Food safety and civil liability of the enterprise from the comparative law perspective

Abstract: Civil liability, as a method to directly protect the rights and legitimate interests of

consumers, plays an important role in improving the legal provisions on food safety. However, the

legal issues related to civil liability in general and, especially, civil liability in the field of food

safety, remain highly controversial by the diversity of relationships among the subjects in the

process of production, circulation and consumption. The paper focuses on: (1) Clarifying

theoretical and practical provisions applied from the comparative law perspective, thus pointing

out the problems that exist in the legal system in general and in the Vietnamese legal system in

particular, on civil liability in the field of food safety; (2) Suggesting some comprehensive

solutions for the purpose of introducing civil liability mechanisms, such as protecting the rights

and interests of consumers in a practical and effective way; preventing violations of business in the

context of science and technology development; and risk dispersion based on the theory of the

balance of interests of civil legal subjects.

pdf 13 trang yennguyen 4880
Bạn đang xem tài liệu "Food safety and civil liability of the enterprise from the comparative law perspective", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Food safety and civil liability of the enterprise from the comparative law perspective

Food safety and civil liability of the enterprise from the comparative law perspective
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 
31 
Review Article 
Food Safety and Civil Liability of the Enterprise from the 
Comparative Law Perspective 
Nguyen Thi Phuong Cham * 
School of Law, Vietnam National University, Hanoi, 
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 12 April 2019 
Revised 25 May 2019; Accepted 20 June 2019 
Abstract: Civil liability, as a method to directly protect the rights and legitimate interests of 
consumers, plays an important role in improving the legal provisions on food safety. However, the 
legal issues related to civil liability in general and, especially, civil liability in the field of food 
safety, remain highly controversial by the diversity of relationships among the subjects in the 
process of production, circulation and consumption. The paper focuses on: (1) Clarifying 
theoretical and practical provisions applied from the comparative law perspective, thus pointing 
out the problems that exist in the legal system in general and in the Vietnamese legal system in 
particular, on civil liability in the field of food safety; (2) Suggesting some comprehensive 
solutions for the purpose of introducing civil liability mechanisms, such as protecting the rights 
and interests of consumers in a practical and effective way; preventing violations of business in the 
context of science and technology development; and risk dispersion based on the theory of the 
balance of interests of civil legal subjects. 
Keywords: Food safety, civil liability, tort law, product liability. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: chamnguyen1706@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4192 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 
32 
An toàn thực phẩm và trách nhiệm dân sự của doanh nghiệp 
Nguyễn Thị Phương Châm* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 12 tháng 04 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Với tư cách là phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng một, 
trách nhiệm dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hoá quy định pháp luật về an 
toàn thực phẩm. Tuy nhiên, các vấn đề pháp lí liên quan tới trách nhiệm dân sự nói chung, và đặc 
biệt trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực an toàn thực phẩm nói riêng vẫn tồn tại rất nhiều tranh luận. 
Bài viết tập trung làm sáng tỏ: (1) Cơ sở lí luận, luật thực định và thực tiễn áp dụng quy định luật 
từ góc nhìn pháp luật so sánh; (2) Gợi mở một số giải pháp hoàn thiện với mục đích đưa cơ chế 
trách nhiệm dân sự thực hiện được đúng chức năng như: Bảo vệ quyền và lợi ích người của tiêu 
dùng một cách thiết thực và hữu hiệu; Ngăn chặn hành vi vi phạm của doanh nghiệp trong bối 
cảnh khoa học công nghệ phát triển; Phân tán rủi ro dựa trên lí thuyết cân bằng lợi ích của các chủ 
thể pháp luật dân sự. 
Từ khóa: An toàn thực phẩm, tránh nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách 
nhiệm sản phẩm. 
1. Trách nhiệm dân sự của doanh nghiệp đối 
với người tiêu dùng* 
1.1. Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại dựa trên 
hợp đồng 
 Thông qua hợp đồng chủ thể với chủ thể 
cùng nhau xác lập mối quan hệ pháp lí (quyền 
và nghĩa vụ), để giải quyết tranh chấp pháp sinh 
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: chamnguyen1706@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4192 
trong quan hệ hợp đồng, như là giải pháp giải 
quyết tranh chấp pháp luật về hợp đồng quy 
định bên không thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ 
hợp đồng phải gánh trách nhiệm dân sự. Về 
trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ được 
phân loại thành: Trách nhiệm do chậm thực 
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm do không có khả 
năng thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm do thực 
hiện nghĩa vụ không đúng, không đầy đủ. Đối 
với từng phân loại không thực hiện nghĩa vụ sẽ 
dẫn tới hậu quả pháp lí bên có quyền có quyền 
yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp 
phát sinh thiệt hại. 
 Liên quan đến các vấn đề an toàn thực 
phẩm, người tiêu dùng có quyền yêu cầu bên 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 33 
cung cấp dịch vụ, bên bán sản phẩm hàng hoá 
kém chất lượng gây ra hậu quả xâm hại sức 
khoẻ, tính mạng phải bồi thường thiệt hại do 
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp 
bán hàng không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa 
vụ phát sinh dựa trên hợp đồng. 
 Bên cạnh đó, trong pháp luật dân sự còn 
quy định trách nhiệm bảo đảm khuyết tật của 
bên bán đối với bên mua, trong trường hợp sản 
phẩm có khuyết tật sau khi hàng được chuyển 
giao cho bên mua, bên mua có quyền truy cứu 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên bán 
cho dù trong trường hợp này rất khó chứng 
minh bên bán vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ 
hợp đồng dựa trên lỗi để yêu cầu bồi thường 
thiệt hại. 
1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên 
hành vi bất hợp pháp (Bồi thường thiệt hại 
ngoài hợp đồng) 
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên 
hành vi bất hợp pháp còn được gọi là trách 
nhiệm “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” 
(BTTH ngoài hợp đồng). Đây là khái niệm 
được xây dựng dựa trên hành vi bất hợp pháp, 
là trách nhiệm luật định đối với chủ thể pháp 
luật dân sự với tư cách là hậu quả pháp lí được 
quy thuộc cho chủ thể khi thực hiện hành vi 
xâm hại quyền tài sản, quyền nhân thân (quyền 
và lợi ích hợp pháp) của chủ thể khác. Và trách 
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có những đặc 
điểm pháp lí sau khi phân biệt với trách nhiệm 
BTTH dựa trên hợp đồng. (1) Thứ nhất, BTTH 
ngoài hợp đồng là hậu quả pháp lí mà pháp luật 
quy định khi thấy rằng chủ thể nên gánh chịu 
khi vi phạm nghĩa vụ mang tính luật. Việc vi 
phạm những nghĩa vụ này sẽ dẫn tới trách 
nhiệm BTTH. (2) Thứ hai, BTTH ngoài hợp 
đồng với điều kiện cần là tồn tại hành vi bất 
hợp pháp (Hành vi xâm hại). Do vậy, không có 
hành vi bất hợp pháp không thể quy trách 
nhiệm BTTH đối với chủ thể. Mục đích hình 
thành trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đó là 
pháp luật dân sự xem loại trách nhiệm này như 
một trách nhiệm dân sự đối với những hành vi 
bất hợp pháp và qua đó bảo vệ quyền và lợi ích 
hợp pháp của chủ thể khác khi chịu những thiệt 
hại do hành vibất hợp pháp đem lại (bù đắp 
thiệt hại về tài sản và tinh thần). (3) Thứ ba, 
trong mối tương quan so sánh với trách nhiệm 
dân sự dựa trên hợp đồng, trách nhiệm dân sự 
dựa trên hành vi bất hợp pháp (BTTH ngoài 
hợp đồng) là trách nhiệm dân sự độc lập, riêng 
rẽ với đặc tính cưỡng chế mang tính luật rất 
mạnh. Khác với trách nhiệm dựa trên hợp đồng 
với nền tảng pháp lí là sự thoả thuận giữa các 
bên, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng dựa 
trên pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng - được 
quy định tại BLDS và tại các luật chuyên ngành 
như Luật bảo vệ quền lợi người tiêu dùng, Luật 
chất lượng hàng hoá, Luật vệ sinh an toàn thực 
phẩm...[1, 18]. Và nếu nhìn dưới góc độ nội 
dung, pháp luật BTTH ngoài hợp đồng được 
quy định bởi cấu trúc phần chung và phần 
riêng. Những quy định chung và quy định riêng 
được xây dựng khác nhau về nội dung như điều 
kiện xác lập trách hiệm BTTH, nguyên tắc quy 
trách nhiệm, kháng biện của bị đơn để miễn 
trách nhiệm... bởi mục đích khác nhau của các 
quy định pháp luật này. Mục đích của quy định 
chung hướng tới điều chỉnh các hành vi bất hợp 
pháp dưới dạng thức tổng quát, toàn diện, trong 
khi đó quy định riêng hướng tới điều chỉnh 
hành vi cụ thể, được đặc định hoá. Do vậy, 
nghĩa vụ chung về BTTH ngoài hợp đồng được 
xây dựng trên nguyên tắc trách nhiệm dựa trên 
lỗi1 , và bị đơn (người gây hại) có thể miễn 
nghĩa vụ trong trường hợp chứng minh được do 
sự cố ý của người bị hại, do lỗi của người thứ 
ba, trong tình thế cấp thiết hoặc phòng vệ chính 
đáng. Trong khi đó, trách nhiệm BTTH tại phần 
riêng được xây dựng với mục đích phần lớn 
nghiêng về chính sách công bởi một thể chế lập 
pháp độc lập thông qua các luật chuyên ngành 
bổ sung cho các quy định riêng về BTTH ngoài 
hợp đồng tại BLDS. Qua đó, thông thường đó 
là trách nhiệm nghiêm ngặt, trách nhiệm không 
dựa trên lỗi, và về giới hạn trách nhiệm cũng 
________ 
1 Điều 1382 BLDS Pháp, Khoản 1 Điều 823 BLDS Đức, 
Điều 709 BLDS Nhật Bản. 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 
34 
như miễn trách nhiệm phải dựa trên quy định 
của luật [1, 18-19]. 
1.3. Tiểu kết về căn cứ pháp lí xoay quanh trách 
nhiệm dân sự của doanh nghiệp 
a. Trách nhiệm dựa trên hợp đồng 
 - Thời kì đầu: Trách nhiệm do vi phạm 
nghĩa vụ của bên bán (Trách nhiệm dựa trên lỗi 
của người bán). 
- Tiến triển: Trách nhiệm đảm bảo khuyết tật 
của bên bán (trách nhiệm không dựa trên lỗi). 
b. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng 
- Thời kì đầu: Trách nhiệm BTTH do hành 
vi bất hợp pháp được quy định tại phần chung 
BLDS (Trách nhiệm dựa trên lỗi). 
- Tiến triển: Trách nhiệm BTTH dựa trên 
trách nhiệm sản phẩm (trách nhiệm không dựa 
trên lỗi). 
c. Trách nhiệm dựa trên luật định, cụ thể 
được quy định tại các luật chuyên ngành về an 
toàn thực phẩm dựa trên đặc tính riêng biệt của 
đối tượng là thực phẩm 
2. Trách nhiệm dân sự của doanh nghiệp về 
an toàn thực phẩm dưới mô hình cụ thể 
trong quan hệ với người tiêu dùng 
Trong quan hệ giữa người tiêu dùng và 
doanh nghiệp chế biến, bảo quản, vận chuyển, 
phân phối, bán lẻ là một chuỗi các mối quan hệ 
trong suốt quá trình sản xuất và lưu thông. 
 Nhìn chung mối quan hệ này được thể hiện 
dưới các mô hình sau: 
* Mô hình (1) : Nhà sản xuất, nhà phân phối 
bán buôn, nhà bán lẻ, người tiêu dùng 
* Mô hình (2): Nhà cung cấp nguyên vật 
liệu (có thể nguyên liệu nhập khẩu), nhà phân 
phối buôn, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ liên 
quan đến thực phẩm (nhà hàng, khách sạn...), 
người tiêu dùng 
* Mô hình (3): Người bán hàng, sàn giao 
dịch điện tử trung gian (thị trường giao dịch tập 
trung), người tiêu dùng. Đây là mô hình lưu 
thông, tiêu dùng mới và đặc biệt phát triển 
mạnh trong thời đại công nghệ số. Mô hình lưu 
thông được dự báo còn nhiều tiềm năng phát 
triển trước cuộc cách mạng công nghệ 4.0. 
Các mô hình trên đều thể hiện mối quan hệ 
giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, trước 
hiện trạng xã hội về an toàn thực phẩm, bảo vệ 
quyền lợi tiêu dùng thông qua chất lượng thực 
phẩm bảo đảm ngày càng được xã hội quan 
tâm. Một trong những cơ sở nền tảng pháp lí 
nâng cao niềm tin của người tiêu dùng đối với 
doanh nghiệp nói riêng, xã hội nói chung với tư 
cách là giải pháp bù đắp thiệt hại cho người tiêu 
dùng không thể không bàn tới vấn đề trách 
nhiệm dân sự. 
2.1. Phân tích trách nhiệm dân sự của doanh 
nghiệp trong chuỗi sản xuất, lưu thông ở mô 
hình 1. 
2.1.1. Vấn đề pháp lí xoay quanh mối quan 
hệ giữa người người tiêu dùng và doanh nghiệp 
Thứ nhất, chủ thể phải đảm bảo tính an toàn 
của thực phẩm đó là người sản xuất, người chế 
biến. Nhà sản xuất có nghĩa vụ phải nỗ lực chú ý 
sao cho không sản xuất, chế biến thực phẩm có 
hại trong quá trình sử dụng chất phụ gia. Cho dù 
nhà sản xuất không dùng chất độc hại, vẫn tồn tại 
nghĩa vụ chú ý, thận trọng sao cho ngăn chặn, hạn 
chế tối đa thực phẩm không trở thành độc hại do 
lơ là khi sử dụng nguyên vật liệu, cũng như sau 
một thời gian sử dụng. Hơn thế nữa, nhà sản xuất 
phải nỗ lực trong việc tuyệt đối không dùng các 
dụng cụ, bao bì độc hại. 
Trong quá trình chế biến nhà sản xuất 
không được sử dụng nguyên liệu độc hại, không 
trộn lẫn nguyên liệu được dự liệu mang lại độc 
hại, giả sử cho dù không phải chất độc hại cũng 
phải có nghĩa vụ chú ý sao cho không trộn lẫn 
vật lạ, nguyên vật liệu lạ. Nói tóm lại nhà sản 
xuất có nghĩa vụ bảo đảm tính an toàn của thực 
phẩm nói riêng, hàng hoá nói chung. 
Trong trường hợp vi phạm các nghĩa vụ 
trên, sản xuất ra thực phẩm gây hại, doanh 
nghiệp sản xuất phải có trách nhiệm BTTH cho 
người bị hại. Và đây là trách nhiệm dân sự 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 35 
ngoài hợp đồng. Căn cứ pháp lí của trách nhiệm 
này được quy định tại phần chung về trách 
nhiệm BTTH do hành vi bất hợp pháp được quy 
định tại BLDS, hoặc trách nhiệm BTTH dựa 
trên luật chuyên ngành. Ngày này hệ thống luật 
trách nhiệm sản phẩm đóng vai trò quan trọng, 
và đây được xem là loại trách nhiệm nghiêm 
ngặt. Do vậy trong trường hợp thực phẩm gây 
hại cho người tiêu dùng, người tiêu dùng cho dù 
không chứng minh quan hệ nhân quả giữa hành 
vi xâm hại và thiệt hại cũng như yếu tố lỗi của 
doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng khó thoát 
khỏi trách nhiệm BTTH [2, 25]. 
Thứ hai, mối quan hệ giữa nhà phân phối, 
nhà bán hàng và người tiêu dùng. 
Trường hợp thực phẩm gây hại cho 
người tiêu dùng, người tiêu dùng mua sản 
phẩm quá hạn sử dụng, quá hạn bảo quản thì 
có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 
mình thông qua những phương thức nào? 
Trong mối quan hệ với doanh nghiệp phân 
phối, bán trực tiếp cho người tiêu dùng, tồn 
tại quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp và 
người tiêu dùng, bên mua (người tiêu dùng) 
có quyền yêu cầu BTTH với căn cứ pháp lý 
dựa trên hợp đồng. Cụ thể, bên bán phải có 
nghĩa vụ chuyển giao vật đúng chất lượng và 
trong trường hợp bên bán vi phạm nghĩa vụ 
sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự như thực 
hiện nghĩa vụ thay thế, BTTH, Tuy nhiên 
đối tượng của hợp đồng là thực phẩm nên tại 
thời điểm giao kết, thông thường liên quan 
đến chất lượng sản phẩm, mẫu mã, hình 
thức, ghi nhãn sản phẩm được bên mua xác 
nhận, do vậy luận bàn về chủ đề này tiêu chí 
đánh giá nghĩa vụ xác nhận của bên mua 
trong mối tương quan nhận định có hay 
không tồn tại việc vi phạm nghĩa vụ chuyển 
giao vật đúng chất lượng của bên bán là một 
trong những vấn đề phức tạp về giao dịch 
hàng hoá là thực phẩm (Luật thương mại 
cũng ghi nhận bên mua phải xác nhận chất 
lượng tại thời điểm giao kết hợp đồng). 
Thứ ba, có tồn tại hay không mối quan hệ 
giữa người tiêu dùng với người bán buôn, đại 
lí phân phối hàng hoá không trực tiếp xác lập 
hợp đồng với người tiêu dùng. 
2.1.2. Án lệ Nhật Bản (Án lệ ngày 27/12/1972 
của Toà địa phương Gifu ) [3; 87-101] 
Doanh nghiệp chế biến M chuyên sản xuất 
đậu phụ, sau đó doanh nghiệp bán cho doanh 
nghiệp bán buôn W, và W bán lại cho doanh 
nghiệp bán lẻ là R, người tiêu dùng C mua lại 
sản phẩm từ doanh nghiệp R. Sau đó đậu phụ bị 
nhiễm vi khuẩn Salmonella (Vi khuẩn đường 
ruột), gia đình của C bị ngộ độc thực phẩm và 
là nguyên nhân dẫn đến tử vong của một thành 
viên trong gia đình. C khởi kiện yêu cầu M, W, 
R bồi thường thiệt hại. Phán quyết của Toà 
chấp nhận yêu cầu của C với lí do sau: 
Thứ nhất, về trách nhiệm của M đây được 
xem là trách nhiệm BTTH do hành vi bất hợp 
pháp (Áp dụng quy định tại phần chung về 
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng - Điều 709 
BLDS Nhật Bản). “Doanh nghiệp M sử dụng 
trứng làm nguyên vật liệu chế taọ đậu phụ phải 
biết được trong quá trình sử dụng trứng có khả 
năng dẫn đến nhiễm khuẩn chủng Salmonella, 
vì vậy hoặc không sử dụng nguyên vật liệu là 
trứng, hoặc nếu sử dụng thì tr ... i lỗi của bên 
mua có hay không là điều kiện miễn trừ trách 
nhiệm cho bên bán. 
Trong danh mục phải ghi nhãn sản phẩm 
đối với sản phẩm đóng gói là hạn sử dụng 
hoặc hạn bảo quản. Đối với trường hợp ghi 
hạn bảo quản thì cho dù quá thời hạn bảo 
quản thực phẩm không có nghĩa là không thể 
lưu thông và không thuộc phạm vi trách 
nhiệm của doanh nghiệp chế biến, trong 
trường hợp này cụ thể doanh nghiệp chế biến 
không vi phạm khuyết tất do có chỉ dẫn cụ 
thể. Vậy một sản phẩm đến tay người tiêu 
dùng nhưng quá thời hạn bảo quản thì quyền 
lợi của người tiêu dùng được bảo vệ đến đâu 
[7; 169]. 
Trường hợp này nếu áp dụng chế tài trách 
nhiệm dân sự truyền thống như BTTH ngoài 
hợp đồng (Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm), 
cũng như trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ dựa 
trên hợp đồng của bên bán về cơ bản khả năng 
không thể áp dụng. 
Một giải pháp đặt ra đó là liệu rằng có hay 
không việc áp dụng trách nhiệm đảm bảo 
khuyết tật để bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu 
dùng. Hiện nay mô hình trách nhiệm đảm bảo 
khuyết tật được quy định tại Bộ luật dân sự Đức 
(BGB) sau khi sửa đổi phần trái quyền năm 
2002 đang được xem là mô hình pháp lí điển 
hình có sự hài hoá hoá pháp luật quốc gia với 
chỉ thị của EU về các vấn đề bảo vệ người tiêu 
dùng [8; 219]. 
Theo Điều 459 BGB đưa ra định nghĩa về 
khuyết tật, và Điều 460 BGB quy định các 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 
40 
trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho bên bán: 
(1) Trong trường hợp người mua biết khuyết 
tật; (2) người mua không biết do lỗi nặng trừ 
trường hợp người bán biết mà không thông báo, 
và trường hợp người bán có điều khoản đảm 
bảo không có khuyết tật. 
Với quy định tưởng trừng như tương đối rõ 
nghĩa , song trong thực tiễn áp dụng pháp luật 
liên quan đến an toàn thực phẩm, đặc biệt vấn 
đề về thời hạn bảo quản thực phẩm không tránh 
khỏi những khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, 
trường hợp sản phẩm quá hạn bảo quản khi mà 
không chắc chắn rằng ảnh hưởng tới chất lượng 
sản phẩm, thì cho dù thời hạn này đã được ghi 
rõ trên nhãn mác sản phẩm “Sử dụng tốt nhất 
trước ngày” việc người tiêu dùng vẫn mua khi 
quá hạn có phải thuộc trường hợp miễn trách 
nhiệm cho doanh nghiệp bán khi nhận thấy tồn 
tại yếu tố “người mua biết khuyết tật” hoặc 
“người mua không biết do lỗi nặng” hay 
không? 
Về vấn đề này hiện nay giới luật học Đức 
tồn tại ba quan điểm như sau: 
(1) Quan điểm thứ nhất dựa trên phân loại 
người tiêu dùng tự phục vụ ( self-sevice) hoặc 
người tiêu dùng được phục vụ mà luận giải 
khác nhau [7; 171]. 
Trường hợp người tiêu dùng tự phục vụ thì 
người mua có thể tự xác nhận được hạn bảo 
quản do vậy người tiêu dùng cũng phải nhận 
thức. Và việc tự xác nhận thời hạn đối với 
người mua không khó (trừ trường hợp việc ghi 
nhãn này khó đọc do mờ, hoặc rơi mất nhãn 
mác), do vậy việc không biết được xem là do 
lỗi nặng. 
Ngược lại, trường hợp mua được phục vụ, 
với bản chất khác với trường hợp tự phục vụ, 
nhân viên mang sản phẩm đến cho khách hàng 
thì việc bán sản phẩm chưa quá hạn bảo quản là 
điều mong đợi của người tiêu dùng. Do vậy 
đương nhiên không tồn tại nghĩa vụ kiểm tra 
của người mua, và không xem việc không biết 
là do lỗi nặng của người mua. 
Liên quan đến điều kiện chủ quan của bên 
bán, bên bán không thể được miễn trừ trách 
nhiệm BTTH nếu biết mà không thông báo, và 
trong trường hợp tự phục vụ thì quan điểm này 
cho rằng người mua không khó trong việc kiểm 
tra nên không tồn tại nghĩa vụ giải trình của 
người bán, bởi lẽ thông thường trường hợp này 
người bán được xem không ác ý. Như vậy quan 
điểm này cho rằng, trong hoạt động mua bán tự 
phục vụ người mua có lỗi nặng, người bán 
không có nghĩa vụ giải thích về sản phẩm được 
ghi rõ nhãn mác nên không được xem là cố ý 
im lặng (biết mà không thông báo) và thông 
thường loại bỏ trách nhiệm đảm bảo khuyết tất. 
Tuy nhiên đối với quan điểm này, rõ ràng 
tồn tại các vấn đề sau: Trong trường hợp 
người mua nếu mua với khối lượng lớn liệu 
rằng có thể xác nhận được toàn bộ sản phẩm, 
hàng hoá không? Trẻ em, người cao tuổi, 
người nước ngoài, người có vấn đề về trí tuệ, 
người không biết chữtrong trường trường 
hợp có lí do đặc biệt thì đối với vấn đề việc 
không biết là có lỗi nặng có phù hợp không? 
(2) Quan điểm thứ hai cho rằng [7; 173] 
Về việc xác định có hay không lỗi nặng của 
người mua phải dựa trên tiêu chí phán đoán tại 
thời điểm giao kết hợp đồng có hay không 
nghĩa vụ kiểm tra của người mua. Cơ bản người 
mua không có nghĩa vụ kiểm tra sản phẩm, chỉ 
dưới những điều kiện đặc biệt thì tuỳ từng 
trường hợp dựa trên nguyên tắc thiện trí trung 
thực là căn cứ xác định nghĩa vụ kiểm tra và chỉ 
khi do bất cẩn vi phạm nghĩa vụ này mới được 
xem có tồn tại lỗi nặng của bên mua khi không 
biết đến khuyết tật của sản phẩm. 
Quan điểm thứ hai cho rằng nhận định có 
hay không lỗi nặng của người mua không phải 
xét từ thực trạng của quan hệ mua bán như tự 
phục vụ hay được phục vụ, mà cần thiết phải 
nghiên cứu từ quan điểm có cần thiết hay không 
khi công nhận nghĩa vụ của người mua phải 
kiểm tra hàng hoá, sản phẩm. Quan trọng hơn 
thước đo khi cân nhắc có hay không nghĩa vụ 
này phải dựa trên một tiêu chí căn bản đó là cán 
cân bằng lợi ích giữa bên bán và bên mua. Và 
khi thấy rằng, người bán cần phải thận trọng với 
đối tượng sản phẩm hàng hoá của mình liên 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 41 
quan đến hạn bảo quản, điều đó đồng nghĩa với 
việc phủ nhận nghĩa vụ kiểm tra của người 
mua. Do vậy dù nhãn mác có ghi đầy đủ thông 
tin về thời hạn bảo quản cũng không phải là căn 
cứ xác định người mua mặc nhiên phải biết và 
việc không biết là do lỗi nặng. 
Vậy, trong khi cách luận giải của quan điểm 
thứ nhất, không công nhận trách nhiệm đảm 
bảo của doanh nghiệp khi cho rằng có tồn tại lỗi 
nặng của người mua đối với trường hợp mua tại 
các của hàng tiện ích, siêu thị (người mua tự 
phục vụ), bởi lẽ từ thực trạng người mua có thể 
dễ dàng xác nhận được các thông tin trên sản 
phẩm. Ngược lại quan điểm thứ hai cho rằng, 
nhận định có hay không lỗi nặng thì trước hết 
phải nghiên cứu dưới dạng thức có hay không 
tồn tại nghĩa vụ. Và trên thực tế cho dù người 
mua có thể xác nhận được thông tin trên nhãn 
mác, nhưng không nên xem đó là nghĩa vụ, do 
vậy người mua có lơ là việc xác nhận lại thông 
tin về hạn sử dụng sản phẩm cũng nên phán 
đoán đó không phải là lỗi nặng [7; 195]. 
 (3) Quan điểm thứ ba cho rằng [7; 183] 
Về cơ chế miễn trừ trách nhiệm đảm bảo 
khuyết tật cần phải đưa ra luận điểm dựa trên 
vấn đề phân tán rủi ro, cũng như nghĩa vụ 
giữa người mua và người bán [7; 195]. Quan 
điểm thứ ba dựa trên cơ sở lí luận đó là mục 
đích đẩy nhanh hoạt động giao dịch, thương 
mại. Tuy nhiên, việc xác định nghĩa vụ cho 
bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên bán thì 
cần phải có những tiêu chí đánh giá (giá trị) 
mang tính tích cực. Quan điểm thứ ba cho 
rằng cốt lõi của việc đảm bảo thúc đẩy giao 
dịch đó là hài hoà hoá lợi ích của cả bên mua 
và bên bán. 
Trong khi đó, quan điểm thứ nhất chưa 
cho thấy được tiêu chí thể hiện sự mong 
muốn cân bằng lợi ích, quyền và nghĩa vụ 
giữa bên mua và bên bán. 
Vậy thông thường người tiêu dùng mua 
thực phẩm qua nhà bán lẻ. Và khi lựa chọn sản 
phẩm trên thị trường, các vấn đề như hạn sử 
dụng, hạn bảo quản cũng như những thông tin 
khác là yếu tố quan trọng. Tuy nhiên trước yêu 
cầu kinh doanh mới vấn đề xác định quyền và 
nghĩa vụ giữa bên mua và bên bán về việc xác 
nhận những thông tin này cũng như nếu xem nó 
là rủi ro thì vấn đề phân tán rủi ro, là những vấn 
đề pháp lí mới cần tiếp tục bàn luận liên quan 
đến chi phí để quản lí sản phẩm của doanh 
nghiệp, chi phí tiêu hao của bên mua và đương 
nhiên đặt ra bài toán kinh tế luật ở đây. 
4.2. Trách nhiệm sản phẩm và an toàn thực phẩm 
Thực phẩm là vật chất liên quan trực tiếp 
đến sức khoẻ con người. Do vậy yêu cầu về tính 
an toàn được đặt lên hàng đầu. Những năm gần 
đây việc chế biến thực phẩm được đặt dưới 
những dây chuyền sản xuất vô cùng phức tạp, 
về mặt chế biến thì thực phẩm cũng giống như 
các sản phẩm hàng hoá khác là đối tượng điều 
chỉnh của luật trách nhiệm sản phẩm. Dưới góc 
độ bảo vệ người tiêu dùng, thì việc áp dụng 
Luật trách nhiệm sản phẩm là cơ chế hữu hiệu 
thực hiện chức năng của pháp luật BTTH ngoài 
hợp đồng như bù đắp thiệt hại cho người bị hại. 
Tuy nhiên, dưới đây cho thấy với những giới 
hạn như sau: 
- Thứ nhất, đối với thiệt hại do thực phẩm 
gây ra, doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phải 
BTTH với mức lớn, phạm vi rộng do thiệt hại 
liên quan trực tiếp tới sức khoẻ, tính mạng 
người tiêu dùng. Do vậy, tiềm lực tài chính của 
doanh nghiệp sẽ góp phần vào việc chức năng 
bù đắp thiệt hại của luật BTTH có được thực 
hiện hay không ? Vì trên thực tế nếu doanh 
nghiệp không có đủ khả năng kinh tế để thực 
hiện trách nhiệm BTTH thì quy định của luật 
cũng không có nhiều ý nghĩa, quyền và lợi ích 
của người tiêu dùng không được bảo vệ. 
- Thứ hai, thực phẩm có sự thay đổi rất 
lớn theo thời gian, đồng thời một lúc có sự 
pha trộn, kết hợp của nhiều nguyên vật liệu, 
rồi tuỳ từng cơ địa, thể trạng của người tiêu 
dùng sẽ có những ảnh hưởng khác nhau. Và 
việc phán đoán những khuyết tật cụ thể trong 
từng vụ riêng rẽ là cần thiết và không đơn 
giản, thậm trí rất khó khăn. 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 
42 
- Thứ ba, mối quan hệ giữa an toàn thực 
phẩm và khuyết tật sản phẩm rất trừu tượng. 
 Về an toàn thực phẩm, nếu theo quy định của 
Luật vệ sinh an toàn thực phẩm, pháp luật liên 
quan đến sử dụng đúng hoá chất trong nông 
nghiệp Hay liên quan đến quy cách và chất 
lượng sản phẩm theo luật về nông lâm nghiệp 
thì trong trường hợp doanh nghiệp chế biến, sản 
xuất thực hiện đúng quy trình về an toàn thì có 
thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hay không? 
Dưới góc độ lí luận, nhìn chung những quy 
trình liên quan đến an toàn thực phẩm thuộc 
phạm vi điều chỉnh của các quy định liên quan 
đến quản lí hành chính như xác định tiêu chuẩn 
tối thiểu về tính an toàn. Vì vậy việc tuân theo 
những quy định này có thể trở thành căn cứ để 
doanh nghiệp sản xuất kháng biện khi chứng 
minh không tồn tại khuyết tật do thực hiện 
đúng quy trình an toàn. Và đây được dự báo 
là một trong những khó khăn trên thực tiễn 
áp dụng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm 
trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. 
- Thứ tư, song song với trách nhiệm sản 
phẩm phải công nhận các cơ chế miễn trừ trách 
nhiệm dựa trên nguyên lí rủi ro phát triển. Vậy 
liên quan đến công nghệ biến đổi gen thực 
phẩm đặc biệt trong thời đại công nghệ 4.0, thì 
việc áp dụng cơ chế rủi ro phát triển sẽ giải 
quyết ra sao? Trong những trường hợp này cho 
dù có tồn tại khuyết tật sản phẩm, doanh nghiệp 
vẫn có khả năng được miễn trừ trách nhiệm nếu 
chứng minh được tại thời điểm hàng hoá lưu 
thông, khoa học công nghệ không thể phát hiện 
được khuyết tật. Thực tế cho thấy rất nhiều ý 
kiến cho rằng cùng với việc công nhận rủi ro 
phát triển quyền lợi của người tiêu dùng bị xã 
hội lờ đi [9; 35]. 
Mặt khác, nếu không công nhận cơ chế 
miễn trừ đối với trách nhiệm nghiêm ngặt sẽ 
tạo ra rào cản đối với phát triển KHCN kéo theo 
đó ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng 
với tư cách người thụ hưởng sự tiến bộ KHCN. 
Vậy để khắc phục được những giới hạn 
nêu trên, việc áp dụng trách nhiệm không dựa 
trên lỗi đối với doanh nghiệp để bảo vệ quyền 
lợi người tiêu dùng và cơ chế bảo hiểm hỗ trợ 
kèm theo là một trong những giải pháp có thể 
bàn tới. 
Thứ nhất, đối với vấn đề an toàn thực phẩm, 
cũng giống như vấn đề liên quan đến môi 
trường áp dụng trách nhiệm không lỗi và ngày 
càng thắt hẹp phạm vi miễn trừ trách nhiệm là 
cần thiết. Điểm cần lưu ý đó là cho dù công 
nhận cơ chế miễn trừ dựa trên nguyên lí rủi ro 
phát triển, sau khi đưa sản phẩm vào lưu 
thông, nếu biết được khuyết tật của sản phẩm, 
từ thời điểm đó doanh nghiệp sản xuất phải 
có nghĩa vụ công bố tính nguy hiểm của sản 
phẩm, chỉ dẫn, cảnh báo, tuỳ từng trường hợp 
cụ thể phải ngừng bán, thu hồi... khi sự cố 
phát sinh do không thực hiện các nghĩa vụ 
trên thì phải chịu trách nhiệm BTTH. Bên 
cạnh đó, không thể phủ nhận những đặc tính 
quan trọng của thực phẩm, những tác động của 
từng nhóm thực phẩm đối với đời sống xã hội 
cũng khác nhau như thực phẩm cho trẻ em như 
sữa, đồ ăn, thực phẩm cho người cao tuổi như 
thực phẩm chức năng... cần phải có những cơ 
chế xây dựng đặc thù. 
Do vậy, nhu cầu minh thị hoá trách nhiệm 
BTTH của doanh nghiệp trong luật chuyên 
ngành liên quan đến an toàn thực phẩm khi 
nhìn nhận Luật an toàn thực phẩm với vai trò 
ngành luật trung gian giữa luật công và luật 
tư là cấp thiết. 
Thứ hai, song song với việc áp dụng chủ 
nghĩa trách nhiệm không dựa trên lỗi, không thể 
thiếu cơ chế bảo hiểm đi kèm. Trên thực tế các 
quốc gia phát triển như Nhật Bản thúc đẩy cơ 
chế này rất mạnh mẽ. Dù cơ chế bảo hiểm của 
các doanh nghiệp liên quan đến thực phẩm là 
bảo hiểm tự nguyện, nhưng hàng năm có những 
nghiên cứu và báo cáo danh sách các doanh 
nghiệp tham gia bảo hiểm công bố rộng rãi và 
công khai. Thông qua đó ý thức của doanh 
nghiệp được nâng cao nhìn từ góc độ quản lí rủi 
ro của doanh nghiệp, niềm tin của người tiêu 
dùng được củng cố khi lựa chọn sản phẩm tiêu 
dùng [10; 49]. Và đặc biệt với cơ chế bảo hiểm 
cùng lúc pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng 
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 31-43 43 
thực hiện hai chức năng cơ bản đó là phân tán 
thiệt hại, bù đắp toàn bộ thiệt hại cho người tiêu 
dùng. Dưới góc độ lợi ích của doanh nghiệp 
đây được xem là cơ chế không thể thiếu cho dù 
vẫn tồn tại những vấn đề nhất định trong cấu 
trúc quản lí rủi ro của doanh nghiệp [9; 57]. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Xiang Li, Jigang Jin, Concise Chinese Tort Laws, 
Springer-Verlag Berlin Heidelberg, 2014. 
[2] Niwata Noriaki, Sự cố thực phẩm và vấn đề người 
tiêu dùng, Nghiên cứu Thương mại Mitsuda 27 (3). 
[3] Tạp chí án lệ số 307 (1974) 87-101. 
[4] Nakamura Hiroshi, Vi phạm hợp đồng và phương 
thức bảo vệ quyền (2), Tạp chí Đại học Doshisha 
32 (3) (1980). 
[5] Tạp chí Án lệ số 1109; Tạp chí thời báo án lệ 
số 1805. 
[6] Nozawa, Nghiên cứu pháp luật so sánh trách nhiệm 
đảm bảo khuyết tật Masamishi (6) - Nhật bản. Pháp. 
EU, Tạp chí Luật học Rikkyo 91 (2015). 
[7] Suzuki Miyako “Hạn bảo quản và trách nhiệm 
đảm bảo khuyết tật trong luật Đức” Tuyển tập 
luận văn đại học ngoại ngữ Tokyo, 91 (2015). 
[8] Felix Maultzsch, Hướng phát triển mới về trách 
nhiệm đảm bảo khuyết tật của người bán trong 
pháp luật Đức và Liên minh Châu Âu, Tạp chí 
nghiên cứu pháp luật chính sách 82 (2). 
[9] Katsuhiko Akabori, Luật trách nhiệm sản phẩm và 
quản lí rủi ro doanh nghiệp, Tạp chí luật học Học 
viện Kobe, 38 (3,4) (2009) 35. 
[10] Uchida, Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại và sự tham gia của doanh nghiệp đến đâu?, 
Tạp chí thứ 6, 26 (7) (2018). 

File đính kèm:

  • pdffood_safety_and_civil_liability_of_the_enterprise_from_the_c.pdf