Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay

TÓM TẮT

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã mở ra cho các ngân hàng thương mại

(NHTM) Việt Nam nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài, tiếp nhận và triển

khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nâng cao khả năng phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, điều

này cũng mang lại những thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam trong thời gian qua khi

mà quy mô vốn của các ngân hàng nhỏ, năng lực quản trị điều hành còn nhiều hạn chế, sản phẩm

dịch vụ nghèo nàn, nợ xấu tăng cao, Vì vậy, nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời thì các

NHTM Việt Nam rất khó đạt được mục tiêu phát triển bền vững như đã đề ra. Bài viết đánh giá thực

trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam; chỉ ra những hạn chế và đề xuất số giải pháp để hoàn

thiện hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay.

pdf 6 trang yennguyen 4500
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay

Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay
11
Hoạt động của . . .
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM HIỆN NAY
Nguyễn Quỳnh Hoa*
TÓM TẮT
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã mở ra cho các ngân hàng thương mại 
(NHTM) Việt Nam nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài, tiếp nhận và triển 
khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nâng cao khả năng phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, điều 
này cũng mang lại những thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam trong thời gian qua khi 
mà quy mô vốn của các ngân hàng nhỏ, năng lực quản trị điều hành còn nhiều hạn chế, sản phẩm 
dịch vụ nghèo nàn, nợ xấu tăng cao,  Vì vậy, nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời thì các 
NHTM Việt Nam rất khó đạt được mục tiêu phát triển bền vững như đã đề ra. Bài viết đánh giá thực 
trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam; chỉ ra những hạn chế và đề xuất số giải pháp để hoàn 
thiện hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Ngân hàng thương mại, sản phẩm, dịch vụ, vốn tự có, nợ xấu
ACTIVITIES OF THE VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS: 
PRESENT CONSIDERABLE ISSUES
ABSTRACT
The wide and deep international economic integration process has brought more 
opportunities for the commercial banks to cooperate with foreign partners, receive and implement 
modern banking, enhance customer service capability. However, this has induced challenges to 
the Vietnamese Commercial banks during the past period when the small- scale banks with limited 
operational capacity, poor services and highly increasing bad debts, etc. Therefore, if there are 
no timely correcting solutions, these banks have difficulties in achieving their expected stable 
developing goals. The article expresses the operational reality of the Vietnamese commercial banks, 
points out the drawbacks and promotes some solutions for their operational perfection. 
Key words: Commercial Banks, Products, Services, Equity, Bad debts
* Giảng viên (NCS) trường đại học Ngân hàng TP.HCM . Email: quynhhoapnd@yahoo.com
1. Giới thiệu
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng 
gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế 
hàng hóa. Hoạt động ngân hàng là việc kinh 
doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một 
số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi, cấp 
tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua 
tài khoản. Trong thời gian qua, ngành ngân 
hàng Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm 
vụ của mình, luôn giữ vai trò quan trọng là 
12
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
huyết mạch của nền kinh tế, là hơi thở trong 
mọi hoạt động của đời sống xã hội, là nhân 
tố không thể thiếu để tập trung nguồn lực 
vốn cho phát triển đất nước. Tuy nhiên, kể từ 
khi Việt Nam gia nhập WTO và mở cửa thị 
trường ngân hàng, tài chính các NHTM Việt 
Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt 
hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các 
khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Châu 
Âu, Singapore, Nhật Bản,... và chịu tác 
động của những biến động trên thị trường 
tài chính quốc tế nhiều hơn. Hoạt động của 
các NHTM Việt Nam từ năm 2008 đến nay 
đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn, đó là: vốn tự 
có nhỏ bé, thanh khoản khó khăn, nợ xấu có 
dấu hiệu tăng cao, chất lượng quản trị điều 
hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, 
lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi 
ro cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống,  Do 
đó, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời 
sẽ có nguy cơ xảy ra rủi ro gây mất an toàn hệ 
thống. Bài viết sử dụng phương pháp thống 
kê phân tích để đánh giá thực trạng hoạt động 
của các NHTM Việt Nam, chỉ ra những hạn 
chế và đề xuất các giải pháp nhằm hoạn thiện 
hoạt động của các NHTM Việt Nam trong 
thời gian tới.
2. Thực trạng hoạt động của các ngân 
hàng thương mại Việt Nam
Thứ nhất, về quy mô vốn
Quy mô vốn của các NHTM Việt Nam đã 
được cải thiện. Tính đến ngày 31/12/2012 tất 
cả các NHTM Việt Nam đều đã đạt được mức 
vốn tổi thiểu theo quy định và có tỷ lệ an toàn 
vốn đạt tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế. Tuy 
nhiên, so với các NHTM của các quốc gia 
trong khu vực thì vốn tự có của các NHTM 
Việt Nam còn rất khiêm tốn. Với tỷ lệ vốn tự 
có quá thấp so với tổng tài sản có, các Ngân 
hàng khó có thể khống chế những diễn biến 
xấu, phức tạp trên thị trường, do vậy độ rủi 
ro cao. Không những thế, khả năng tiếp cận 
công nghệ cao, hiện đại cũng sẽ bị hạn chế 
trong điều kiện vốn tự có thấp. 
Thứ hai, về hoạt động huy động vốn
Tình hình huy động vốn của toàn hệ thống 
ngân hàng liên tục tăng qua các năm, tuy nhiên 
tốc độ tăng có chiều hướng giảm xuống là do 
sự gia tăng thị phần của các ngân hàng nước 
ngoài và nền kinh tế gặp khó khăn. Để gia 
tăng nguồn vốn huy động, các NHTM Việt 
Nam đã áp dụng rất nhiều chính sách trong đó 
đặc biệt phải kể đến là chính sách lãi suất. Lãi 
suất huy động thực tế vượt khung lãi suất quy 
định của ngân hàng Nhà nước, có diễn biến 
rất phức tạp và có thời điểm được ví là “căng 
như dây đàn” khi các ngân hàng đua nhau 
tăng lãi suất. Điển hình cho việc huy động 
vốn vượt trần lãi suất và bị ngân hàng Nhà 
nước quyết định xử lý vào ngày 15/9/2011 là 
3 chi nhánh của hai ngân hàng: Ngân hàng 
thương mại cổ phần Đông Á, Ngân hàng 
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt 
Nam chi nhánh Ba Đình (tỉnh Thanh Hóa) và 
phòng Giao dịch Tôn Đức Thắng chi nhánh 
Sài Gòn. Việc cạnh tranh trong huy động vốn 
bằng cách chạy đua lãi suất là một cuộc cạnh 
tranh không lành mạnh giữa các NHTM Việt 
Nam trong thời gian qua và nó tạo ra rất nhiều 
hệ lụy cho không những bản thân các ngân 
hàng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát 
triển của nền kinh tế.
Thứ ba, về hoạt động tín dụng
Dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM Việt 
Nam tăng lên khá nhanh. Trong giai đoạn 
2008-2012, tốc độ tăng trưởng dư nợ bình 
quân khá cao đạt trên 21,2%. Tốc độ tăng 
trưởng dư nợ tín dụng liên tục tăng qua các 
năm cho thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam 
đã có đóng góp rất lớn vào việc phát triển nền 
13
Hoạt động của . . .
kinh tế. Bên cạnh sự phát triển nhanh cả về 
quy mô và tốc độ tăng trưởng, hoạt động tín 
dụng của các NHTM Việt Nam thời gian qua 
còn ẩn chứa rất nhiều hạn chế cần sớm được 
khắc phục như là: tỷ lệ cấp tín dụng so với 
nguồn vốn huy động vượt xa mức cho phép 
của NHNN làm cho tính thanh khoản của hệ 
thống luôn căng thẳng; tín dụng tăng trưởng 
nóng dẫn đến chất lượng tín dụng giảm thấp 
và nợ xấu tăng cao; cơ cấu kỳ hạn cho vay và 
kỳ hạn huy động không cân đối đã phát sinh 
rủi ro kỳ hạn ở các ngân hàng.
Thứ tư, về sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam 
đã và đang không ngừng nghiên cứu và đưa 
ra những sản phẩm mới để ngày càng đáp ứng 
tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế. Bên cạnh 
hoạt động huy động và cho vay, hoạt động 
của các NHTM Việt Nam đã đa dạng trên các 
mặt dịch vụ: ngân hàng bán buôn và bán lẻ 
trong và ngoài nước, cho vay đầu tư, tài trợ 
thương mại, bảo lãnh và tái bảo lãnh, kinh 
doanh ngoại hối, tiền gửi, thanh toán, chuyển 
tiền, phát hành và thanh toán thẻ tín dụng 
trong nước và quốc tế, séc du lịch, kinh doanh 
chứng khoán, bảo hiểm và cho thuê tài chính. 
Các dịch vụ tín dụng và phí tín dụng của ngân 
hàng đã đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của 
khách hàng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, 
các NHTM Việt Nam còn phải cố gắng nhiều 
hơn nữa trong hoạt động kinh doanh bởi một 
số lý do: chưa gây dựng được lòng tin vững 
chắc cho khách hàng về chất lượng sản phẩm; 
sản phẩm chưa phong phú về số lượng, nhất 
là đối với các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế 
như: quan hệ giao dịch với các ngân hàng đại 
lý, thanh toán quốc tế, thương mại và tài trợ 
xuất nhập khẩu và giao dịch kinh doanh ngoại 
hối, ...; chưa chú trọng nhiều đến cạnh tranh 
về chất lượng phục vụ và công nghệ mà chủ 
yếu nhờ mở rộng mạng lưới, cạnh tranh về giá 
cả và lãi suất; việc mở rộng mạng lưới ngân 
hàng có sự sai lệch đã tạo ra những lực cản 
rất lớn cho khả năng tiếp cận các dịch vụ tài 
chính của các khu vực dân cư,...
Thứ năm, về năng lực quản trị điều hành
Tại Việt Nam, trong những năn gần đây, 
các doanh nghiệp đã có những tiến bộ trong 
cách tiếp cận với vấn đề quản trị công ty. Năm 
2007, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 
12/2007/QĐ – BTC ngày 13/3/2007 về Quy 
chế Quản trị công ty áp dụng cho các công ty 
niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán. Nghị 
định số 59/2009/NĐ – CP ngày 16/7/2009 về 
tổ chức và hoạt động của NHTM, Luật Các tổ 
chức tín dụng năm 2010 có một số quy định 
liên quan đến quản trị công ty tại các NHTM. 
Có thể nói, từ khi các văn bản liên quan đến 
quan trị công ty tại các NHTM ra đời, năng 
lực quản trị điều hành của các NHTM Việt 
Nam đã được nâng lên một bước rõ rệt so 
với giai đoạn trước. Nhiều NHTM đã áp dụng 
các mô hình quản lý hiện đại (quản lý rủi 
ro, quản lý tín dụng, quản lý tài sản nợ), 
tiến gần hơn đến mô hình quản lý của các 
ngân hàng trên thế giới và phù hợp hơn 
với bối cảnh đầy biến động của thị trường tài 
chính trong và ngoài nước. Tuy nhiên, quản 
trị công ty hiện tại vẫn đang là một phạm trù 
kinh tế rất mới ở Việt Nam. Vì vậy, những vấn 
đề cơ bản trong quản trị công ty như mối quan 
hệ giữa Hội đồng quản trị và Ban điều hành, 
vai trò thực sự của Ban kiểm soát, tính minh 
bạch, công khai, chưa được hiểu biết đầy đủ 
và áp dụng theo thông lệ. Quản trị ngân hàng 
ở Việt Nam thời gian qua đã bộc lộ không ít 
những hạn chế mà nếu không khắc phục thì 
các NHTM Việt Nam rất khó cạnh tranh trong 
điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như 
hiện nay.
14
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Thứ sáu, về hiệu quả hoạt động kinh 
doanh
Giai đoạn 2008 – 2012 là thời kỳ khó 
khăn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 
bởi sự ảnh hưởng và tác động của cuộc khủng 
hoảng kinh tế toàn cầu. Tính đến cuối năm 
2012, tổng lợi nhuận trước thuế của hệ thống 
NHTM Việt Nam đạt 28.600 tỷ đồng, giảm 
48,95% so với năm 2011. Một số nguyên 
nhân chính khiến cho lợi nhuận của ngành 
ngân hàng năm 2012 sụt giảm mạnh: tín dụng 
tăng trưởng thấp, mặt bằng lãi suất cho vay 
giảm, xu hướng mở rộng hệ thống đã làm 
tăng chi phí hoạt động, chi phí dự phòng 
rủi ro tăng mạnh so với các năm trước, rủi 
ro trong kinh doanh vàng. Vì cho vay vẫn là 
mảng hoạt động mang lại thu nhập chính tại 
các NHTM Việt Nam nên khi nền kinh tế gặp 
khó khăn, NHNN thắt chặt tiền tệ, khống chế 
tăng trưởng tín dụng thi tốc độ tăng trưởng 
lợi nhuận năm 2012 của các NHTM Việt 
Nam giảm hẳn. Do đó, trong thời gian tới 
các NHTM Việt Nam cần phải chú trọng phát 
triển hoạt động dịch vụ hơn nữa nhằm duy trì 
hoạt động hiệu quả và ổn định hơn.
Thứ bảy, về sở hữu
Từ năm 2008 đến nay, cấu trúc sở hữu 
trong hệ thống NHTM Việt Nam có sự thay 
đổi rất lớn. Việc bốn trong số năm NHTM 
Nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa, chính 
thức hoạt động theo mô hình đa sở hữu; việc 
Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/
NĐ-CP quy định mức vốn pháp định tối thiểu 
của NHTMCP là 1.000 tỷ đồng với thời hạn 
đến cuối năm 2008 và 3.000 tỷ đồng đến 
cuối năm 2010 và việc Việt Nam trở thành 
thành viên thứ 150 của WTO cũng làm cho 
cấu trúc sở hữu của các NHTM Việt Nam có 
nhiều thay đổi và đã hình thành cấu trúc sở 
hữu chéo và đa phương giữa ngân hàng với 
doanh nghiệp và ngân hàng với ngân hàng. 
Trên thực tế, sở hữu chéo đem lại những lợi 
ích nhất định như: sở hữu chéo giữa doanh 
nghiệp và ngân hàng giúp doanh nghiệp đảm 
bảo nguồn tài trợ ổn định từ các ngân hàng 
mà họ nắm giữ cổ phần. Sở hữu chéo giữc các 
ngân hàng với nhau trên cơ sở của các quyết 
định đầu tư mang tính chiến lược của mình 
thì lợi ích tạo ra có thể là việc khái thác các 
lợi thế của nhau về mạng lưới chi nhánh, dịch 
vụ phi tín dụng, công nghệ, và hỗ trợ nhau về 
thanh khoản, cho vay hợp vốn, chuyển giao 
công nghệ. Bên cạnh những lợi ích mang lại 
thì sở hữu chéo đang là nguyên nhân của một 
số ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn và lành 
mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam như: 
làm nảy sinh rất nhiều khoản nợ xấu do cho 
vay theo quan hệ; tạo ra những chi phí, đặc 
biệt là rủi ro mang tính hệ thống; các quy định 
về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập 
dự phòng rủi ro của NHNN có thể bị làm sai 
lệch tinh thần bởi sở hữu chéo; có thể dẫn tới 
tình trạng tăng vốn ảo nên nguồn lực và khả 
năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không 
được đánh giá đúng mức. 
3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động của 
các NHTM Việt Nam
3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh 
môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động của 
các ngân hàng theo hướng đầy đủ, đồng bộ 
và phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc 
tế, đồng thời vẫn giữ được những đặc thù của 
nền kinh tế Việt Nam, tạo môi trường thông 
thoáng cho các NHTM Việt Nam. Đồng thời, 
nâng cao hiệu lực quản lý nhằm đảm bảo 
thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp 
luật chi phối hoạt động của các NHTM trong 
đó cần chỉnh sửa lại nghị định phòng chống 
rửa tiền vì một số quy định trong nghị định 
15
Hoạt động của . . .
này chưa phù hợp với thực tế và gây khó khăn 
cho hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, giảm dần các biện pháp hành 
chính trong điều hành chính sách tài chính 
tiền tệ. NHNN cần giảm dần việc can thiệp 
vào thị trường tài chính tiền tệ bằng các biện 
pháp hành chính mà nên sử dụng các công 
cụ thị trường để điều tiết. Các trường hợp cụ 
thể cần thiết sự can thiệp của Chính phủ và 
NHNN, Chính phủ và NHNN cần can thiệp 
không quá cứng nhắc mà nên tạo khung dao 
động để các NHTM vận dụng phù hợp với 
tình hình cụ thể của từng NHTM nhằm tạo 
tính cạnh tranh giữa các NHTM với nhau.
Thứ ba, tạo môi trường lành mạnh, công 
bằng giữa các ngân hàng thương mại Việt 
Nam. Trong thời gian qua, các NHTM Nhà 
nước nhận được hậu thuẫn và ưu ái của 
NHNN. Chính vì vậy, các NHTM Nhà nước 
không có áp lực phải tăng vốn như các NHTM 
cổ phần. Chính vì có sự hậu thuẫn của NHNN 
nên các NHTM Nhà nước có nhiều thuận lợi 
trong dịch vụ phi tín dụng do mức phí cạnh 
tranh hơn. Trong thời gian tới, NHNN cần tạo 
sân chơi lành mạnh và công bằng hơn cho các 
NHTM để các NHTM cổ phần có cơ hội cạnh 
tranh bình đẳng cùng các NHTM Nhà nước.
Thứ tư, nâng cao vai trò Ngân hàng Nhà 
nước. Việc nâng cao vai trò ngân hàng trung 
ương của NHNN Việt Nam sẽ hỗ trợ đồng thời 
kiểm soát tốt hoạt động của các ngân hàng 
thương mại. Thực hiện tốt chức năng quản lý 
Nhà nước về tiền tệ - tín dụng - ngân hàng 
trên địa bàn Thành phố, đảm bảo nắm bắt, 
phân tích và đánh giá kịp thời diễn biến của 
thị trường tài chính, trong đó, nắm bắt nhanh 
những diễn biến của các yếu tố thị trường 
như: lãi suất, tỷ giá, giá vàng, giá cổ phiếu, 
dự báo diễn biến tình hình kinh tế có tác động 
liên quan đến ngân hàng nhằm phục vụ hiệu 
quả cho hoạt động quản lý cho NHNN. 
Thứ năm, phát huy hơn nữa vai trò của 
Hiệp hội ngân hàng trong việc tập hợp, liên 
kết các NHTM để tăng cường hợp tác, hỗ trợ 
nhau trong hoạt động kinh doanh, đại diện và 
bảo vệ quyền lợi hợp phát của các NHTM; 
làm cầu nối giữa các NHTM hội viên và các 
cơ quan quản lý Nhà nước nhằm ổn định và 
phát triển lành mạnh, hiệu quả, an toàn và bền 
vững của hệ thống NHTM trong điều kiện hội 
nhập quốc tế.
3.2. Nhóm giải pháp đối với các ngân 
hàng thương mại Việt Nam
Thứ nhất, tăng cường năng lực quản trị rủi 
ro. Các NHTM Việt Nam cần thiết lập và triển 
khai hoạt động quản trị chiến lược chuyên 
nghiệp, thông qua xác lập tính thống nhất về 
nhận thức trong quản trị kế hoạch chiến lược 
và gắn kết mối quan hệ với kế hoạch kinh 
doanh hàng năm. 
Tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro 
thị trường và tác nghiệp theo thông lệ quốc 
tế: Tách bạch triệt để chức năng nhiệm vụ 
giữa hai bộ phận kinh doanh và quản trị rủi 
ro. Nâng cao vai trò độc lập của hệ thống quản 
trị rủi ro, từng bước áp dụng quản trị rủi ro 
theo định lượng và các mô hình kiểm nghiệm 
khủng hoảng. Xây dựng hệ thống cảnh báo 
sớm và phát triển hệ thống công cụ, chương 
trình phần mềm phục vụ công tác quản lý rủi 
ro thị trường, tác nghiệp theo chuẩn mực và 
thông lệ quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục xử lý nợ xấu của các 
NHTM Việt Nam. Nợ xấu cao và ngày càng 
gia tăng sẽ đe dọa đến khả năng tài chính và 
hoạt động nói chung của NHTM Việt Nam. 
Chính vì vậy, nhiệm vụ đối với hệ thống 
NHTM Việt Nam hiện nay là phải tiến hành 
đánh giá chính xác thực trạng nợ quá hạn, nợ 
xấu tại chính ngân hàng mình; tiến hành phân 
16
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
loại nợ và trích lập rủi ro theo tiêu chuẩn quốc 
tế, chủ động tăng mức trích lập dự phòng các 
khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc 
thua lỗ, chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ 
phần gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp, bán nợ 
cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp. 
Thứ ba, tăng năng lực tài chính của các 
NHTM Việt Nam. Đảm bảo an toàn vốn là 
một trong ba trụ cột cốt lõi quyết định sự an 
toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Do 
vậy, việc tăng vốn tự có của các NHTM Việt 
Nam là một vấn đề hết sức cần thiết đối với hệ 
thống NHTM Việt Nam hiện nay. 
Thứ tư, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ. Đối 
với các sản phẩm hiện có và truyền thống thì 
các ngân hàng cần đơn giản hóa các quy trình 
cung cấp dịch vụ, trang bị nhiều phương tiện 
giao dịch. Đồng thời các NHTM Việt Nam 
cần chú trọng phát triển dịch vụ ngân hàng tận 
nơi, phát triển dịch vụ ngân hàng trực tuyến, 
phát triển dịch vụ mới bao gồm các sản phẩm 
giúp khách hàng hạn chế các rủi ro về tỷ giá, 
lãi suất; các sản phẩm trọn gói tiện nghi cho 
khách hàng ,... 
Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực góp phần khắc phục hạn chế trong 
hoạt động của các NHTM Việt Nam. Nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng 
tuyển dụng đúng nhu cầu nhân lực; tổ chức 
đào tạo và đào tạo lại thường xuyên cán bộ để 
thực hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng sát với 
thực tiễn. Hoạt động đào tạo phải nhằm mục 
đích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ 
và trang bị những kiến thức cũng như kỹ năng 
bổ trợ, hướng tới việc xây dựng phong cách 
làm việc chuyên nghiệp, hiện đại. Đối với các 
cán bộ quản lý các cấp có tiềm năng nên có 
kế hoạch đào tạo, thực tập, trao đổi nhân viên 
giữa với các ngân hàng uy tín nước ngoài hoạt 
động trong và ngoài nước. 
4. Kết luận
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động 
của các NHTM Việt Nam với mặt đạt được và 
hạn chế, tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp 
hoàn thiện hoạt động của các NHTM Việt 
Nam trong thời gian tới. Các đề xuất bao gồm 
hai phần chính, nhóm giải pháp ở cấp độ vĩ 
mô và nhóm giải pháp đối với các NHTM. Tất 
cả các đề xuất trên đều hướng đến một mục 
tiêu chung là nâng cao hiệu quả hoạt động 
của các NHTM, góp phần vào sự phát triển 
bền vững của các NHTM Việt Nam trong giai 
đoạn hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chính phủ (2009), Nghị định số 59/2009/NĐ-CP quy định về tổ chức của ngân hàng thương mại. 
[2]. Eward W.Reed và Eward.Gill (1993), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê TP.HCM.
[3]/ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Dự thảo chiến lược phát triển ngân hàng Việt Nam 2011 
đến 2020.
[4]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống NHTM.
[5]. The World Bank, June 1998
[6].  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[7].  Hiệp hội ngân hàng Việt Nam.
[8].  Thời báo kinh tế Việt Nam.

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_nhung_van_de.pdf