nhận thức. 
Xét về trách nhiệm hình sự, mặc dù tiêu chí 
để xác định khuyết tật về tâm thần là khác nhau 
trong các phán quyết khác nhau của tòa án, 
nhưng có một ‘phép thử chung’ đã được công 
nhận rộng rãi bởi Viện Pháp luật Mỹ (1962), đó 
là: “Một người sẽ không phải chịu trách nhiệm 
hình sự cho hành vi của mình nếu tại thời điểm 
người đó thực hiện hành vi phạm tội, vì lí do 
mắc bệnh tâm thần hoặc vì hạn chế năng lực 
nhận thức, người đó không thể nhận thức được 
hành vi của mình là trái với pháp luật”. 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 50 
Về vấn đề này, Ủy ban Nhân quyền Úc 
(Australian Human Rights Commision) đã đưa 
ra một số biện pháp thiết thực để bảo đảm 
quyền tiếp cận công lí của những người khuyết 
tật thiểu năng trí tuệ nói riêng hay khuyết tật về 
tâm thần nói chung trong tố tụng hình sự. Các 
biện pháp được chỉ ra bao gồm: 
- Trong quá trình xét hỏi, cán bộ điều tra 
phải cung cấp các thông tin cần thiết về diễn 
biến của hoạt động (ví dụ như băng ghi âm, ghi 
hình,) và cần giúp đỡ người khuyết tật hiểu 
về điều mà họ đang được hỏi cũng như những 
quyền mà họ được áp dụng trong quá trình xét 
hỏi; 
- Hệ thống trợ giúp pháp lí phải nhận thức 
được những khó khăn mà người bị thiểu năng 
trí tuệ đang phải đối mặt trong hệ thống tư pháp 
hình sự để có thể cung cấp sự hỗ trợ kịp thời; 
- Thủ tục tố tụng ở tòa án và nguyên tắc 
chứng minh phải được áp dụng dựa trên việc 
đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người khuyết tật; 
- Tăng cường sự hỗ trợ và sự thấu hiểu của 
tòa án và thẩm phán đối với những khó khăn 
mà người khuyết tật đang phải gánh chịu, các 
cơ quan nhà nước cần nghiên cứu quy định một 
số hình phạt phù hợp hơn với nhóm người này. 
- Đảm bảo quyền không bị đối xử ngược đãi 
bởi các cơ quan thi hành tố tụng, và nếu trong 
trường hợp có cáo buộc người khuyết tật bị đối 
xử ngược đãi thì cơ quan nhà nước phải có 
nghĩa vụ điều tra và giải quyết kịp thời. 
Tương tự, tổ chức phi chính phủ JUSTICE 
[20] ở Vương Quốc Anh đã xuất bản một báo 
cáo về Sức khỏe tâm thần và Xét xử công bằng 
[21] (Report on Mental Health and Fair Trial) 
bởi Nhóm nghiên cứu do các chuyên gia pháp lí 
và y tế uy tín hàng đầu soạn thảo. Báo cáo được 
soạn thảo dựa trên sự đánh giá thực tế của 
nhóm nghiên cứu khi họ cho rằng, quá trình tố 
tụng kể từ thời điểm cảnh sát tiếp nhận vụ việc 
đến khi chính thức bị buộc tội bằng các phán 
xét của tòa án vẫn còn tồn tại những vấn đề 
khiến cho quyền được xét xử công bằng của 
những người khuyết tật về tâm thần hoặc thiểu 
năng trí tuệ chưa được đảm bảo. Từ lí do này, 
nhóm nghiên cứu đã đề xuất 52 giải pháp cụ thể 
trong lĩnh vực tố tụng hình sự nhằm đảm bảo 
quyền cho nhóm người có khuyết tật về tâm 
thần hoặc thiểu năng trí tuệ nói chung. Những 
giải pháp này đề cập đến những phương diện 
chủ yếu sau: 
- Giai đoạn điều tra: trong giai đoạn này, 
những chuyên gia y học về tâm thần sẽ thay các 
cán bộ điều tra làm nhiệm vụ giám định sức 
khỏe tâm thần cho những người bị buộc tội; nếu 
sau khi được giám định và xác định người đó có 
bị khuyết tật tâm thần hoặc thiểu năng trí tuệ thì 
nhà nước phải hỗ trợ những người đó bằng các 
biện pháp hỗ trợ phù hợp; 
- Giai đoạn truy tố: có một công tố viên 
được tập huấn chuyên biệt tham gia xét xử 
những vụ án có người bị buộc tội bị khuyết tật 
về tâm thần hoặc thiểu năng trí tuệ; 
- Giai đoạn xét xử: cũng có một thẩm phán 
được đào tạo chuyên biệt cho những phiên tòa 
có bị cáo là người bị khuyết tật tâm thần hoặc 
thiểu năng trí tuệ trực tiếp điều hành và chỉ đạo 
triển khai; 
- Bài kiểm tra năng lực pháp lí: Bài kiểm tra 
năng lực để tự biện hộ và khả năng tham dự 
phiên tòa phải là bước đầu tiên bắt buộc phải 
làm trước khi phiên tòa diễn ra. Lí do biện hộ 
‘do bị tâm thần/thiểu năng’ nên được thay bằng 
‘không phải chịu trách nhiệm hình sự do có 
khuyết tật đã được chuyên gia y tế thẩm định’; 
- Kết án: cần phải có văn bản pháp luật 
hướng dẫn về việc kết án đối với nhóm người 
dễ bị tổn thương và người có vấn đề về tâm 
thần, quy định một số hình thức kết án cụ thể 
và đa dạng hơn để đáp ứng được nhu cầu giải 
quyết vụ án. 
Những giải pháp nêu trên được tạo ra dựa 
trên nhu cầu thực tế và trở thành một nguồn 
tham khảo uy tín dành cho các nhà làm luật. 
Nếu những vấn đề còn tồn tại giữa tòa án và 
người tham gia tố tụng là nhóm người bị tâm 
thần hoặc thiểu năng trí tuệ không được giải 
quyết, việc xét xử công bằng đối với nhóm 
người này khó có thể được đảm bảo. Những đề 
xuất trong báo cáo này không những được tác 
động đến hệ thống pháp luật Anh mà còn có giá 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 51 
trị tham khảo cao đối với các quốc gia khác, 
trong đó có Việt Nam. 
4. Bảo đảm công lí trong áp dụng tố tụng 
hình sự với người khuyết tật ở Việt Nam: 
Thực trạng và một số đề xuất thúc đẩy 
Ở Việt Nam, định nghĩa về khuyết tật trí tuệ 
được quy định tại Khoản 5 Điều 2 Nghị định 
28/2012/NĐ-CP, theo đó: ‘Khuyết tật trí tuệ là 
tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, 
tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không 
thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, 
giải quyết sự việc”. Theo kết quả Điều tra quốc 
gia người khuyết tật Việt Nam năm 2016 [22] 
(được công bố vào tháng 1 năm 2019) thì cả 
nước có 6.225.519 người khuyết tật, trong đó 
người khuyết tật về nhận thức có 2.622.578 
người. Nhìn từ những con số đó, có thể thấy 
người bị khuyết tật về nhận thức chiếm tỷ lệ 
cao, lên đến hơn một phần ba tổng số người 
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 
Việc bảo vệ quyền con người nói chung và 
người khuyết tật nói riêng trong lĩnh vực tư 
pháp hình sự, bao gồm các giai đoạn điều tra, 
truy tố, xét xử, thi hành án và cả trong quá trình 
giam giữ, cải tạo phạm nhân, đều cần dựa trên 
nguyên tắc đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều 
được phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh, 
song cũng không được làm oan người vô tội và 
bỏ lọt người phạm tội. Người phạm tội phải 
được đưa ra xét xử và phải chịu hình phạt tương 
xứng đối với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. 
Tuy nhiên, mục đích của hình phạt không chỉ 
mang tính trừng trị mà còn mang tính giáo dục, 
cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Đây 
chính là yêu cầu cơ bản để bảo đảm quyền con 
người nói chung và người khuyết tật nói riêng 
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 
Về vấn đề này, trong Điều 3 Hiến pháp năm 
2013 đã ghi rõ: ‘Nhà nước bảo đảm và phát huy 
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn 
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, 
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi 
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có 
điều kiện phát triển toàn diện.’ 
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, vấn đề 
bảo vệ quyền con người (bao gồm cả người 
khuyết tật) được quy định tại một số điều luật 
khác nhau như: Điều 4 ‘Tôn trọng và bảo vệ các 
quyền cơ bản của công dân’; Điều 6 ‘Bảo đảm 
quyền bất khả xâm phạm về thân thể công dân’; 
Điều 7 ‘Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, 
nhân phẩm, tài sản của công dân; Điều 8 ‘Bảo 
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn 
và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công 
dân’; Điều 9 ‘Không ai bị coi là có tội khi chưa 
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp 
luật’; Điều 11 ‘Bảo đảm quyền bào chữa của 
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo’. Ngoài các quy 
định chung này, Bộ luật Tố tụng Hình sự còn có 
một số quy định cụ thể liên quan trực tiếp đến 
việc bảo vệ người khuyết tật, cụ thể như quy 
định Điều 76 trong đó nêu rằng mọi trường hợp 
nếu bị can, bị cáo là người có nhược điểm về 
tâm thần hoặc thể chất thì các cơ quan tiến hành 
tố tụng phải có trách nhiệm yêu cầu đoàn luật 
sư phân công người bào chữa cho họ, nếu 
không có người bào chữa cho họ trong trường 
hợp này là vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng 
hình sự. Bên cạnh đó, Điều 21 của Bộ luật Hình 
sự 2015 quy định: Người thực hiện hành vi 
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh 
tâm thần, mắc bệnh khác làm mất khả năng 
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi 
của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình 
sự. Để xác định chính xác người thực hiện hành 
vi nguy hiểm cho xã hội có mắc bệnh tâm thần 
hay không, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 yêu 
cầu đây là một trong những trường hợp bắt 
buộc phải trưng cầu giám định (tại khoản 1 
Điều 206). Nếu kết quả giám định cho thấy 
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội 
trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh 
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều 
khiển hành vì thì Viện Kiểm sát hoặc Tòa án 
căn cứ vào kết quả này đưa họ vào một cơ sở 
điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh mà 
không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi 
mình đã thực hiện. 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 52 
Những quy định nêu trên thể hiện chính 
sách của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con 
người đối với người có nhược điểm về tâm thần 
hoặc thể chất khi họ tham gia tố tụng hình sự và 
không để họ bị bất lợi khi tham gia tố tụng hình 
sự. Những quy định này cũng có sự tương đồng 
với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới 
như phân tích ở phần trước. 
Tuy nhiên, có một số vấn đề được đặt ra 
trong thực tiễn hiện nay, trong đó bao gồm việc 
làm rõ câu hỏi ‘thế nào là người có nhược điểm 
về tâm thần và thể chất?’. Bộ luật Tố tụng Hình 
sự năm 2015 không có quy định nào và cũng 
chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ 
thể về vấn đề này. Điều đó đã tạo ra những cách 
hiểu khác nhau trong giải thích và áp dụng pháp 
luật tố tụng với người có nhược điểm về tâm 
thần và thể chất mà tiềm ẩn khả năng dẫn đến 
oan sai hoặc để lọt tội phạm. Thêm vào đó, có 
thể thấy, hiện pháp luật Việt Nam chưa có bất 
kì quy định cụ thể nào về bảo vệ quyền của 
người khuyết tật trong tố tụng hình sự, trong 
khi đã có quy định về quyền của các nhóm dễ bị 
tổn thương khác như phụ nữ, trẻ em, người 
thuộc các dân tộc thiểu số 
Từ những phân tích trên, có thể đề xuất một 
số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận 
công lí cho người khuyết tật nói chung và người 
khuyết tật về trí tuệ nói riêng trong tố tụng hình 
sự ở Việt Nam hiện nay như sau: 
Thứ nhất, cần có quy định cụ thể và văn bản 
hướng dẫn về việc xác định như thế nào là 
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất 
bằng cách phân chia các nhóm nhược điểm có 
tính tương đồng với nhau một cách rõ ràng. 
Việc này sẽ giúp cho các cơ quan và người thực 
thi pháp luật có thể áp dụng pháp luật thống 
nhất, tránh oan sai và đảm bảo thực thi công lí 
trong mọi trường hợp. 
Thứ hai, cần có những quy định riêng, cụ 
thể hơn về bảo đảm quyền của người khuyết tật 
trong luật tố tụng hình sự, bởi người khuyết tật 
là một nhóm đặc biệt, cần được bảo đảm những 
điều kiện tố tụng phù hợp với tình trạng và đặc 
điểm về thể chất cũng như tinh thần của họ. 
Việc này sẽ giúp nâng cao hiệu quả bảo vệ 
quyền và lợi ích của người khuyết tật cũng như 
đảm bảo công lí xuyên suốt quá trình tố tụng. 
Thứ ba, cần đào tạo hoặc đào tạo bổ sung 
để xây dựng một đội ngũ cán bộ thực thi pháp 
luật tố tụng có hiểu biết đầy đủ về đặc thù và 
các quyền của người khuyết tật trong tố tụng 
hình sự. Thành phần cần được đào tạo hay đào 
tạo lại bao gồm cả cán bộ điều tra, công tố viên, 
thẩm phán, giám thị trại giamViệc này là để 
phòng ngừa những vi phạm và tăng cường mức 
độ bảo đảm quyền của người khuyết tật trong 
mọi giai đoạn của tố tụng hình sự. 
Lời cảm ơn 
Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề 
tài: “Công lý và quyền tiếp cận công lý ở Việt 
Nam” (mã số 505.01-2017.01) do Quỹ Khoa 
học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tài 
trợ. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Henry Campbell Black M.A. St.Paul, Minn, Từ 
điển Luật Black (Black’s Law Dictionary), NXB 
West Publishing Co, 1983 (447). 
[2] Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ 
điển Bách khoa, (1999) 210. 
[3] Nguyễn Lân, Từ và ngữ Tiếng Việt, NXB Tổng 
hợp Hồ Chí Minh, 2006. 
[4] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại 
biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung 
ương Đảng, (2016) 114. 
[5]  
[6] Mary Lowth, Nghiên cứu chung về khuyết tật 
nhận thức (General Learning Disability), The 
Information Standard (2016). 
https://patient.info/doctor/general-learning-disability. 
[7] Harkin, Báo cáo số 111-244 về Luật ROSA 
(Report 111-244 on ROSA’S LAW), Washington 
D.C (2010) 3. 
https://www.gpo.gov/fdsys/pkg/CRPT-
111srpt244/pdf/CRPT-111srpt244.pdf. 
[8] Sách Trắng về sức khỏe và chăm sóc xã hội cho 
người bị khuyết tật về trí tuệ năm 2001 (The 2001 
V.C. Giao, H.T.B. Ngoc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 44-53 53 
White Paper on the health and social care of 
people with learning disabilities). 
[9] Chỉ số IQ có thang điểm trung bình là 100, hầu 
hết mọi người có IQ từ 85 đến 115. Một người 
được xác định có khả năng cao bị thiểu năng trí 
tuệ nếu chỉ số IQ của họ thấp hơn từ 70 đến 75. 
[10] Nghiên cứu về Gánh nặng bệnh tật toàn cầu năm 
2013, Collaborators, (2015). 
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4
561509/. 
[11] Hiệp Hội tâm thần Hoa, Cẩm nang chẩn đoán và 
thống kê về rối loạn tâm thần 14, (1968) 2d ed.,. 
[12] Nguyễn Ngọc Chí, Công lí và quyền tiếp cận công 
lí: Những vấn đề lí luận, thực tiễn, NXB Hồng 
Đức, (2018) 176. 
[13] William Penn, Những loài trái cây cô đơn (Some 
Fruits of Solitude), Headley Brothers Pub., (1905) 
86.https://archive.org/stream/somefruitssolit00pen
ngoog#page/n9/mode/1up. 
[14] Adrian Zuckerman, Khủng hoảng trong tư pháp, 
từ khủng hoảng tư pháp dân sự: các quan điểm so 
sánh (Justice in Crisis, from Civil Justice in 
Crisis: Comparative Perspectives of Civil 
Procedure), Oxford University Press, 1999. 
[15] Trần Thái Dương (2018), Công lí và Quyền tiếp 
cận công lí: Những vấn đề lí luận và thực tiễn, 
NXB Hồng Đức, ( 2018) 372. 
[16] Nguyên tắc 6, Tuyên bố về Quyền của người bị 
thiểu năng trí tuệ của Liên Hợp quốc. 
[17] Nguyên tắc 7, Tuyên bố về Quyền của người bị 
thiểu năng trí tuệ của Liên Hợp quốc. 
[18] Paul R. Friedman (1977), Quyền con người và 
quyền luật pháp của người bị thiểu năng trí tuệ 
(Human and Legal rights of mentally retarded 
persons), International Journal of Mental Health. 
(1977) 50-72. 
DOI: 10.1080/00207411.1977.11448756. 
[19] Tổ công tác của Văn phòng Tổng thống nghiên 
cứu về thiểu năng trí tuệ, 1963. 
[20] Tổ chức Justice được thành lập năm 1957 bởi một 
nhóm các nhà luật gia hàng đầu để thúc đẩy pháp 
quyền và quản trị công bằng. Justice trở thành 
thành viên của Ủy ban luật gia quốc tế của Vương 
Quốc Anh với sự tham gia của tất cả thành viên 
của các Đảng. 
[21] https://2bquk8cdew6192tsu41lay8t-
wpengine.netdna-ssl.com/wp-
content/uploads/2017/11/JUSTICE-Mental-
Health-and-Fair-Trial-Report-2.pdf. 
[22] Tổng cục Thống kê, Điều tra quốc gia về người 
khuyết tật, (2016) 
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=460&i
dmid=5&ItemID=19054.

File đính kèm:

  • pdfensuring_justice_for_people_with_intellectual_disabilities_i.pdf