Hoa văn trên vải của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên

TÓM TẮT

Nói đến nghề dệt vải, trước hết đó là một hoạt động kinh tế - là một nghề thủ công cổ truyền của

đồng bào Tày. Song ở khía cạnh văn hóa thì đó lại là sự biểu hiện của giá trị nghệ thuật, giá trị

thẩm mỹ. Trang phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, nét đặc sắc thể hiện ở những mẫu

hoa văn trên vải của họ. Sản phẩm vải thổ cẩm phong phú với nhiều mô típ hoa văn màu sắc đẹp

gần gũi với tự nhiên, thể hiện tín ngưỡng tôn giáo mang đặc trưng riêng của người Tày Định Hóa.

pdf 5 trang yennguyen 6660
Bạn đang xem tài liệu "Hoa văn trên vải của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoa văn trên vải của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên

Hoa văn trên vải của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên
Dương Quốc Huy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 159 - 163 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  159 
HOA VĂN TRÊN VẢI CỦA NGƯỜI TÀY Ở ĐỊNH HÓA - THÁI NGUYÊN 
Dương Quốc Huy* 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Nói đến nghề dệt vải, trước hết đó là một hoạt động kinh tế - là một nghề thủ công cổ truyền của 
đồng bào Tày. Song ở khía cạnh văn hóa thì đó lại là sự biểu hiện của giá trị nghệ thuật, giá trị 
thẩm mỹ. Trang phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, nét đặc sắc thể hiện ở những mẫu 
hoa văn trên vải của họ. Sản phẩm vải thổ cẩm phong phú với nhiều mô típ hoa văn màu sắc đẹp 
gần gũi với tự nhiên, thể hiện tín ngưỡng tôn giáo mang đặc trưng riêng của người Tày Định Hóa. 
Từ khóa: người Tày, hoa văn, thổ cẩm, trang phục, thầy Tào 
Dân tộc Tày là dân cư chiếm số đông ở huyện 
Định Hóa. Hiện nay, ở Định Hóa có 43.367 
người Tày chiếm 49,2% dân số toàn huyện. 
Có những xã của huyện Định Hóa người Tày 
chiếm tới 90% như: Linh Thông, Bộc Nhiêu, 
Điềm Mặc, Bình Yên 
Theo Đào Duy Anh trong tác phẩm “Đất 
nước Việt Nam qua các đời” thì người Tày ở 
nước ta có nguồn gốc từ người Lão Man ở 
Trung Quốc. Tác giả “đoán rằng người Nùng 
ở miền Nam Trung Quốc và người Tày ở Bắc 
Việt Nam là hậu duệ của họ. Đặc biệt là 
người Lão ở Tây Nguyên bấy giờ”. “Chúng 
ta có thể đoán rằng cư dân các châu ki mi 
thuộc An Nam đô hộ phủ là tiền thân của 
đồng bào Tày, Nùng ở khu vực Việt Bắc hiện 
nay”. [1, tr.103] 
Ngoài nguồn gốc từ phía Nam Trung Quốc. Ở 
Định Hóa còn một bộ phận người Kinh bị 
“Tày hóa” trong quá trình di cư và sinh sống 
cùng người Tày bản bản địa. 
Cư trú lâu đời trên mảnh đất Định Hóa, người 
Tày có đời sống vật chất và tinh thần phong 
phú và đa dạng. Một trong những nghề thủ 
công truyền thống mà người Tày còn lưu giữ 
đến ngày nay đó là nghề dệt vải. Nghề dệt đã 
gắn chặt với phong tục cưới xin truyền thống 
của người Tày từ bao đời nay. Để chuẩn bị 
hành trang về nhà chồng, các thiếu nữ Tày 
phải tự tay dệt rất nhiều vỏ chăn, gối để biếu 
những người thân trong gia đình nhà chồng. 
 Tel: 0985817689 
Người Tày ở Định Hóa rất ít thêu thùa và trang 
trí hoa văn trên bộ trang phục truyền thống của 
mình. Nhưng hoa văn được dệt trên vải thì rất 
phong phú và đa dạng tùy theo mục đích sử 
dụng. Hoa văn phong phú đó được thể hiện rất 
rõ qua vải thổ cẩm và trang phục thầy Tào. 
Cho đến nay nghiên cứu về nghệ thuật tạo 
hình trên vải của người Tày đã có một vài 
công trình đề cập đến. Cụ thể như trong cuốn 
“Trang trí dân tộc thiểu số” của tác giả 
Hoàng Thị Mong, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 
1994 đã có vài dòng đề cập đến hoa văn trang 
trí trên vải thổ cẩm của người Tày như hoa 
văn trên mặt chăn, mặt địu và màn che. Tuy 
nhiên tác giả mới chỉ kể ra hoa văn chứ chưa 
đi sâu vào nghệ thuật tạo hình trên vải và 
không đề cập đến hoa văn trên trang phục 
thầy Tào Tày. Như vậy, nghiên cứu về hoa 
văn trang trí trên vải và trang phục thầy Tào 
Tày còn rất sơ lược và cũng chưa có công 
trình nào nghiên cứu về hoa văn trên vải của 
người Tày ở Định Hóa để chỉ ra nét đặc trưng 
riêng của người Tày nơi đây. 
HOA VĂN TRÊN VẢI THỔ CẨM 
Vải thổ cầm của người Tày có 4 loại đó là 
mặt chăn, mặt địu, màn che và túi đeo. Mô típ 
trang trí hoa văn thổ cẩm đa dạng đó là: 
- Các mô típ đường viền hoa móc. Mỗi tấm 
vải thổ cẩm đều bố cục một cách chặt chẽ 
trong các đường viền xung quanh. Đường 
viền đó là các hình chữ T và chữ thọ liên tiếp 
đảo ngược nhau; băng ô cách, mỗi ô cách 
nhau một khoảng nền có kích thước bằng 1 ô, 
loại này thể hiện màu tương đối tùy tiện vì 
Dương Quốc Huy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 159 - 163 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  160 
các ô nền màu đen ngăn cách ô làm cho màu 
sắc ở mỗi ô kia nổi lên; băng hoa 6 cánh tròn 
rời nhau đồng màu hoặc khác màu 
- Mô típ hoa, lá, quả như hoa hồi 8 cánh hình 
thoi xếp thành 4 cặp đối xứng nhau hay hoa 
hồi kép 16 cánh ở giữa có nhân hình quả trám, 
mỗi mô típ hoa hồi nằm trong 1 ô hình thoi 
liên tiếp theo băng chéo và được phối màu 
tương phản; quả trám được bố trí theo băng 
chéo, nhân của mỗi hình thoi là một hình thoi 
nhỏ; hoa móc và quả trám nằm trong mô típ 
các băng chéo và hình thoi cùng với mô típ hoa 
hồi kép. Hai loại này đối màu nhau 
Đặc biệt ở những tấm vải thổ cẩm làm màn 
che ở nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thường 
thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng 
tôn giáo như thêm đường diềm ở phía trên 
tương ứng cho cõi trời có hình các vị thần 
linh bảo hộ cho sự sống bình an của con 
người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới 
tương ứng với cõi đất có hình người phụ nữ 
mặc váy xòe hay hình người đàn ông đứng 
thẳng, tay buông xuôi, đầu đội mũ, hình con 
ngựa, con chim là những hình tượng trưng 
cho cuộc sống, con người, cỏ cây, muông 
thú như quan niệm về vũ trụ của người 
Tày. Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, 
như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn 
phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách 
điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh 
Qua hoa văn trên vải thổ cẩm, ta thấy được sự 
khéo léo, kỹ thuật dệt và sức sáng tạo của 
người Tày ở Định Hóa. Trước hết về kỹ thuật 
dệt. Để thổ cẩm với các đồ án hoa văn đã 
định, ngoài việc dàn sợi trên khung cửi thì 
vấn đề quyết định là cài sợi lên go. Go là một 
dàn sợi, chất liệu bằng vỏ đay đứng vuông 
góc với mặt phẳng của dàn vải. Tùy theo khổ 
rộng của phần hoa cần dệt, số lượng các sợi 
go tương ứng với các sợi dọc của phần đó. 
Khi dệt vải, người thợ đạp một bên guốc để 
nhấc các sợi dọc, tương ứng với mỗi lần luồn 
con thoi kéo sợi ngang và một lần cải chỉ màu 
vào các mô típ hoa văn do bộ go quy định. Cứ 
như vậy, đồ án hoa văn hiện dần lên mặt dưới 
của tấm vải đang dệt. Mặt trên là mặt trái với 
các đầu chỉ thừa của chỉ màu. Trước đây với 
kỹ thuật pha màu và nhuộm sợi bằng thảo 
mộc nên hầu hết các loại thổ cẩm có màu sắc 
sẫm và đơn điệu. Ngày nay, đồng bào đã sử 
dụng các loại thuốc nhuộm công nghiệp và 
chỉ nhuộm sẵn nên hoa văn có phần sặc sỡ và 
phong phú hơn. 
Hoa văn trên vải của người Tày còn thể hiện 
sự công phu, khéo léo của người thợ. Chẳng 
hạn như dệt mặt chăn. Mặt chăn là phần ô 
vuông nằm giữa mặt trên của chiếc vỏ chăn 
gồm 4 tấm thổ cẩm ghép lại. Để dệt một mặt 
chăn sao cho khi ghép, các mô típ hoa văn ăn 
nhập với nhau, người ta phân ra làm 4 công 
đoạn hoặc dùng 2 khung cửi khác nhau: Một 
chiếc dệt hai tấm bên cạnh, 2 tấm ngoài việc 
dệt hoa văn cải tiếp theo 2 tấm giữa còn cải 
hoa văn viền (1 tấm viền phải và hai đầu, 1 
tấm viền trái và 2 đầu). Chiếc khác dệt hai 
tấm giữa, chỉ viền hai đầu sao cho khớp với 
phần viền của các tấm bên. Khi ghép 4 tấm lại 
sẽ thành 1 tấm mặt chăn có viền xung quanh. 
Ta cũng thấy rằng, ngoài màn che nơi thờ 
cúng tổ tiên ra là có mô típ hình người, hình 
động vật, còn các sản phẩm thổ cẩm khác như 
mặt chăn, mặt địu, túi đeo, người Tày không 
sử dụng mô típ trang trí hình người, động vật 
trên vải thổ cẩm. Điều này cũng khác biệt với 
hoa văn trên vải thổ cẩm của người Thái và 
người Mường. 
Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình 
chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc 
màn che có quy định phía trên phía dưới - là 
những bố cục riêng có trong trang trí dệt của 
người Tày, mà các dân tộc khác không có. 
Nếu như với bố cục hình vuông trên vải thổ 
cẩm, người Nùng áp dụng lối bố cục đối xứng 
quay quanh điểm trung tâm tạo cho đồ án 
trang trí vui mắt thì người Tày lại áp dụng lối 
đăng đối tuyệt đối. Đây cũng là bố cục trang 
trí mang đặc trưng của dân tộc Tày. 
HOA VĂN TRÊN TRANG PHỤC 
THẦY TÀO 
Hoa văn trên trang phục thầy Tào của người 
Tày ở Định Hóa bao gồm mô típ hoa văn 
trang trí trên mũ và trên áo. 
Dương Quốc Huy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 159 - 163 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  161 
- Mũ: Trên mũ của thầy Tào (loại mũ ngũ 
nhạc) người ta trang trí hình rồng bán thân 
hoặc phượng hình gà trống. Hình rồng bán 
thân, được thêu bằng chỉ màu vàng, đỏ và 
xanh trên nền đen, thân rồng thêu chỉ vàng 
theo từng mảng xuôi và phủ kín, tạo thành các 
mảng vảy to, quanh thân viền chỉ xanh. Rồng 
có tư thế ngang, đầu tròn hai mắt đen, lồi to, 
viền nhân mắt bằng chỉ trắng, lông mày dài, 
màu trắng vuốt về phía sau, mi mắt đỏ, cổ 
vươn cao, một chân vươn về phía trước, một 
chân quặp về phía sau gồm 4 ngón. Trên lưng 
rồng là hình bó lúa nằm dọc theo thân. Phía 
dưới ngực là một mô típ các quả cau nối 
nhau, thêu chỉ đỏ viền trắng. Hình hai con 
rồng bán thân đang chầu quả bầu. Quả bầu 
này tượng trưng cho sự hoàn chỉnh, trường 
thọ, giàu sang, hạnh phúc; Phượng hình gà 
trống thêu chỉ màu trắng, xanh, đỏ, vàng trên 
nền đen, viền khung theo hình mặt mũ. 
Phượng có thân ngắn mập, đuôi to tròn. Đầu 
phượng to, mỏ đỏ, mặt vàng, mắt đỏ. Mào 
gồm hai phần: phần trên đỉnh đỏ, màu xanh, 
phần sau dài, nhọn, màu đỏ, dưới cằm có 2 
mào hạ màu xanh. Cổ to ngắn viền ngoài có 
hàng lông trắng, to, 2 cánh xòe rộng, bả cánh 
đỏ, mỗi cánh có hai tia lông vàng, đỏ từ trên 
xuống. Chân dài màu trắng, đùi dài, gập về 
phía trước, 5 ngón chụm vào nhau. Toàn thân 
thêu chỉ vàng xen màu xanh. Cả hai con 
phượng ở tư thế nghiêng, xòe cánh chầu vào 
quả bàu vàng ở giữa. 
- Áo: Trên hai thân trước áo của thầy Tào của 
người Tày ở Định Hóa trang trí nhóm rồng – 
cá – hồ lô và người cưỡi ngựa theo chiều dọc 
từ trên xuống. Mô típ này thêu bằng chỉ màu 
trắng, xanh, vàng trên nền đen. Rồng ở đây là 
rồng toàn thân. Thân rồng uốn lượn, đuôi 
ngắn, nhọn, thả theo chiều dọc, lưng xanh, 
bụng trắng. Toàn thân phủ vẩy, đầu nhỏ, mồm 
dài, lưỡi đỏ, mi mắt đỏ, tóc bờm trắng, vuốt ra 
phía sau. Từ phần ngực rồng vươn cao, hai 
chân trước dang rộng xòe 5 ngón hình chân 
gà. Chân sau đứng thẳng, một chân bị lấp. 
Loại rồng này được trang trí theo cặp: hai bên 
thân áo chầu và giữa trong nhóm dọc cùng 
với cá, hồ lô, người cưỡi ngựa. 
Mặt sau áo phía trên cùng có trang trí hình 
phượng bay. Người ta trang trí hình phượng 
bay ở hàng thứ 2 và 4 của 2 cột dọc bên cạnh 
của mặt sau áo. Mô típ thêu chỉ màu đỏ, 
trắng, xanh, vàng nhạt trên nền đen. Các con 
phượng được bố cục thành hai cặp đối xứng 
và quay đầu vào nhau theo tư thế nằm 
nghiêng, cách nhau một mảng trang trí dọc ở 
phần giữa áo. Phượng có thân thon, cổ to, 
thấp, phần đuôi to, tròn, thân thêu bằng chỉ 
trắng xen vàng nhạt. Đầu thon có mào xanh, 
mỏ dài trắng, mắt chấm đỏ, hai cánh dang rộng, 
mỗi cánh có 4 tia lông trắng, ba cánh màu đỏ, 
hai chân nhỏ nằm dưới bụng có 3 ngón, một cựa 
phía sau, lông đuôi có 3 chiếc to, 2 chiếc sau 
nhạt, 1 chiếc màu đỏ nằm ở giữa. [3, tr.35] 
Trên lưng áo thầy Tào có trang trí rồng toàn 
thân đuôi chùm trong nhóm “Lưỡng long 
chầu lá đề Đại La Thiên”. Toàn bộ mô típ 
thêu bằng chỉ màu xanh, đỏ, vàng ở mức độ 
nhẹ trên nền màu đen. Rồng có thân uốn lượn, 
buông từ trên xuống, phần ngực đầu ngóc lên, 
chầu sang hình lá đề. Toàn thân thêu chỉ màu 
vàng nhạt. Dọc sống lưng có vây nhọn, thưa, 
thêu chỉ màu xanh nhạt. Đầu rồng to, lộ hàm 
răng nhọn. Lưỡi ngắn, nhỏ, hai mép bên có hai 
sợi râu uốn lượn trên hình bướm. Trên đỉnh đầu 
có hai chiếc sừng ngắn màu trắng, hai chân 
trước có tư thế đang bước đi, xòe bốn ngón dài, 
hình móng gà. Đoạn giữa thân bị lấp bởi đường 
viền cạnh và đám mây hình xoắn. Phần đuôi 
rồng to, khỏe có chùm lông to, thẳng. 
Hai con rồng toàn thân đuôi chùm trên có tư 
thế chầu hai bên lá đề. Lá đề đó tượng trưng 
cho núi Đại La Thiên là nơi cư ngụ của các vị 
quyền thế ở trên cõi trời theo quan niệm của 
người Tày. Lá đề là hình tim có các rìa cạnh, 
ở chính giữa có ba hình người bán thân 
Trong khung hình chữ nhật ở hàng thứ 3 cột 
dưới họa tiết rồng toàn thân đuôi chùm, người 
ta trang trí họa tiết kỳ lân đầu rồng đuôi cá 
được trang trí đứng độc lập. Con kỳ lân được 
thêu chỉ màu trắng trên nền đen. Mặt xanh, 
dọc sống lưng có vây đỏ, mồm há rộng, hai 
mắt tròn, đầu quay về phía sau, 4 chân đứng 
hơi quỳ, đuôi ngắn hình đuôi cá. 
Dương Quốc Huy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 159 - 163 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  162 
Ba hàng phía dưới được trang trí hình người, 
mỗi hàng có một người ngồi ở giữa và hai bên 
có bốn người đứng, người hướng về phía 
người ngồi giữa. Theo đồng bào Tày những vị 
này tượng trưng cho 28 vì sao trên trời. Mô 
típ hình người này được thêu bằng chỉ màu 
vàng nhạt, xanh nhạt và đỏ xen kẽ nhau. Mô 
típ hình người này được trang trí ở ba hàng 
ngay phía dưới hình rồng chầu lá đề. 
Ở hàng tiếp theo là họa tiết hình lá đề ở chính 
giữa có hình một chiếc miếu nhỏ, có đề tên 
của các ngọn núi nơi ngự trị của các vị thần 
cai quản và bảo vệ con người. 
Bên cạnh đó áo thầy Tào còn được trang trí 
bởi các hình ngựa lùn thân có vẩy thêu bằng 
chỉ màu xanh theo dạng lưới tạo thành vảy 
trên toàn thân; hình cá đầu nhọn, vẩy nhỏ thêu 
chỉ vàng nhạt và xanh lơ theo dạng mắt lưới. 
Thân màu vàng, đầu xanh, không có mắt, bốn 
vây dưới bụng nhỏ, lưng không có vây, đuôi 
ngắn xòa rộng. 
Một hàng dọc từ phía trên xuống đến gấu áo 
mặt sau lưng áo Tày phía bên trái là mô típ 
hình hoa cách điệu. Đó là hoa mai bốn cánh 
to. Sở dĩ trang trí hoa mai vì theo đồng bào, 
hoa mai là biểu tượng của sự giàu sang, phú 
quý. Trong lòng bông hoa có thêu các chữ 
Nôm Tày. 
Các họa tiết trang trí trên trang phục thầy Tào 
Tày, ngoài các họa tiết chính trên còn điểm 
thêm các họa tiết phụ như các loại sao, hình 
mây, làm cho các họa tiết bớt nặng nề và 
trở nên hòa nhập hơn giữa thế giới huyền ảo 
với thế giới thực. 
Nhìn chung, hoa văn trên trang phục thầy Tào 
chủ yếu là mô típ hình rồng, phượng, kỳ lân, 
hình người, hình núi cách điệu lá đề. Người 
Tày đã tiếp thu một cách có chọn lọc các yếu 
tố nghệ thuật ngoại lai và ít nhiều cải biến 
thành nét văn hóa đặc trưng của mình. Đồng 
thời nó cũng thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của 
người Tày. Thầy Tào là lớp người có khả 
năng giao tiếp với các vị thần trên cõi trời, là 
cầu nối giữa con người và các vị thần theo 
quan niệm của đồng bào nơi đây. Do vậy, mà 
hoa văn trang trí trên trang phục thầy Tào 
cũng thể hiện sự linh thiêng, huyền bí và đậm 
màu sắc tôn giáo. 
Màu sắc của trang phục thầy Tào người Tày 
gồm các mầu đỏ, vàng, trắng, lục, lam, chàm. 
Màu nền của áo là màu chàm. Trên nền chàm 
người Tày đã thêu và ghép vải tạo thành một 
dải hoa văn đan sít nhau khiến cho màu chàm 
của nền áo bị thu hẹp còn hoa văn lại hiện ra 
sặc sỡ. Hầu hết các họa tiết chính đều là mầu 
đỏ và màu vàng đặt cạnh nhau. Các nghệ 
nhân dân gian đã khéo léo sử dụng các màu 
sắc nhằm đấu chọi với màu chàm của nền áo 
tạo nên sắc rực rỡ của trang phục thầy Tào. 
Trang phục thầy Tào thực sự là bức tranh 
nghệ thuật phản ánh đậm nét vũ trụ quan của 
người Tày ở Định Hóa. 
Tóm lại, hoa văn trang trí trên trang phục thầy 
Tào người Tày ở Định Hóa là những họa tiết 
có tính khái quát và tính biểu tượng rất sâu 
sắc. Mỗi họa tiết thêu, vẽ và ghép vải đều 
hàm chứa một hay nhiều ý và tuân theo một 
nguyên tắc khắt khe về màu sắc, bố cục và 
đường nét. Có những yếu tố khác với tính tự 
nhiên, phóng khoáng của nghệ thuật dân gian. 
Nhưng nhìn chung đó là những ước lệ phản 
ánh tín ngưỡng nên mặc dù đạt ở trình độ 
thẩm mỹ cao nhưng lại bó hẹp trong khuôn 
mẫu. Chính vì thế, trang trí hoa văn trên trang 
phục tín ngưỡng của người Tày đã trải qua 
nhiều thời kỳ, đến nay nó vẫn bảo lưu gần 
như nguyên vẹn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua 
các đời, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
[2]. Bộ Văn hóa thông tin – Bảo tàng Văn hóa 
các dân tộc Việt Nam (2005), 45 năm Bảo tàng 
văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên 
[3]. Diệp Trung Bình (1997), Hoa văn trên vải 
các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, 
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
[4]. Đỗ Thị Hòa (2004), Trang phục các dân tộc 
thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt – Mường và Tày – 
Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
[5]. Hoàng Thị Mong (1994), Trang trí dân tộc 
thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 
Dương Quốc Huy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 159 - 163 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  163 
SUMMARY 
PATTERN ON THE FABRICS OF THE TAY IN DINH HOA (THAI NGUYEN) 
Duong Quoc Huy
College of Education – Thai Nguyen University 
When talking of fabric weaving, firstly it is an economic activity – and it is a traditional handicraft 
of the Tay ethnic minority. However, in the cultural aspect, that is an expression of artistic value, 
aesthetic value. The Tay’s costumes are simply an indigo color, outstanding features is reflected in 
the patterns on their fabrics. Products made of brocade fabrics are plentiful with many pattern 
motifs, beautiful color and very friendly with the nature, expressing religious beliefs which are 
personal characteristics of the Tay in Dinh Hoa. 
Key words: the Tay, patterns, fabrics, costumes, the master Tao 
 Tel: 0985817689 

File đính kèm:

  • pdfhoa_van_tren_vai_cua_nguoi_tay_o_dinh_hoa_thai_nguyen.pdf