Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông

Tóm tắt. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên phổ thông là nhân tố quan trọng tác

động trực tiếp lên chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông. Các hình thức phát

triển nghề nghiệp giáo viên ở nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung hiện nay

được tổ chức một cách đa dạng và phong phú; tuy nhiên hiệu quả mang lại từ mỗi

một hình thức này cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Tổ chức cộng đồng học tập

chuyên môn của giáo viên ngay tại các trường phổ thông là một trong những hướng

đi mới và được công nhận tại các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Thông qua phân

tích các nghiên cứu quốc tế, bài báo giới thiệu về “cộng đồng học tập chuyên môn”

dưới góc nhìn của một hình thức phát triển nghề nghiệp cho giáo viên, trong đó khái

quát về khái niệm, đặc điểm cũng như làm rõ mối quan hệ giữa việc tổ chức cộng

đồng học tập này với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở

nhà trường phổ thông.

pdf 12 trang yennguyen 4940
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông

Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông
82 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0026 
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 82-93 
This paper is available online at  
MỐI QUAN HỆ GIỮA CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP CHUYÊN MÔN 
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN 
VÀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG 
Nguyễn Hoàng Đoan Huy 
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên phổ thông là nhân tố quan trọng tác 
động trực tiếp lên chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông. Các hình thức phát 
triển nghề nghiệp giáo viên ở nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung hiện nay 
được tổ chức một cách đa dạng và phong phú; tuy nhiên hiệu quả mang lại từ mỗi 
một hình thức này cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Tổ chức cộng đồng học tập 
chuyên môn của giáo viên ngay tại các trường phổ thông là một trong những hướng 
đi mới và được công nhận tại các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Thông qua phân 
tích các nghiên cứu quốc tế, bài báo giới thiệu về “cộng đồng học tập chuyên môn” 
dưới góc nhìn của một hình thức phát triển nghề nghiệp cho giáo viên, trong đó khái 
quát về khái niệm, đặc điểm cũng như làm rõ mối quan hệ giữa việc tổ chức cộng 
đồng học tập này với việc phát triển nghề nghiệp giáo viên và chất lượng giáo dục ở 
nhà trường phổ thông. 
Từ khóa: Cộng đồng học tập chuyên môn, năng lực của giáo viên, phát triển nghề 
nghiệp giáo viên, chất lượng giáo dục phổ thông. 
1. Mở đầu 
Phát triển nghề nghiệp giáo viên và nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ 
thông luôn là có mối quan hệ rất chặt chẽ và chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố tác động. 
Làm thế nào để đội ngũ giáo viên có thể nâng cao năng lực nghề nghiệp một cách liên tục 
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của 
nhiều nhà giáo dục trên thế giới. Rất nhiều loại hình phát triển nghề nghiệp cho giáo viên 
được ứng dụng đã và đang mang lại những hiệu quả nhất định, trong đó, xây dựng và triển 
khai thực hiện hình thức “cộng đồng học tập chuyên môn” của giáo viên ở nhà trường phổ 
thông cũng đã cho thấy những tác động tích cực không chỉ đối với việc phát triển nghề 
nghiệp của giáo viên mà còn đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. 
Cụm từ “học tập chuyên môn” (Professional Learning) bắt đầu được sử dụng trong 
những năm 1990 sau khi Peter Senge - The Fifth Discipline (1990) [16] phổ biến ý tưởng 
về các tổ chức học tập. Sau đó, Charles B. Myers và Lynn K. Myers sử dụng cụm từ “cộng 
Ngày nhận bài: 1/2/2019. Ngày sửa bài: 19/2/2019. Ngày nhận đăng: 2/3/2019. 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoang Đan Huy. Địa chỉ e-mail: nguyenhoangdoanhuy@gmail.com 
Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp 
83 
đồng học tập chuyên môn” ở nhà trường trong cuốn sách xuất bản năm 1995, cuốn sách 
đó có tên là “Nhà giáo dục chuyên nghiệp: Giới thiệu mới về giảng dạy và trường học” 
[12]. Một năm sau Charles B Myers đã trình bày một báo cáo tại cuộc họp thường niên 
của Hiệp hội nghiên cứu giáo dục Mỹ mang tên "Về loại hình trường phổ thông phát triển 
nghiệp vụ - Professional Development Schools", nhà nghiên cứu này đã đề xuất một hình 
thức phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ngay tại trường phổ thông nơi giáo 
viên đang giảng dạy. Năm 1997, Shirley M. Hord đã công bố một bài báo mang tên 
"Cộng đồng học tập chuyên môn: Cộng đồng liên tục hỏi và cải tiến" [6]. Kể từ cuối 
những năm 1990 đến nay, những công trình nghiên cứu và tài liệu công bố liên quan đến 
cộng đồng học tập chuyên môn cũng lần lượt được công bố trong đó có đề cập đến những 
tác động mà mô hình này mang lại đối với chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung 
và sự phát triển nghề nghiệp chuyên môn của giáo viên nói riêng. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Cộng đồng học tập chuyên môn 
2.1.1. Khái niệm cộng đồng học tập chuyên môn 
Cho đến nay, không có định nghĩa thống nhất về cộng đồng học tập chuyên môn – 
Professional Learning Community (PLC). Tùy vào mỗi bối cảnh nghiên cứu và ứng dụng 
khác nhau, PLC có thể được hiểu theo nhiều nội hàm khác nhau. Tuy nhiên, dường như 
có sự đồng thuận rộng rãi trên bình diện quốc tế khi cho rằng PLC là một khái niệm dùng 
để chỉ một nhóm người cùng chia sẻ và cùng học hỏi một cách nghiêm túc về công việc 
chuyên môn của họ theo cách thức liên tục phản biện, cộng tác, học hỏi và trên tinh thần 
xây dựng để cùng nhau phát triển (Mitchell & Sackney, 2000 [11]; Toole & Louis, 2002 
[20]) và hoạt động theo tập thể (King & Newmann, 2001) [8]. 
Dựa trên tóm tắt các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan, Hord (1997, p.1)[6] 
đã đúc kết và định nghĩa về PLC với tư cách là “cộng đồng chuyên môn của những người 
cùng nhau tham gia học tập” (Astuto, Clark, Read, McGree & Fernandez, 1993) [1], “... 
trong đó, giáo viên cùng một trường học bao gồm cả cán bộ quản lí, liên tục tìm kiếm và 
chia sẻ việc học và hành động để thực hiện hoạt động học đó của họ. Mục tiêu hành động này 
là nâng cao hiệu quả chuyên môn, đảm bảo mục đích cuối cùng là lợi ích của học sinh; do đó, 
mô hình này cũng có thể được gọi là cộng đồng của những đề xuất và cải tiến liên tục”. 
Theo đó, nội hàm của khái niệm PLC – Professional Learning Community còn có thể 
rút ra được từ chính tên gọi của nó: 
- Professional: Một cộng đồng học tập chuyên môn là công việc của những người làm 
việc chuyên môn, có nghĩa thành viên của một PLC phải chấp nhận một tinh thần, thái độ 
chuyên nghiệp, tập trung vào mục tiêu là lợi ích của học sinh và hỗ trợ học sinh học tập. 
Nó còn có nghĩa là PLC được vận hành thông qua tri thức và nghiên cứu. Giáo viên thảo 
luận làm thế nào để vận dụng linh hoạt những đổi mới giáo dục vào công tác giảng dạy 
của mình, giáo viên thực hiện nghiên cứu dựa trên chính những điều tra, vận dụng trên 
thực tiễn lớp học của họ. 
- Learning: Cộng đồng học tập chuyên môn là đều nhằm chỉ đến việc học. Học dành 
cho học sinh và học cũng dành cho giáo viên, cán bộ quản lí; và thậm chí học dành cho 
Nguyễn Hoang Đan Huy 
84 
nhà trường. Học tập chuyên môn của giáo viên bao gồm học dựa trên kiến thức từ thực 
tiễn, kiến thức từ nghiên cứu. 
- Community: Cộng đồng học tập chuyên môn dựa trên tầm nhìn trong đó học tập có 
hiệu quả hơn nếu nó được thực hiện trong một nhóm các chuyên gia. Nhà trường có thể cung 
cấp những điều kiện về vật chất và tinh thần để hỗ trợ hoạt động của cộng đồng học tập. 
Tựu trung lại, có thể nói rằng, trong môi trường nhà trường, cộng đồng học tập 
chuyên môn là một tập thể gồm những giáo viên, cán bộ quản lí nhà trường cùng nhau 
học hỏi, hợp tác, chia sẻ trong việc tiếp nhận, nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo những ý 
tưởng, kiến thức liên quan đến dạy học và giáo dục để cùng nhau phát triển, hướng đến 
mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của học sinh. 
2.1.2. Đặc trưng của cộng đồng học tập chuyên môn ở nhà trường phổ thông 
Báo cáo năm 2005 của Bộ Giáo dục Ontario (Canada) có tựa đề “Giáo dục cho Tất 
cả” cho thấy các đặc điểm của PLC như sau: 
 Chia sẻ tầm nhìn và giá trị dẫn đến cam kết tập thể của cán bộ nhà trường, được 
thể hiện trong công tác hàng ngày 
 Đề xuất những giải pháp tích cực, tạo nên sự cởi mở đón nhận những ý tưởng mới 
 Làm việc hợp tác để đạt được các mục tiêu chung 
 Khuyến khích thử nghiệm để thúc đẩy cơ hội học tập 
 Cùng nhau nghiên cứu về thực trạng, đề xuất các nhiệm vụ cần thực hiện để cải 
thiện thực trang, qua đó nâng cao năng lực chuyên môn 
 Cải tiến liên tục dựa trên đánh giá kết quả học tập 
 Phản ánh để nghiên cứu tác động cải tạo thực tiễn 
Theo nghiên cứu của Hord (2004) [7] và Louis (1995) [9], PCL có những đặc điểm 
như sau: 
 Có giá trị và tầm nhìn chung 
Có một tầm nhìn chung và đồng thuận về mục mục tiêu hoạt động là điều quan trọng 
nhất đối với một cộng đồng học tập chuyên môn. Đặc biệt, tất cả các thành viên trong 
cộng đồng học tập đều cùng có “một sự tập trung liên tục” đối với việc học của chính họ 
(Hord, 2004). Louis (1995) đề xuất rằng cùng nhau chia sẻ những giá trị chung là nền 
tảng để đồng thuận trong việc ra quyết định trong tập thể. 
 Trách nhiệm tập thể 
Trong nhiều tài liệu đã công bố, các nhà nghiên cứu hầu như đều đồng tình ở một 
đặc điểm của PLC, đó là các thành viên của PLC phải liên tục chịu trách nhiệm tập thể 
cho việc học của mỗi thành viên. Họ cho rằng trách nhiệm tập thể đó có thể giúp duy trì 
cam kết, tạo nên những áp lực một cách đồng thời và giảm bớt sự cô lập giữa các giáo 
viên với nhau. 
 Phản ánh yêu cầu một cách chuyên nghiệp 
Đặc điểm này phản ánh qua những hình thức hoạt động như sau: “đối thoại phản 
biện” (Reflective dialogue) - đó là các cuộc thảo luận về những vấn đề giáo dục hoặc 
những vấn đề liên quan đến việc áp dụng kiến thức mới một cách bền vững và hiệu quả; 
thường xuyên kiểm tra công tác giảng dạy giữa giáo viên với nhau, thông qua quan sát 
Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp 
85 
lẫn nhau và phân tích trường hợp, lập kế hoạch chung và cùng phát triển chương trình 
giảng dạy; tìm kiếm kiến thức mới, chia sẻ kiến thức mới cập nhật thông qua tương tác 
với nhau; áp dụng các ý tưởng cũng như những thông tin mới hữu ích để hỗ trợ nhau 
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn dạy học và giáo dục, qua đó đáp ứng nhu cầu của 
học sinh... 
 Hợp tác 
Điều này liên quan đến sự tham gia của các thành viên trong hoạt động phát triển một 
cách hiệu quả, thay vì chỉ đơn thuần là những sự kết hợp có qua có lại mang tính hình 
thức. Chẳng hạn như, giáo viên cùng nhau đánh giá và chia sẻ phản hồi liên quan đến 
đánh giá đó. Cảm giác phụ thuộc lẫn nhau là trọng tâm của sự hợp tác: mục tiêu của việc 
dạy tốt sẽ không thể đạt được nếu thiếu sự cộng tác giữa giáo viên với nhau, giữa giáo 
viên với cán bộ quản lí của nhà trường. 
 Thúc đẩy hoạt động học tập theo nhóm và cá nhân 
Tất cả giáo viên đều là những người học hỏi từ đồng nghiệp của họ (Louis và cộng sự, 
1995). Trong nghiên cứu “Learning enriched schools” của Rosenholtz (1989), ‘‘tự đổi 
mới chuyên môn’’ là ‘một sự kiện xã hội chứ không phải là sự cô độc”. Học tập tập thể là 
điều hiển nhiên trong xã hội loài người, thông qua việc sáng tạo tri thức tập thể (Louis, 
1994), nhờ đó cộng đồng học tập tương tác, tham gia vào đối thoại nghiêm túc và thảo 
luận về thông tin và dữ liệu mà họ cùng thu được. 
Từ các công trình nghiên cứu liên quan, chúng ta nhận thấy, PLC có rất nhiều đặc 
điểm trong đó bao gồm cả việc tập thể và trách nhiệm cho việc học tập của học sinh được 
chia sẻ rộng rãi, tập trung vào câu hỏi và đối thoại phản chiếu giữa các nhà giáo dục, tập 
trung vào việc cải thiện việc học của học sinh, các giá trị và tiêu chuẩn chung. 
2.2. Vai trò của cộng đồng học tập chuyên môn với sự phát triển nghề nghiệp 
giáo viên phổ thông 
Phát triển chuyên môn nghề nghiệp của giáo viên phổ thông là nhân tố ảnh hưởng to 
lớn đến toàn bộ hệ thống giáo dục. Hơn ai hết, năng lực của giáo viên, trong đó sự phát 
triển nghề nghiệp liên tục của họ có thể quyết định đến sự tiến lên hay thụt lùi của chất 
lượng giáo dục thế hệ trẻ. Vậy, cộng đồng học tập chuyên môn của giáo viên ở trường 
phổ thông đóng vai trò như thế nào đối với sự phát triển nghề nghiệp của đội ngũ giáo 
viên ở đây? 
Thực tế cho thấy, các hình thức phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên phổ 
thông hiện nay thường tập trung ở việc tổ chức các hội thảo, khoá bồi dưỡng ngắn hạn 
vẫn đang phổ biến ở khắp nơi trên thế giới. Rất nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy các 
hình thức này không thực sự mang lại hữu ích cho bản thân giáo viên. Trong công bố của 
mình, McConnell et al. (2013) [10] cho rằng, việc tổ chức các hội thảo như một hình thức 
phát triển nghiệp vụ cho giáo viên phần lớn là tốn kém và không hiệu quả. Ferguson 
(2013) [5] còn nhấn mạnh: “các hình thức phát triển nghề nghiệp truyền thống trong đó 
các chuyên gia có mặt tại một hội thảo một lần hầu như không có hiệu quả”. Sự thiếu hiệu 
quả này có thể là do các hội thảo và bài giảng truyền thống đặt giáo viên vào một vai trò 
thụ động, trong khi đó, với PLC, giáo viên có thể hoạt động như một cộng đồng cộng tác 
giữa những người học tích cực. 
Nguyễn Hoang Đan Huy 
86 
Thực vậy, nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định vai trò của cộng 
đồng học tập chuyên môn với sự phát triển nghề nghiệp của giáo viên, trong đó, tiêu biểu 
là một nhóm nghiên cứu bao gồm Poulos, Culberston, Piazza, & D’entremont (2014) [15] 
đã nhận định rằng: các trường phổ thông có thể nâng cao chất lượng giáo dục của mình 
nếu tập thể các thành viên trong trường hợp tác nỗ lực để cải thiện, học hỏi và cùng nhau 
đổi mới; Các PLC là công cụ có thể mang lại cơ hội để hình thành và thúc đẩy những nỗ 
lực tập thể đó. Việc xây dựng các PLC có thể là cách tốt nhất để thiết lập môi trường học 
tập liên tục cho giáo viên trong nhà trường (Davidson & Dwyer, 2014 [2]; Stahl, 2015 [18; 
DuFour, 2014 [4]; Owen, 2015 [13]). 
Nhà nghiên cứu DuFour (2014) đã khẳng định rằng, “quy trình hoạt động của các 
cộng đồng học tập chuyên nghiệp cung cấp môi trường tốt nhất cho sự phát triển chuyên 
môn có hiệu quả của giáo viên trong nhà trường”. Woodland & Mazur (2015) [21] cũng 
nhấn mạnh thêm rằng: PLC được biết đến với tư cách là một trong những cách tiếp cận 
tốt nhất để giúp cho giáo viên cải thiện và học tập trong suốt quá trình công tác của họ. 
Tam (2015) [19] nói thêm rằng việc thiết lập PLC là một cách để tối đa hóa sự phát triển 
chuyên môn trong các trường học trong thời đại ngày nay: “Nhiều nghiên cứu đã ghi 
nhận rằng, các hoạt động được tổ chức trong PLC có thể mang lại sự thực học cho giáo 
viên; các hoạt động như vậy thường bao gồm: giáo viên quan sát các thực hành của 
nhau, cho và nhận phản hồi, tham gia vào các nghiên cứu chuyên nghiệp và tham gia 
vào các cuộc thảo luận, tọa đàm để cùng nhau phản biện tất cả đều là hoạt động đặc 
trưng của PLC”. 
Mặc dù nhà nghiên cứu Poulos et al. (2014) nhận thấy rằng nhiều “giáo viên vẫn 
không thoải mái với việc chỉ trích người khác ở mức cần thiết” [15], nhưng chính sự khó 
chịu về ban đầu này cho thấy một cơ hội để thay đổi tích cực: chính những phản hồi trung 
thực và những phản biện mang tính xây dựng là rất quan trọng để giúp giáo viên cải thiện 
và nâng cao chất lượng dạy học của mình. 
Nghiên cứu của Sims & Penny (2014) [17] thông qua việc quan sát hoạt động của 
những PLC đã chỉ ra rằng: hình thức này mang lại một môi trường tích cực và xây dựng 
thông qua việc cung cấp cơ hội cho các cuộc trò chuyện chuyên nghiệp cởi mở và minh 
bạch giữa các giáo viên trong cùng cộng đồng học tập chuyên môn. Giáo viên không chỉ 
tìm kiếm cơ hội để tăng cường kiến thức của họ bằng PLC mà còn những người tìm kiếm 
cơ hội cải thiện chuyên môn, tư vấn và chia sẻ ý tưởng và chuyên môn mà họ nhận được 
từ các giáo viên khác và từ một người khác. Davidson & Dwyer (2014) [2] và Peskin et al. 
(2009) [14] đã xác nhận điều này sau khi phỏng vấn một số giáo viên về kinh nghiệm của 
họ khi tham gia vào các PLC; nghiên cứu của họ cho thấy rằng giáo viên rất thích chia sẻ 
kiến thức chuyên môn, tài liệu học tập và nghiên cứu của họ. Hơn ... trong những giáo viên mới cho biết: “Chúng tôi học kiến thức về giảng dạy trong các 
chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nhưng thực ra loại kiến thức đó là lí thuyết 
áp đảo. Trong thực tế, lí thuyết được học hoàn toàn không đủ để đối phó với các vấn đề 
phát sinh trong quá trình giảng dạy tại trường phổ thông. Chúng tôi cần học hỏi từ các 
đồng nghiệp, đặc biệt là những người có kinh nghiệm phong phú trong việc giải quyết các 
vấn đề hàng ngày trên lớp và tập trung vào việc mang lại hiệu quả học tập cho học sinh”. 
Hơn nữa, thực tế cho thấy, giáo viên mới thường cho thấy mức độ bị cô lập cao hơn 
các giáo viên có kinh nghiệm, trong khi đó, các trường phổ thông lại thường không chú 
trọng tới những chính sách hay hoạt động nhằm khuyến khích hoặc hỗ trợ sự hợp tác của 
mọi giáo viên trong toàn trường. Trong nỗ lực giải quyết các vấn đề cô lập của các giáo 
viên mới, một số trường học chỉ định một giáo viên có kinh nghiệm làm cố vấn cho giáo 
viên mới. Tuy nhiên, việc được chỉ định cho một người cố vấn có thể không đủ hiệu quả 
hoặc hỗ trợ không đầy đủ cho các giáo viên mới (Jones, 2012, David & Dwyer, 2014). 
Trong trường hợp đó, PLC dường như có thể cung cấp cho giáo viên mới cơ hội để 
hình thành và phát triển tình đồng nghiệp với các giáo viên có kinh nghiệm dựa trên sự tin 
tưởng và hỗ trợ chuyên môn lẫn nhau, chẳng hạn như, lời khuyên, chia sẻ chuyên môn, 
chia sẻ trách nhiệm và cộng tác. Các PLC cũng có thể giúp tạo cơ hội cho các giáo viên 
Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp 
89 
mới dễ dàng thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ chuyên môn bằng cách chia sẻ và trao đổi tài 
liệu và tài nguyên dạy học và giáo dục với các giáo viên có kinh nghiệm trong trường của 
họ. Ví dụ, giáo viên có kinh nghiệm có thể đề xuất các cách khác nhau để giáo viên mới 
dành ít thời gian hơn để chuẩn bị kế hoạch bài học 
2.3.2. Đối với hiệu quả học tập của học sinh 
Hơn ai hết, cộng đồng học tập chuyên môn của giáo viên có thể tạo điều kiện cho các 
thành viên của mình cùng xem xét để nhận biết và kịp thời hỗ trợ nhu cầu học tập và cả 
những nhu cầu khác của học sinh theo nhiều cách khác nhau (Poulos và cộng sự, 2014, 
Wong, 2010; Wells & Feun, 2012). 
Nghiên cứu của Sims & Penny (2014) chỉ ra rằng các cuộc họp của PLC thường kì 
tạo điều kiện cho giáo viên kiểm tra chéo lẫn nhau xem các chủ đề hoặc khái niệm mà học 
sinh của mình đang gặp khó khăn liệu có tương tự như của đồng nghiệp hay không; sau 
đó bằng cách tham gia các cuộc thảo luận và tranh luận về chuyên môn, họ có thể cùng 
nhau giải quyết những khoảng trống trong kế hoạch bài học của họ. Một trong những giáo 
viên được phỏng vấn đã tiết lộ những điều sau đây: “Thông qua PLC, có thể nảy sinh ý 
tưởng và có thể nói chuyện với những người khác về những gì bạn định làm hoặc những 
gì bạn đang phải vật lộn, trăn trở. Điều này không chỉ tạo ra cảm giác gắn kết trong cộng 
đồng mà còn tạo ra một cảm giác muốn phấn đấu để đảm bảo rằng học sinh của mình 
đang nhận được sự giáo dục tốt nhất có thể từ bốn hoặc năm giáo viên khác nữa”. 
Woodland & Mazur (2015) cũng nhận định rằng: “giáo viên có thể sử dụng kết quả 
học tập của học sinh làm tâm điểm của cuộc thảo luận trong các hoạt động của PLC, cùng 
nhau phân tích để đưa ra quyết định về cách thay đổi phương pháp giảng dạy của mình và 
sau đó thực hiện các hành động phù hợp để nâng cao thành tích học tập của học sinh”. 
PLC mang đến cho tất cả giáo viên những cơ hội để tạo ra và tham gia vào những 
cuộc đối thoại và thảo luận về chuyên môn. Trong một cuộc phỏng vấn, một giáo viên 
tham gia vào PLC cho biết: “các cuộc thảo luận giữa đồng nghiệp với nhau có thể giúp 
nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề của chúng tôi, chẳng hạn như phương pháp 
giảng dạy nào là không hiệu quả, thành tích học tập không đạt yêu cầu và hành vi không 
hoạt động của học sinh như vậy thì cần giải quyết như thế nào” (Tam, 2015). 
Ngoài ra, giáo viên có thể cùng nhau thảo luận tập trung vào bất kì vấn đề nào trong 
nghề nghiệp của họ, như chiến lược đánh giá, hướng dẫn lớp học và tổ chức, v.v Ví dụ, 
Owen (2015) đã nghiên cứu trường hợp về một học sinh bị khuyết tật xã hội và chậm phát 
triển ngôn ngữ, sau khi được đồng nghiệp cùng nhau hỗ trợ, tư vấn, giáo viên đã làm việc 
1-1 với học sinh này và sau một thời gian đã cho thấy dự tiến bộ trong việc hoà nhập và 
phát triển ngôn ngữ của em này. Trong nghiên cứu trường hợp của Owen (2015), các giáo 
viên tham gia vào PLC cũng cho thấy kết quả tiến bộ của học sinh về sự tự tin và và hứng 
thú học tập ở trường. 
Như vậy, thông qua thực hành chuyên môn của giáo viên, việc tổ chức và thực hiện 
PLC có sự tương quan tương đối mạnh đối với kết quả học tập của học sinh. 
2.4. Định hướng xây dựng và phát triển cộng đồng học tập chuyên môn trong 
nhà trường phổ thông ở Việt Nam 
Xu hướng đổi mới trong giáo dục hiện nay đang hướng đến những quan điểm lí luận 
dạy học hiện đại như phát triển chương trình nhà trường, dạy học phân hóa, dạy học tích 
Nguyễn Hoang Đan Huy 
90 
hợp, dạy học hướng vào năng lực người học Những quan điểm này khi được vận dụng 
vào nhà trường phổ thông đòi hỏi đội ngũ giáo viên không chỉ được trang bị đầy đủ tri 
thức và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm mà còn biết kết hợp với hoạt động nghiên cứu khoa 
học để tìm hiểu và lựa chọn, thiết kế những hình thức, phương pháp, phương tiện phù 
hợp với đối tượng học sinh của mình. Bên cạnh đó, sự thay đổi liên tục về chương trình 
và sách giáo khoa, cùng những đòi hỏi không ngừng của xã hội đối với năng lực của đội 
ngũ giáo viên phải liên tục phát triển năng lực nghề nghiệp của bản thân. Và chính cộng 
đồng học tập chuyên môn của giáo viên ngay trong trường phổ thông là một con đường 
tất yếu để giúp giáo viên nâng cao năng lực nghề nghiệp của họ. 
Trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam, cộng đồng học tập chuyên môn của 
giáo viên mặc dù chưa được gọi đúng tên cũng như chưa tận dụng được hết vai trò, lợi ích 
của nó nhưng cũng đã bước đầu mang dáng dấp, hình hài ở những hình thức khác với tên 
gọi là tổ sinh hoạt chuyên môn (giữa giáo viên cùng bộ môn trong trường). Tuy nhiên, 
việc xây dựng và phát triển các cộng đồng học tập chuyên môn của giáo viên trong trường 
phổ thông ở nước ta là vấn đề cần lưu tâm. Thông qua những nghiên cứu kinh nghiệm từ 
nước ngoài, chúng tôi đề xuất một số định hướng để xây dựng cộng đồng học tập chuyên 
môn cho giáo viên phổ thông như sau: 
- Xây dựng cộng đồng học tập chuyên môn trước hết cần xác định kế hoạch chiến 
lược hoạt động, hướng đến mục tiêu hoàn thành sứ mệnh của cộng đồng thông qua thực 
hiện những đổi mới liên tục, đáp ứng được yêu cầu luôn thay đổi của ngành giáo dục và 
của xã hội đối với đội ngũ giáo viên nói chung và năng lực nghề nghiệp của giáo viên 
nói riêng. 
- Cần thông báo cho tất cả các thành viên trong cộng đồng học tập chuyên môn được 
biết và cam kết duy trì mục tiêu chung đã xác định và theo đuổi. 
- Xây dựng môi trường hoạt động trong cộng đồng học tập chuyên môn của giáo viên 
tại trường phổ thông trên tinh thần hợp tác, sáng tạo, linh hoạt. 
- Tăng cường động cơ và năng lực làm việc của các thành viên trong cộng đồng học 
tập thông qua việc tạo cơ hội cho mỗi người đều có thể cùng học tập nâng cao trình độ 
tiến tới việc họ có thể đảm trách nhiều vị trí công việc khác nhau... 
3. Kết luận 
Nói tóm lại, tổ chức cộng đồng học tập chuyên môn trong nhà trường có thể được 
xem là một trong những nhân tố tác động tích cực đến sự phát triển chuyên môn của đội 
ngũ giáo viên, đến kết quả học tập của học sinh và đến chất lượng giáo dục của nhà 
trường. Và đến lượt mình, những yếu tố này cũng có những ảnh hưởng nhất định trong 
việc hình thành và phát triển cộng đồng học tập chuyên môn của trường phổ thông. 
Cộng đồng học tập chuyên môn có thể xem là mục đích, công cụ và môi trường để 
phát triển nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên. Nó là yếu tố tác động với mức độ nhất định 
đến chất lượng giáo dục của nhà trường thông qua những ảnh hưởng cụ thể đến hiệu quả 
học tập của học sinh, hiệu quả giảng dạy của giáo viên cũng như những hoạt động quản lí 
giáo dục của nhà trường. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc xây dựng cộng đồng học 
Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp 
91 
tập chuyên môn ở nhà trường phổ thông là một vấn đề cần quan tâm và vận dụng đúng 
mức để đảm bảo quá trình đổi mới giáo dục ở nước ta mang lại hiệu quả. 
Lời cảm ơn: Bài báo là sản phẩm nghiên cứu của Đề tài B2018-SPH-03HT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Astuto, T.A., Clark, D.L., Read, A.-M., McGree, K & de Fernandez, L.K.P., 1993. 
Challenges to dominant assumptions controlling educational reform. Andover, MA: 
Regional Laboratory for the Educational Improvement of the Northeast and Islands; 
trích từ Stoll, L., Bolam, R., McMahon, A. et al. J Educ Change (2006). Professional 
Learning Communities: A Review of the Literature. Journal of Educational Change 
(2006) 7:221–258. DOI 10.1007/s10833-006-0001-8. 
[2] Davidson, J., & Dwyer, R., 2014. The role of professional learning in reducing 
isolation experienced by classroom music teachers. Australian Journal of Music 
Education, (1), 38-51. 
[3] Department: Basic Education, Republic of south Africa, 2015. Professional Learning 
Communities – A guideline for South African schools. Truy cập từ 
Communities-A-guideline-for-South-Af.pdf vào 12.03 ngày 12.10.2018. 
[4] DuFour, R., 2014. Harnessing the power of PLCs. Educational Leadership, 71(8), 30-35. 
[5] Ferguson, K., 2013. Organizing for professional learning communities: embedding 
professional learning during the school day. Canadian Journal of Educational 
Administration and Policy, (142), 50-68. 
[6] Hord, Shirley M., 1997. "Professional learning communities: communities of 
continuous inquiry and improvement" (PDF). White paper issued by Southwest 
Educational Development Laboratory, Austin, TX and funded by the Office of 
Educational Research and Improvement, United States Department of Education. 
Retrieved 27 October 2016. A summary of the white paper was published as: Hord, 
Shirley M. (1997). "Professional learning communities: what are they and why are 
they important?". Issues about Change. 6 (1). 
[7] Hord, S., 2004. Professional learning communities: An overview. In S. Hord (ed), 
Learning together, leading together: Changing schools through professional learning 
communities. New York: Teachers College Press. 
[8] King, M.B. & Newmann, F.M., 2001. Building school capacity through professional 
development: Conceptual and empirical considerations. International Journal of 
Educational Management 15(2), 86–93; trích từ Stoll, L., Bolam, R., McMahon, A. et 
al. J Educ Change, 2006. Professional Learning Communities: A Review of the 
Literature. Journal of Educational Change (2006) 7:221–258. DOI 10.1007/s10833-
006-0001-8. 
[9] Louis, K.S., Kruse, S.D. & Associates., 1995. Professionalism and community: 
Perspectives on reforming urban schools. Thousand Oaks, CA: Corwin Press Inc. 
Nguyễn Hoang Đan Huy 
92 
[10] McConnell, T. J., Parker, J. M., Eberhardt, J, Koehler, M. J., & Lundeberg, M. A., 
2013). Virtual professional learning communities: teachers’ perceptions of virtual 
versus face-to-face professional development. Journal of Science Education and 
Technology, 22(3), 267-277. doi: 10.1007/s10956-012-9391-y 
[11] Mitchell, C. & Sackney, L., 2000. Profound improvement: Building capacity for a 
learning community. Lisse, The Netherlands: Swets & Zeitlinger; trích từ Stoll, L., 
Bolam, R., McMahon, A. et al. J Educ Change (2006). Professional Learning 
Communities: A Review of the Literature. Journal of Educational Change (2006) 
7:221–258. DOI 10.1007/s10833-006-0001-8. 
[12] Myers, Charles B.; Myers, Lynn K., 1995. The professional educator: a new 
introduction to teaching and schools. Belmont, CA: Wadsworth 
Publishing. ISBN 0534205747. OCLC 31009967. 
[13] Owen, S. M., 2015. Teacher professional learning communities in innovative 
contexts: “Ah hah moments,” “passion” and “making a difference” for student 
learning. Professional Development in Education, 41(1), 57-74. doi: 
10.1080/19415257.2013.869504 
[14] Peskin, J., Katz, S., & Lazare, G., 2009. Curriculum, coherence, and collaboration: 
building a professional learning community among instructors in initial teacher 
education. Teaching Educational Psychology, 4(2), 23-38. 
[15] Poulos, J., Culberston, N., Piazza, P., & D’entremont, C., 2014. Making space: The 
value of teacher collaboration. Education Digest, 80(2), 28-31. 
[16] Senge, Peter M., 2006) [1990]. The fifth discipline: the art and practice of the 
learning organization (Revised ed.). NewYork:Currency/ 
Doubleday. ISBN 0385517254. OCLC 65166960. 
[17] Sims, R. L., & Penny, G. R., 2014. Examination of a failed professional learning 
community. Journal of Education and Training Studies, 3(1), 39- 45. doi: 
10.11114/jets.v3i1.558 
[18] Stahl, K. A., 2015. Using professional learning communities to bolster 
comprehension instruction. Reading Teacher, 68(5), 327-333. doi: 10.1002/trtr.1311 
[19] Tam, A., 2015. The role of a professional learning community in teacher change: A 
perspective from beliefs and practices. Teachers and Teaching: Theory and Practice, 
21(1), 22-43. doi: 10.1080/13540602.2014.928122 
[20] Toole, J.C. & Louis, K.S., 2002. The role of professional learning communities in 
international education. In K. Leithwood & P. Hallinger (eds), Second international 
handbook of educational leadership and administration. Dordrecht: Kluwer; trích từ 
Stoll, L., Bolam, R., McMahon, A. et al. J Educ Change (2006). Professional 
Learning Communities: A Review of the Literature. Journal of Educational Change 
(2006) 7:221–258. DOI 10.1007/s10833-006-0001-8. 
[21] Woodland, R. H., & Mazur, R., 2015. Beyond hammers versus hugs: Leveraging 
educator evaluation and professional learning communities into job-embedded 
professional development. NASSP Bulletin, 99(1), 5-25. doi: 
10.1177/0192636515571934. 
Mối quan hệ giữa cộng đồng học tập chuyên môn với việc phát triển nghề nghiệp 
93 
ABSTRACT 
The Relationship between professional learning community with teacher 
professional development and quality of school education 
Nguyen Hoang Doan Huy 
Institute for Educational Research, Hanoi National University of Education 
Teacher professional competency plays as an important role that directly impact to 
the quality of school education . There are controversial agreements related to the effects 
of the current forms of teacher professional development used globally. Professional 
learning community (PLC) emerged as an essential and accepted solution in this situation. 
By quoting from a number of relevant international studies , the paper introduces the 
term of PLC including definition, characteristics, relationships with teacher professional 
development and quality of school education . 
Keywords: Professional Learning Community, Teacher competency, Teacher 
Professional Development; Quality of School Education. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_cong_dong_hoc_tap_chuyen_mon_voi_viec_phat.pdf