Hợp tác quốc tế giáo dục: Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế

TÓM TẮT

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành dòng chảy chính của

quan hệ quốc tế, việc sử dụng “Quyền lực mềm” ngày càng chiếm ưu thế, và giáo dục trở thành

một trong những công cụ hữu hiệu, đắc lực của quyền lực mềm. Hợp tác quốc tế giáo dục không

chỉ góp phần thúc đẩy lợi ích quốc gia mà còn làm tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh của quốc

gia đó trên trường quốc tế. Thông qua chính sách ngoại giao giáo dục khéo léo, các quốc gia có

khả năng thực thi thành công rất nhiều chiến lược chính trị và địa chính trị của mình trên bình diện

khu vực và trên toàn thế giới. Đó là lý do tại sao các quốc gia ngày càng chú trọng và đầu tư hiện

đại hóa và quốc tế hóa hệ thống giáo dục quốc dân nhằm phát huy tối đa sức mạnh mềm của giáo

dục trong quan hệ quốc tế.

pdf 6 trang yennguyen 2500
Bạn đang xem tài liệu "Hợp tác quốc tế giáo dục: Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác quốc tế giáo dục: Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế

Hợp tác quốc tế giáo dục: Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 23
HỢP TÁC QUỐC TẾ GIÁO DỤC: 
SỨC MẠNH MỀM TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ 
Nguyễn Thị Huyền Trang* 
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành dòng chảy chính của 
quan hệ quốc tế, việc sử dụng “Quyền lực mềm” ngày càng chiếm ưu thế, và giáo dục trở thành 
một trong những công cụ hữu hiệu, đắc lực của quyền lực mềm. Hợp tác quốc tế giáo dục không 
chỉ góp phần thúc đẩy lợi ích quốc gia mà còn làm tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh của quốc 
gia đó trên trường quốc tế. Thông qua chính sách ngoại giao giáo dục khéo léo, các quốc gia có 
khả năng thực thi thành công rất nhiều chiến lược chính trị và địa chính trị của mình trên bình diện 
khu vực và trên toàn thế giới. Đó là lý do tại sao các quốc gia ngày càng chú trọng và đầu tư hiện 
đại hóa và quốc tế hóa hệ thống giáo dục quốc dân nhằm phát huy tối đa sức mạnh mềm của giáo 
dục trong quan hệ quốc tế. 
Từ khóa: hợp tác quốc tế; giáo dục; sức mạnh mềm; hợp tác, toàn cầu hóa. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Trong đời sống chính trị - xã hội, các quyền 
cũng như các cá nhân con người không tồn tại 
và vận động một cách cô lập. Quyền không 
phải là sở hữu riêng của cá nhân mà nó chỉ 
tồn tại khi được thừa nhận bởi các thành viên 
khác của xã hội. Các định nghĩa về quyền lực 
đều thống nhất rằng quyền lực hàm chứa năng 
lực của một chủ thể nhằm thay đổi hành vi 
của các chủ thể khác trong quan hệ quyền lực. 
Trong quan hệ quyền lực, có ba cách cơ bản 
để tác động tới hành vi của người khác để có 
được kết quả một chủ thể mong muốn: đó là 
ép buộc họ bằng sự đe dọa (bạo lực...), dụ dỗ 
họ bằng lợi ích (vật chất, danh vọng,...), thu 
hút, hấp dẫn họ (bằng sức hấp dẫn, các giá trị, 
tư tưởng,...). Hai cách trước thường được biết 
đến như dùng quyền lực cứng, cách thứ ba là 
cách dùng quyền lực mềm. Do đó, có thể gọi 
quyền lực cứng là sức mạnh ra lệnh, khiến 
người khác làm cái mình muốn, và quyền lực 
mềm là sức mạnh dẫn dụ, khiến người khác 
làm vì họ cũng muốn đạt được kết quả tương 
tự. Các nhà lãnh đạo hay thậm chí các cá 
nhân cũng đều sử dụng cả hai loại quyền lực 
này tuỳ theo thời điểm và hoàn cảnh. Khả 
năng kết hợp giữa “quyền lực mềm” và 
“quyền lực cứng” được gọi là “quyền lực 
thông minh”[1]. 
* Tel: 0124 333 9666; Email: huyentrang280488@gmail.com 
Ngày nay, xu thế hợp tác và phát triển đang 
trở thành dòng chảy chính trong quan hệ quốc 
tế, việc sử dụng “Quyền lực mềm” ngày càng 
chiếm ưu thế. So với quyền lực cứng truyền 
thống, quyền lực mềm ngày càng trở nên 
quan trọng khi mà các cuộc chiến tranh không 
còn đơn thuần chỉ dựa vào súng đạn và binh 
lực, mà còn liên quan đến các ý tưởng và giá 
trị. Toàn cầu hóa, sự tiến bộ vượt bậc của 
khoa học – công nghệ (nổi bật là công nghệ 
thông tin) cùng sự ra đời của nền kinh tế trí 
thức đã tạo ra những biến đổi sâu sắc và 
nhanh chóng mọi mặt của đời sống nhân loại, 
đặc biệt có tác động rất lớn tới quan hệ quốc 
tế giữa các quốc gia. Trong xu thế đó, giáo 
dục trở thành một trong những công cụ hữu 
hiệu của nền kinh tế tri thức, động lực chính 
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa 
xã hội của cộng đồng và an ninh quốc phòng 
quốc gia. Giáo dục là chìa khóa để tạo ra và 
mở rộng kiến thức đối với mỗi cá nhân và các 
nước. Hợp tác quốc tế giáo dục cũng được coi 
là một nguồn sức mạnh mềm trong sức mạnh 
tổng hợp quốc gia, không chỉ góp phần thúc 
đẩy lợi ích quốc gia mà còn làm tăng khả 
năng hợp tác và cạnh tranh của quốc gia đó 
trên trường quốc tế. Ngay cả với nước Mỹ, 
một quốc gia có nền giáo dục được xếp trong 
top đầu mang tính hình mẫu của thế giới cũng 
xác định: “Sức mạnh mềm của Mỹ là củ cà 
rốt mang tên “Giáo dục đại học”. 
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 24
Với đặc thù và thế mạnh của mình, Giáo dục 
cũng gắn kết với ngoại giao chính trị, giáo 
dục vừa là đối tượng vừa là phương tiện phục 
vụ cho chính sách đối ngoại của quốc gia. 
Thông qua rất nhiều các hoạt động đặc thù, 
hợp tác quốc tế trong giáo dục góp phần thiết 
lập, duy trì và phát triển quan hệ với những 
quốc gia khác nhằm đạt được lợi ích và khẳng 
định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. 
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu 
tổng hợp, phân tích và một số lý thuyết trong 
quan hệ quốc tế. 
NỘI DUNG 
Một số khái niệm 
"Quyền lực mềm" là khả năng tác động thông 
qua sự hấp dẫn và sức thuyết phục để người 
khác làm theo những gì mình muốn [2]. Tính 
chất cốt lõi của quyền lực mềm là tính hấp dẫn. 
Quyền lực mềm xuất phát từ sự công nhận của 
nước khác về những phẩm chất, năng lực của 
một quốc gia. Để có được sự công nhận này, 
quốc gia phải có khả năng truyền đạt quan 
điểm và giá trị của mình bằng những phương 
tiện có sức thu hút, sức lôi cuốn tình cảm và 
lòng trung thành của người khác. 
Hợp tác quốc tế trong giáo dục có thể hiểu là 
những hoạt động trao đổi và hợp tác, thiết lập, 
duy trì và phát triển các mối quan hệ giữa các 
chủ thể ở các quốc gia khác nhau trên cơ sở 
các bên cùng có lợi. 
Hợp tác quốc tế trong giáo dục có thể gồm rất 
nhiều các hoạt động khác nhau, các kênh khác 
nhau như: 
- Các hoạt động đào tạo: hoạt động liên kết 
đào tạo, kiểm định chất lượng, công nhận văn 
bằng, tín chỉ, trao đổi học thuật... 
- Các hoạt động nghiên cứu khoa học và 
chuyển giao công nghệ: thông qua các đề tài, 
dự án, chương trình nghiên cứu hợp tác giữa 
các trường đại học, các viện nghiên cứu và các 
nhà khoa học với các đối tác nước ngoài; thông 
qua các hoạt động hội nghị, hội thảo; thông tin, 
xuất bản chung; chuyển giao công nghệ 
- Hoạt động trao đổi giảng viên, sinh viên 
- Các hoạt động tài trợ, củng cố cơ sở hạ tầng 
giáo dục 
- Các hoạt động ngoại giao chính thức cấp 
nhà nước, địa phương, doanh nghiệp 
Và rất nhiều các hoạt động khác nhau ở những 
cấp độ khác nhau nhằm đạt được một mục tiêu 
chung đó là tạo ra những tiền đề có lợi nhất 
cho sự phát triển của giáo dục nói riêng và mục 
tiêu chính trị của quốc gia nói chung. 
Theo đó, chủ thể tham gia vào hoạt động ngoại 
giao, hợp tác trong giáo dục cũng rất đa dạng 
bao gồm các cơ quan chính phủ, các tổ chức 
giáo dục đào tạo, các tổ chức khoa học công 
nghệ, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, 
nhóm lợi ích, giảng viên, sinh viên, nhân viên 
hành chính, gia đình sinh viên, gia đình người 
bản xứ và rất nhiều các chủ thể gián tiếp khác 
tham gia vào các hoạt động này 
Giáo dục - “nguồn tài nguyên” quan trọng 
của các quốc gia trong quan hệ quốc tế 
Vai trò của giáo dục và đào tạo ngày càng trở 
nên quan trọng và trở thành quốc sách hàng 
đầu đối với nhiều quốc gia. “Giáo dục là chìa 
khóa của tương lai”- cần phải nhấn mạnh rằng, 
giáo dục luôn là một trong những tiền đề quan 
trọng nhất của nền kinh tế tri thức, động lực 
chính cho tăng trưởng kinh tế quốc gia. Chỉ có 
hệ thống giáo dục phát triển mới đáp ứng được 
yêu cầu nền kinh tế tri thức tiên tiến, phù hợp 
với nền giáo dục toàn cầu, trở thành một trong 
những lợi thế cạnh tranh lớn của quốc gia 
trong “thời đại cạnh tranh tri thức toàn cầu” và 
thu hút chất xám hiệu quả. Nhật Bản – một 
hiện tượng thần kỳ sau chiến tranh thế giới thứ 
hai, hay những cường quốc kinh tế và công 
nghệ Âu, Mỹ là những minh chứng tuyệt vời 
cho thấy đằng sau sức mạnh của họ chính là 
nền giáo dục được vận hành tốt, đào tạo được 
những con người có trình độ và năng lực sáng 
tạo trong xã hội công nghiệp. Ông Lý Quang 
Diệu trong cuốn “Bí quyết hóa rồng” đã cắt 
nghĩa rõ bài học thành công của Singapore: 
“Thắng cuộc đua trong giáo dục thì mới thắng 
cuộc đua trong kinh tế” [3]. 
Vì quá trình toàn cầu hóa trong nền kinh tế 
dẫn các quốc gia đến sự cạnh tranh, các chu 
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 25
kì kinh tế đòi hỏi sự phát triển nguồn nhân lực 
để hỗ trợ sự cạnh tranh toàn cầu. Yêu cầu đó 
đặt giáo dục thành trung tâm, đối tượng và 
mục tiêu của hoạt động đối ngoại để có thể 
hội nhập và cập nhật với những xu thế mới, 
tri thức mới của nhân loại. Nền giáo dục các 
quốc gia cũng cần có năng lực mang tính toàn 
cầu với những mối quan hệ có tính chất quốc 
tế dưới nhiều hình thức, và theo đó, nó thúc 
đẩy quá trình hợp tác quốc tế giữa các chủ thể 
trong quan hệ quốc tế. 
Mặt khác, bản chất của giáo dục là hướng đến 
các thế hệ tương lai, và thông qua đó, các quốc 
gia đã và đang trao cho thế hệ trẻ quyền, cơ hội 
để định hình lên tương lai của dân tộc mình. 
Thành công của một quốc gia phụ thuộc vào 
chính người dân của quốc gia đó, vào sự cống 
hiến của họ cho đất nước và xã hội, vào sự 
cam kết của họ sẽ nỗ lực và khả năng tư duy, 
thành công và tỏa sáng của họ. Do đó, mỗi 
quốc gia cần có những chiến lược đầu tư sớm, 
đầu tư thông minh và đầu tư một cách toàn 
diện vì một nền giáo dục phát triển và bền 
vững trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. 
Hợp tác quốc tế giáo dục – sức mạnh mềm 
trong quan hệ quốc tế 
Thứ nhất, hợp tác quốc tế giáo dục đóng vai 
trò “truyền tải”, “lan tỏa” các giá trị cốt lõi 
của quốc gia đến thế giới. Thông qua các 
chương trình trao đổi, hợp tác trong giáo dục, 
nghiên cứu khoa học, quốc gia sẽ nhận được 
những thiện trí từ các chủ thể tham gia, những 
người mà sẽ có khả năng đưa ra khuyến nghị 
và tác động tới chính phủ của họ. Mỗi chủ thể 
tham gia các hoạt động hợp tác giáo dục đều 
có thể coi là những đại sứ ngoại giao. Sau khi 
về nước, bên cạnh những kiến thức thu được, 
họ có thêm những trải nghiệm cuộc sống quý 
giá về nền văn hóa và nền giáo dục tại đất 
nước mà họ đã đến, đồng thời họ cũng là 
những sợi dây giúp tuyên truyền những thông 
tin đó tới gia đình, tới bạn bè, đồng nghiệp 
của họ. Rõ ràng, đối tượng giao tiếp ở nước 
ngoài của ngoại giao đã được mở rộng và về 
lâu dài, những sợi dây liên hệ “không chính 
thức” này sẽ có tác động không nhỏ đến quan 
hệ “chính thức” giữa các chính phủ. Những 
sinh viên tốt nghiệp nước ngoài không chỉ trở 
thành nguồn nhân lực chất lượng cao cho 
quốc gia họ, mà họ còn trở thành “Trojan 
horse” [4]. Theo cách đó, những giá trị, 
những hình ảnh tốt đẹp của đất nước, các giá 
trị tinh hoa và tri thức của các quốc gia được 
truyền tải tới người dân các nước khác theo 
một cách tự nhiên và chân thực nhất. Và kết 
quả là, hiệu quả của việc truyền bá, ảnh 
hưởng đến thế giới bên ngoài thông qua nền 
giáo dục quốc gia như công cụ của quyền lực 
mềm đạt được cao hơn nhiều so với việc sử 
dụng công cụ quân sự hay công cụ khác. 
Vấn đề đặt ra là các chính phủ cần có những 
chiến lược đầu tư cho giáo dục phù hợp để có 
thể tận dụng những mối quan hệ này để thúc 
đẩy các hoạt động quảng bá đối với giới trí 
thức, nâng cao sự hiểu biết đúng đắn, thu hút 
thiện cảm và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, 
chống lại những âm mưu chống phá của các 
thế lực thù địch, bảo vệ an ninh quốc gia. Bên 
cạnh đó, chính phủ cũng cần khơi dậy, phát 
triển lòng yêu quê hương, đất nước và tự hào 
dân tộc của người dân ở trong và ngoài nước, 
để có thể khai thác tối đa vai trò đại sứ của 
truyền bá về bản sắc quốc gia mà họ đại diện, 
về giá trị mà quốc gia hướng tới trong các 
hoạt động trao đổi giáo dục ở nước ngoài. 
Thứ hai, hợp tác quốc tế giáo dục đóng vai 
trò hấp dẫn, thu hút đối với bạn bè quốc tế. 
Hợp tác quốc tế trong giáo dục ngày nay 
không đặt mục tiêu thuần túy là mở rộng kiến 
thức, và tiếp cận với thành tựu khoa học, công 
nghệ tiên tiến ra ngoài biên giới quốc gia, mà 
nó còn hướng tới sự hiểu biết lẫn nhau – một 
cơ sở quan trọng cho đường lối chính trì vì sự 
hòa giải. 
Giáo dục được coi là một thứ quyền lực mềm, 
và do đó, giáo dục cũng là một công cụ được 
sử dụng cho các mục tiêu chính trị. Thời kỳ 
chính trị nào, sẽ có nền giáo dục đó. Ngược 
lại, giáo dục ở từng thời kỳ nhất định, sẽ tạo 
ra giới trí thức, giới ngoại giao tương ứng. 
Thông qua trao đổi, hợp tác, thu hút sinh viên 
quốc tế, giáo dục nuôi dưỡng những quan 
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 26
điểm tích cực, dựa trên tiền đề sự hiểu biết và 
niềm tin, từ những ấn tượng tốt đẹp của khách 
nước ngoài về đất nước, con người nơi họ 
sinh sống, học tập, mỗi quốc gia không chỉ có 
cơ hội tạo dựng các mối quan hệ ngoại giao 
tốt đẹp mà còn khẳng định vị trí, tạo niềm tin 
trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ quyền 
và lợi ích quốc gia. 
Thứ ba, hợp tác quốc tế giáo dục là công cụ 
thúc đẩy sự hợp tác trong quan hệ quốc tế. 
Giáo dục đóng vai trò kết nối mọi người, dù 
họ đến từ các nền văn hóa khác nhau, họ có 
xuất phát điểm khác nhau và dù họ có những 
khác biệt như thế nào, khi cùng theo đuổi một 
mục tiêu học thuật, giáo dục sẽ đóng vai trò 
như yếu tố thống nhất tất cả những khác biệt 
đó. Bên cạnh đó,việc xây dựng nhận thức 
chung, hiểu biết chung giữa các tổ chức hay 
cá nhân; xây dựng một chương trình, kế 
hoạch hành động chung; và thiết lập một cơ 
chế chung để xử lý, giải quyết một vấn đề nào 
đó sẽ góp phần xây dựng các mối quan hệ lâu 
dài tạo ra một nền tảng tốt để phát triển và 
thực hiện các chính sách đối ngoại. Ngoại 
giao giáo dục không phải là “cuộc chơi” với 
mục đích cuối cùng là phân biệt thắng thua. 
Mà nó chủ yếu tập trung vào mục đích trao 
đổi và hợp tác được xây dựng trên cơ sở tiềm 
lực của mỗi quốc gia, tổ chức. Và do đó, nó 
sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham 
gia, dù thực tế, lợi ích của mỗi quốc gia thu 
được là không hoàn toàn giống nhau. 
Thứ tư, hợp tác quốc tế giáo dục là công cụ 
thúc đẩy sự cạnh tranh trong quan hệ quốc tế. 
Trong xu thế toàn cầu, quốc gia nào có nền 
giáo dục phát triển, quốc gia đó sẽ có được lợi 
thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhiều 
quốc gia có nền giáo dục phát triển như Mỹ, 
Anh, Australia, Singapore... được biết đến 
như những thị trường xuất khẩu giáo dục tiềm 
năng, đưa nền giáo dục của họ vượt qua khỏi 
biên giới quốc gia, đồng thời thu hút hàng 
trăm ngàn du học sinh đến học tập nghiên 
cứu. Tổng thống Obama từng phát biểu: "Nếu 
chúng ta muốn nước Mỹ dẫn đầu trong thế kỷ 
21, không gì quan trọng hơn việc mang đến 
cho mọi người nền giáo dục tốt nhất, từ khi 
bắt đầu đi học cho tới ngày họ có được sự 
nghiệp của mình" [5]. J. William Fulbright, 
người sáng lập chương trình học bổng hữu 
nghị mang tên ông, chương trình Fulbright 
cũng đã nói: “Giáo dục thường có tác động 
chậm nhưng đó là một nguồn lực to lớn. Nó có 
thể không đủ nhanh hoặc đủ mạnh để cứu 
chúng ta khỏi thảm họa, nhưng nó là nguồn lực 
mạnh nhất có sẵn cho mục tiêu đó và với một 
vị trí thích hợp, giáo dục được đặt ở trung tâm 
của quan hệ quốc tế” [6]. Do đó, các quốc gia 
đều đặc biệt quan tâm đến giáo dục và đặt ra 
yêu cầu cho các nước chậm phát triển hơn đa 
dạng hóa các loại hình giáo dục, nâng cao chất 
lượng đào tạo đạt chuẩn quốc tế để có thể tồn 
tại và phát triển lâu dài trong tương lai. 
Một số chương trình/ tổ chức khai thác rất 
thành công vai trò ngoại giao của giáo dục có 
thể kể đến như: chương trình Fulbright của 
Mỹ. Kết quả nghiên cứu đánh giá tác động và 
hiệu quả của chương trình trong việc thúc đẩy 
hiểu biết lẫn nhau giữa người dân Mỹ và 
người dân các quốc gia khác do Cục Giáo 
dục và Văn hóa thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ thực 
hiện tháng 12 năm 2015 cho thấy: Có 99% 
học sinh cựu sinh viên Chương trình 
Fulbright của Mỹ tin rằng chương trình thực 
sự khuyến khích sự hiểu biết lẫn nhau giữa 
Người Mỹ và người dân của các quốc gia 
khác và thúc đẩy sự hợp tác quốc tế về văn 
hóa, giáo dục; Có 97% đồng ý rằng chương 
trình thúc đẩy các “mối quan hệ thân thiện, 
cảm thông và hòa bình giữa Mỹ và các nước 
khác trên thế giới”; 81% cảm thấy chương 
trình giúp tăng cường khả năng truyền tải các 
giá trị / chính sách của Mỹ tới người dân ở 
các quốc gia khác; 75% cảm thấy họ có thể 
đảm nhận vai trò thay mặt cho Mỹ trên trường 
quốc tế; 100% đồng ý rằng những kinh 
nghiệm mà họ có được thông qua chương 
trình Fulbright đã giúp họ có sự hiểu biết sâu 
sắc hơn về nước sở tại, và 93% người được 
khảo sát cho biết họ có được sự hiểu biết sâu 
sắc hơn về xã hội và văn hóa Mỹ sau khi 
được tận mắt chứng kiến, tiếp xúc với công 
dân nước sở tại; 97% vấn tiếp tục duy trì liên 
lạc với các đối tác thông qua chương trình, và 
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 27
73% trong số đó tiếp tục cộng tác nước sở tại. 
Họ đã quảng bá về các giá trị và lý tưởng của 
chương trình bằng cách khuyến khích bạn bè, 
đồng nghiệp của mình tiếp tục tham gia các 
chương trình trao đổi quốc tế (96%), và nộp 
đơn xin trợ cấp Fulbright (95%) [7]. 
Cơ quan trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD), một 
tổ chức hỗ trợ việc trao đổi sinh viên và các 
nhà khoa học quốc tế, với 15 Văn phòng Đại 
diện, 55 Trung tâm Thông tin và hơn 900 
nhân viên. Bên cạnh việc khai thác rất thành 
công sức mạnh mềm của hợp tác giáo dục với 
nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển, 
DAAD còn rất thành công trong thúc đẩy hợp 
tác bất chấp xung đột hay chiến tranh. DAAD 
luôn nỗ lực khuyến khích các tổ chức giáo 
dục của Đức hợp tác với các Trường Đại học 
tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của 
chiến tranh, xung đột thông qua nhiều chiến 
lược hợp tác ngắn hạn và dài hạn để giúp họ 
vượt qua khủng hoảng. Bằng cách đó, giáo 
dục đã đặt nền tảng cho sự phát triển tích cực, 
đào tạo lên những nhà hoạch định chính sách 
tích cực trong tương lai. Có thể kể đến những 
chương trình như: “Đối thoại giáo dục đại học 
với thế giới Hồi giáo”, “Hỗ trợ dân chủ ở 
Ukraine”, “Phòng chống xung đột ở Nam 
Caucasus, Trung Á và Moldova”[8] 
Bên cạnh đó, Hội đồng Anh, chương trình 
Erasmus Mundus của Ủy ban châu Âu hay 
Viện Khổng Tử của Trung Quốc. Bằng việc 
thiết lập các văn phòng đại diện tại nhiều 
quốc gia trên thế giới, thiết lập mối quan hệ 
hợp tác với nhiều cơ sở giáo dục, cung cấp 
các học bổng, các chương trình trao đổi, tài 
trợ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu 
khoa học... trên toàn thế giới, họ đã rất thành 
công trong việc thu hút chú ý và thuyết phục 
dư luận nước ngoài thông quá các yếu tố như 
hình ảnh, uy tín, năng lực, sức hấp dẫn của 
nền giáo dục. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, có thể khẳng định hợp tác quốc tế 
trong giáo dục là hoạt động tất yếu trong quá 
trình tồn tại và phát triển của nền giáo dục 
hiện đại. Nó chính là động lực và sức mạnh 
mềm của chính sách đối ngoại các quốc gia. 
Bản chất của sức mạnh mềm trong hợp tác 
quốc tế giáo dục là tính chiến lược, dài hạn. 
So với các phương thức ngoại giao khác, tác 
động của hợp tác quốc tế giáo dục với ngoại 
giao thường chậm hơn, nhưng quyền lực mềm 
giáo dục lại có tác động bền vững và thẩm 
thấu lâu dài. Do đó, để giáo dục có thể được 
sử dụng như một công cụ ngoại giao có hiệu 
quả, cần xây dựng những chương trình, kế 
hoạch dài hạn trên cơ sở chia sẻ lợi ích, các 
bên cùng có lợi. Đây là điều mà các nhà 
hoạch định, các nhà làm ngoại giao giáo dục 
cần chú trọng và hoạt động theo những chuẩn 
mực quốc tế nhằm đạt được sự thừa nhận, 
đồng thời duy trì khả năng cạnh tranh của 
mình trong một môi trường toàn cầu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Việt Hương (2011), Quyền lực cứng, quyền 
lực mềm, quyền lực thông minh trong nền dân chủ, 
Tạp chí Lý luận chính trị, Số 3-2011. 
2. Nye, J.S. (2004), Soft Power: the Means to 
Success in World Politics, Public Affairs, New 
York, New York. 
3. 
noi-bat/item/948-ngoai-giao-van-hoa-voi-van-de-
gia-tang-%E2%80%9Csuc-manh-mem%E2%80 
%9D- cua-viet-nam.html 
4. Tremblay K. (2010), Internationalization: 
Shaping Strategies in the National Context, 
International Organizations Research Journal, 
Number 03 (29), p. 117 
5.
gefi-champion-countries/united-states-of-merica/ 
6. Bryan McAllister-Grande (2008), The Future of 
Soft Power and International Education, NAFSA 
annual conference, Session Number GS-089, p.14 
7. Bureau of Educational and Cultural Affairs 
Office of Policy and Evaluation (2015), 
Evaluation Summary: U.S. Fulbright Student 
Program Outcome Assessment,P1. 
8. DAAD (2016), Annual Report, p.32. 
Nguyễn Thị Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 23 - 28 
 28
SUMMARY 
EDUCATIONAL COOPERATION AS SOFT POWER 
IN INTERNATIONAL RELATIONS 
Nguyen Thi Huyen Trang* 
TNU – University of Sciences 
Nowadays, Peace, Development and Cooperation is the main flow of international relations. Soft 
power is more important and the use of education becomes an effective instrument - source of soft 
power. International cooperation in education not only contributes in promoting national interests, 
but also enhances cooperation and competition among countries. By using effective and skillful 
education diplomacy, states be able to develop successful many political geography and 
geopolitics strategies at Regional, and Global level. That is why states now increasingly focuses on 
its modernisation, accessibility and internationalisation of education system in order to maximize 
education’s soft power. 
Keywords: International cooperation; education; soft power; cooperation, globalization 
Ngày nhận bài: 15/6/2018; Ngày phản biện: 25/6/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
* Tel: 0124 333 9666; Email: huyentrang280488@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfhop_tac_quoc_te_giao_duc_suc_manh_mem_trong_quan_he_quoc_te.pdf