Khái quát một số thảo luận đáng chú ý hiện nay về tôn giáo trong chính sách công
Tóm tắt: Bài viết khái quát những thảo luận học thuật về vấn đề
tôn giáo trong chính sách công từ các phương diện xã hội học,
chính trị học, luật học, và tôn giáo học. Những vấn đề chủ yếu
được giới thiệu xoay quanh mối quan hệ giữa nhà nước và tôn
giáo, sự hiện diện của yếu tố tôn giáo nơi không gian công, cũng
như những điều chỉnh về chính sách đối với tôn giáo trong bối
cảnh phục hồi tôn giáo, đa dạng hóa tôn giáo, cũng như sự gia
tăng căng thẳng trong quan hệ quốc tế có nguyên nhân tôn giáo.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khái quát một số thảo luận đáng chú ý hiện nay về tôn giáo trong chính sách công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khái quát một số thảo luận đáng chú ý hiện nay về tôn giáo trong chính sách công
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 3 HOÀNG VĂN CHUNG* KHÁI QUÁT MỘT SỐ THẢO LUẬN ĐÁNG CHÚ Ý HIỆN NAY VỀ TÔN GIÁO TRONG CHÍNH SÁCH CÔNG Tóm tắt: Bài viết khái quát những thảo luận học thuật về vấn đề tôn giáo trong chính sách công từ các phương diện xã hội học, chính trị học, luật học, và tôn giáo học. Những vấn đề chủ yếu được giới thiệu xoay quanh mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, sự hiện diện của yếu tố tôn giáo nơi không gian công, cũng như những điều chỉnh về chính sách đối với tôn giáo trong bối cảnh phục hồi tôn giáo, đa dạng hóa tôn giáo, cũng như sự gia tăng căng thẳng trong quan hệ quốc tế có nguyên nhân tôn giáo. Từ khóa: tôn giáo, chính sách công, nhà nước-tôn giáo, an ninh, hài hòa xã hội 1. Giới thiệu Sự phục hồi tôn giáo mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới trong 2 thập niên gần đây có nhiều biểu hiện khác nhau. Trong khi người ta chứng kiến sự gia tăng tín đồ ở một số tôn giáo lớn; sự trở lại với những thực hành tôn giáo truyền thống và bản địa, sự phát sinh các hình thức thực hành tôn giáo, tâm linh mới; sự biểu đạt tôn giáo cá nhân; truyền giáo; hoạt động cứu trợ nhân đạo hoặc từ thiện, thì người ta cũng chứng kiến các hoạt động có tính chất khủng bố, đe dọa an toàn và an ninh của con người và xã hội trong đó có động cơ hay lý do tôn giáo khá rõ rệt. Tôn giáo đã trở thành một đề tài nổi bật trên các phương tiện truyền thông đại chúng và đồng thời có mặt trong các đối thoại quốc tế vốn ngày càng diễn ra thường xuyên hơn. Không nghi ngờ gì, tôn giáo đang trở lại và hiện diện mạnh mẽ nơi không gian công cộng. Lý thuyết thế tục hóa tôn giáo đã bị thách thức mạnh mẽ bởi nó từng dự đoán việc tôn giáo dần rút lui khỏi không gian công, rơi vào vị trí bên lề của phát triển xã hội, và sẽ chỉ còn tồn tại trong miền cá nhân riêng tư. Thực tiễn tình hình hiện nay cho thấy, tôn giáo bằng nhiều con đường * TS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 4 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 khác nhau đang xâm nhập trở lại hiện thực đời sống công cộng và gia tăng sự ảnh hưởng. Điều này đặt ra những vấn đề đáng quan tâm và cả những thách thức cho các quốc gia trong quá trình xây dựng chính sách công, đặc biệt những chính sách công có liên quan trực tiếp đến tôn giáo. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi những chính sách công ấy lại còn phải được tính toán trong sự tương hợp với sự phát triển ở nhiều mức độ khác nhau của các tổ chức xã hội dân sự cũng như những tranh luận về lộ trình hình thành các xã hội dân sự ở cấp độ quốc gia hay toàn cầu. Tuy thế, tất cả những vấn đề này còn ít được tìm hiểu bởi các nhà nghiên cứu trong nước. Ngay trong các công trình của các học giả quốc tế, chủ đề nghiên cứu về vấn đề tôn giáo trong chính sách công cũng chỉ mới được đề cập trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh các xã hội hiện nay, có những vấn đề gì đáng chú ý nhất đã và sẽ đặt ra về vai trò của tôn giáo khi bàn về chính sách công? Đây là chủ đề rất đáng nghiên cứu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhất là khi Việt Nam bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến lộ trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện đại, và đến chính sách công. Chính sách về tôn giáo là một khái niệm rộng, và rất khác nhau giữa các loại hình chính thể khác nhau. Ở phần lớn các nước theo mô hình nhà nước pháp quyền, từ lâu chính sách tôn giáo chính là một bộ phận của chính sách công. Các lý thuyết về chính sách công thì rất đa dạng. Bài viết chỉ cố gắng nêu ngắn gọn cách hiểu về chính sách công để từ đó dành nhiều dung lượng hơn cho khái quát những thảo luận học thuật về tôn giáo trong chính sách công khai thác được từ các công trình xã hội học, chính trị học, và luật học. 2. Khái quát các lý thuyết về chính sách công Thế nào là một chính sách công? Tùy cách tiếp cận mà người ta đề ra những cách định nghĩa khác nhau. Trước tiên, khái niệm “công” (public) ở đây cần hiểu ở 2 nghĩa: Thứ nhất, cái thuộc về “công chúng” nhưng lại do nhà nước chịu trách nhiệm sau cùng. Nhưng xét đến cùng, nhà nước cũng là do công chúng lập ra để thay mặt quản lý xã hội. Thứ hai, “công” là cái gì đó thuộc về của chung, thuộc về mọi người chứ không chỉ nhà nước, và nó ngược với cái thuộc về riêng tư (private). Cho nên, chính sách công là sản phẩm của sự làm việc chung, và nếu một chính sách chỉ do nhà nước áp đặt để giải quyết vấn đề mà nhà nước muốn thì không được gọi là chính sách công. Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 5 Theo nhận định chung của khá nhiều nhà nghiên cứu, chính sách công có thể xem là một tuyên bố của chính phủ về dự định của nó khi giải quyết một vấn đề công nhiều khi được khởi xướng hay đòi hỏi bởi chính người dân. Các tuyên bố đó có thể thấy trong hiến pháp, điều luật, quy định, quyết định của nhà nước, v.v...1. Chính sách công cũng có thể được hiểu là những nỗ lực của của một chính phủ nhằm xử lý một vấn đề công thông qua việc xây dựng các quy định, các quyết định hay các hành động. Thực tế cho thấy, có rất nhiều vấn đề cần phải xử lý bằng chính sách công như tội phạm, giáo dục, an ninh quốc gia, chính sách quốc tế, y tế, và phúc lợi xã hội. Theo Yehezkel Dror, chính sách công cần được hiểu như một quá trình liên tục của việc ban hành các chính sách tương liên2. Quá trình xây dựng chính sách công có thể có kết quả gián tiếp, tức là kết quả của tác động của chính sách đó đến tình hình thực tiễn. Kết quả trực tiếp tức là “chính sách” được hoàn chỉnh, có thể là một điều luật, một tuyên bố, hay một chỉ thị3. Đối với Schneider and Ingram, “các chính sách là các cộng cụ mà qua đó các xã hội điều hành và quản lý chính mình”4. Trên thực tế, chính sách hiếm khi là một hành động đơn lẻ, mà thường là một loạt hành động hợp tác để chính quyền đạt lấy một mục tiêu cụ thể. Như vậy có thể thấy, chính sách công là một hệ thống gồm các chính sách có quan hệ chặt chẽ với nhau mà một chính phủ cần có để quản lý xã hội một cách hiệu quả và đảm bảo dân chủ. Cần thấy được 3 điểm quan trọng sau: Thứ nhất, xây dựng chính sách công sau cùng vẫn là công việc của chính phủ, nhằm điều hành và quản lý xã hội. Thứ hai, trong nhiều trường hợp, ý tưởng hay nhu cầu về chính sách công xuất phát từ người dân và người dân cũng là đối tượng để chính phủ lấy ý kiến rộng về dự thảo chính sách. Thứ ba, mục tiêu của chính sách công là các văn bản luật cụ thể, giải quyết những vấn đề thực tiễn hiện tại và hướng tới tương lai. Rõ ràng, chính sách công luôn là kết quả của cả một quá trình lâu dài và phức tạp. Để một chính sách công ra đời, cần phải thực hiện những bước nhất định, tức là phải trải qua một quá trình. Quá trình tạo ra một chính sách công mới thường theo 3 bước sau: thiết lập chương trình nghị sự (agenda-setting); tính toán về chọn lựa (option-formulation); và thực hiện (implementation). Thường thì công chúng sẽ khiến chính phủ nhận biết về một vấn đề thông qua thư và email, hay các cuộc gọi điện thoại tới các lãnh đạo địa phương; vấn đề được đưa ra bàn thảo ở chính phủ 6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 và quá trình lập chính sách công mới bắt đầu. Một chính sách công khi đi vào thực tiễn sẽ phải cởi mở đối với sự lý giải của các chủ thể phi chính phủ, gồm cả bộ phận tư nhân. Thực tế, nhu cầu của xã hội cần phải là sự ưu tiên đối với các chủ thể liên quan đến quá trình làm chính sách; đồng thời, một khi chính sách công đã được thông qua, chính phủ phải tuân theo. Cần chú ý là các nhà nghiên cứu đã nhận định rằng, những người chỉ ra những vấn đề cần phải xử lý bằng chính sách thường có ảnh hưởng khá nhiều đến toàn bộ quá trình làm chính sách qua cá tính, quan tâm cá nhân, những vị trí chính trị... Do đó, rất khó có thể có một chính sách công mà là kết quả của một quá trình thuần túy duy lý và hoàn toàn khách quan. Tuy nhiên, nhìn chung, chính sách công vẫn là một công cụ thiết yếu trong việc giải quyết những vấn đề xã hội quan tâm5. Từ những trình bày ở trên, có thể tạm đưa ra một mô hình về các bước tối thiểu sẽ diễn ra trong một quá trình chính sách như sau: (1) Phát hiện vấn đề và đề xuất giải pháp bằng xây dựng chính sách => (2) Thiết lập chương trình nghị sự về chính sách => (3) Hiện thực hóa và thực thi chính sách; (4) Đánh giá hiệu quả chính sách. Đôi khi, chính sách của nhà nước và chính sách công đi từ hai chiều ngược nhau. Chính sách của nhà nước, như thường thấy, được ban hành và phổ biến cũng như thực thi theo chiều từ trên xuống. Trong khi đó, chính sách công trong nhiều trường hợp lại có thể là một quá trình xuất phát từ dưới lên, do công chúng phát hiện vấn đề cần giải quyết, đề xuất việc hình thành chính sách, đưa vào những sáng kiến của mình, và nhà nước với tư cách là đại diện đứng ra làm các thủ tục cần thiết để một đòi hỏi của thực tiễn cần giải quyết trở thành một chính sách cụ thể. Đây là mô hình của thiên hướng hợp tác nhà nước - dân chúng hướng tới lợi ích chung và đảm bảo sự hài lòng của cả hai bên. 3. Vấn đề tôn giáo trong chính sách công Có những vấn đề gì đáng chú ý trong các tranh luận về chính sách công khi đụng đến yếu tố tôn giáo? Tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, gắn chặt với một trong những quyền tự do cơ bản của con người, trong khi chính sách công là sản phẩm chung giữa Nhà nước và công chúng cho nên để tìm kiếm sự thỏa mãn cho tất cả các bên là một câu chuyện không có hồi kết. Những tranh luận về chính sách công về tôn giáo luôn nằm trong mối quan hệ rắc rối giữa chính trị, bối cảnh tôn Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 7 giáo, quan điểm khác nhau về tự do tôn giáo, hệ thống pháp lý, quan điểm về đạo đức, và đặc tính của xã hội dân sự sở tại. Tiêu biểu nhất trong những tranh luận liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề tôn giáo trong chính sách công thường xoay quanh các chủ đề lớn sau đây: ứng xử với sự hiện diện của yếu tố tôn giáo nơi không gian công; tôn giáo trong chiến lược xây dựng đất nước; và việc khai thác yếu tố văn hóa, luân lý và đạo đức trong xây dựng luật pháp về tôn giáo. Những tranh luận đó một mặt đòi hỏi sự xác định bản chất của nhà nước trong một trạng huống chính trị - văn hóa - tôn giáo cụ thể và mặt khác là vị thế của nhà nước trước các vấn đề tôn giáo vẫn tồn tại hoặc mới nảy sinh trong xã hội. Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày các nội dung trên qua một số trường hợp nghiên cứu cụ thể ở một số quốc gia hay khu vực. 3.1. Sự hiện diện của tôn giáo trong không gian công Quá trình hiện đại hóa, thế tục hóa cũng như mô hình phổ biến của sự phân tách giữa tôn giáo và nhà nước từng khu biệt thực hành tôn giáo và biểu hiện niềm tin tôn giáo vào các không gian thờ cúng riêng biệt hay không gian cá nhân riêng tư. Song trong vài thập niên gần đây, sự trỗi dậy của tôn giáo trên phạm vi toàn cầu cùng quá trình “giải/giảm cá nhân hóa” (deprivatization) niềm tin và thực hành tôn giáo đều mang lại biểu hiện dễ thấy là sự hiện diện trở lại yếu tố tôn giáo trong các không gian công khác nhau. Chính sách công về tôn giáo lại gặp những thách thức của việc một bên là đáp ứng nhu cầu của người dân trong diễn tả niềm tin tôn giáo, và bên kia là duy trì nguyên tắc đảm bảo tôn giáo không lấn lướt vào các không gian thế tục. Dưới đây, chúng tôi chỉ lấy ví dụ về hai trường hợp đáng chú ý là Pháp và Mỹ. 3.1.1. Biểu tượng tôn giáo nơi không gian công ở Pháp Ở đây, chúng tôi xem xét cụ thể vấn đề sử dụng khăn choàng Islam giáo (hijab) tại các trường học công và tại các cơ quan công quyền cũng như nơi không gian sinh hoạt xã hội chung ở Pháp. Bắt đầu dự thảo từ năm 1999, đến tháng 3 năm 2004, Chính phủ Pháp thông qua Luật cấm học sinh trường công sử dụng “biểu tượng tôn giáo gây chú ý đặc biệt” (conspicious religious symbol). Luật áp dụng với các tôn giáo, song được cho là nhắm vào tín đồ nữ của Islam giáo. Tháng 10 năm 2010, một luật nữa được ban hành, cấm việc “che mặt nơi công cộng” (concealing the face in public sphere) và một lần nữa, phụ nữ Islam giáo được cho là mục tiêu nhắm đến của luật này. Luật này không chỉ cấm phụ nữ Islam giáo sử 8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 dụng niqab (khăn che mặt chỉ hở mắt) mà còn cả burqa (vải che toàn thân với tấm lưới duy nhất cho mắt nhìn xuyên qua). Chính phủ Pháp tuyên bố những luật này là một bước đi cần thiết để thực hành nguyên tắc Laïcité (thể chế thế tục trung tính), tức là một phiên bản Pháp của chủ nghĩa thế tục và việc phân tách Tôn giáo và Nhà nước6, đồng thời cũng là tuyên bố về cam kết bảo đảm bình đẳng giới7. Các chính trị gia Pháp và những người đấu tranh cho nữ quyền Phương Tây có xu hướng ủng hộ các luật này vì tin rằng bắt che mặt hay che toàn thân là có tính đàn áp với phụ nữ, xuất phát từ tư tưởng trọng nam. Tuy thế, một số nhà nghiên cứu lại lý luận rằng, những luật ấy thực chất không phát huy tác dụng trong thực tiễn. Lý luận chủ yếu là một mặt việc buộc bỏ che mặt có thể hiểu tương tự như việc buộc người phải được tự do theo cách nghĩ của mình và như thế nghĩa là làm tổn hại chính khái niệm về tự do8. Mặt khác, phạt phụ nữ Islam giáo vì đeo khăn che mặt không có nghĩa là giải phóng họ, và vì thế lại là chống lại phụ nữ9. Tương tự, việc áp dụng các tiêu chí về tự do và giải phóng phụ nữ theo cách nhìn Phương Tây chưa hẳn đã là ý nghĩa đối với phụ nữ gốc Trung Đông theo Islam giáo. Theo phân tích của Alia Al-Saji, nó có thể là một dạng phân biệt chủng tộc10. Như vậy, việc mang theo dấu hiệu hay biểu tượng diễn tả bản sắc tôn giáo, ngoài không gian tôn giáo - vốn đã được hoạch định hoặc ngoài không gian riêng tư - như là việc tuân thủ quy định của tôn giáo mình tin theo lại trở nên vi phạm pháp luật thế tục. Mặt khác, pháp luật thế tục thể hiện ý chí và quan điểm của đa số nhưng có thể vi phạm nhu cầu hay quyền lợi của thiểu số. Ngoài ra, phương diện sâu xa hơn của câu chuyện này là nước Pháp từ lâu là một quốc gia mà người Công giáo là đa số. Từ khi có sự thay đổi về chính sách nhập cư, khối Islam giáo như là một tôn giáo mới mẻ đã gia tăng nhanh chóng về quy mô. Trong bối cảnh mới, ở đây cũng cần ngầm hiểu về việc chính quyền phải hành động chủ động để bảo vệ an ninh quốc gia. Chẳng hạn, thành viên của nhóm Islam giáo cực đoan nào đó hoàn toàn có khả năng lợi dụng khăn và vải che mặt để thực hiện những hành vi khủng bố. 3.1.2. Tôn giáo trong giáo dục công ở Mỹ Theo Hiến pháp Mỹ quyền tự do tôn giáo là quyền hàng đầu. Nhưng sự hiện hữu của tôn giáo nơi không gian công thì có thể quan sát từ rất nhiều góc độ. Theo khái quát của Paul Finkelman, người Mỹ xem mình là những người có tôn giáo, với các thiết chế được thiết lập dựa trên sự Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 9 giả định rằng, có tồn tại một Đấng Tối cao. Người Mỹ tuyên bố về niềm tin của mình trên tiền tệ, thề trung thành với lá cờ tổ quốc; thừa nhận Mỹ là một quốc gia dưới quyền uy của Chúa Trời (under God); Tòa án Tối cao Mỹ bắt đầu mỗi phiên xét xử với lời tuyên rằng “Chúa cứu rỗi nước Mỹ và tòa án đáng kính này”; và hầu hết mọi tổng thống đều viện dẫn đến Chúa Trời trong bài diễn văn nhậm chức của mình cũng như trong ... úy thế tục lại rất có thể là phi thực tiễn và kém hiệu quả. 4. Kết luận Bài viết đã khái quát những phương diện lý thuyết cơ bản nhất về chính sách công. Quan trọng hơn, bài viết phân loại những thảo luận học thuật tiêu biểu xuất phát từ những diễn biến thực tiễn của tôn giáo trong quan hệ với các quá trình xây dựng hay điều chỉnh chính sách công về tôn giáo thấy được ở một số quốc gia trên thế giới, trong đó có đề cập đến Việt Nam. Những mối quan hệ đã được phân tích trong bài viết đã cho thấy những vấn đề quen thuộc như nguyên tắc phân tách giữa nhà nước và giáo hội (theo nghĩa là các tổ chức tôn giáo), sự hiện diện của đạo đức tôn giáo trong xây dựng luật công, hay những vấn đề mới trở nên nóng hổi như chiến lược ứng xử với tôn giáo nhằm đảm bảo an ninh quốc gia và hài hòa xã hội đều đặt ra những thách thức không dễ giải quyết đối với bất cứ quốc gia nào. Tôn giáo thể hiện ngày càng rõ vị thế là những nguồn lực mạnh mẽ có thể sử dụng cho việc xây dựng đất nước, song việc chính sách hóa sự tham gia của tôn giáo vào những vấn đề của đất Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 23 nước lại hết sức phức tạp, khó khăn và tùy thuộc vào bối cảnh đặc thù của mối quan hệ chính trị - tôn giáo - dân tộc. Có một nan đề (dilemma) hay sự tiến thoái lưỡng nan khá phổ biến là diễn biến của thực tiễn đời sống tôn giáo đòi hỏi các nhà nước dù là dựa vào một tôn giáo cụ thể hay thế tục phải phản ứng qua việc chỉnh sửa hay làm mới chính sách và luật pháp. Nhưng khi làm như vậy, các nhà nước lại vấp phải hàng loạt những vấn đề “đau đầu” như đảm bảo quyền tự do tôn giáo, sự trung thành với tinh thần và các nguyên tắc của hiến pháp lập quốc, cũng như sự tôn trọng quyền lợi của các bộ phận dân cư (xác định bởi sắc tộc hay tôn giáo) theo các tiêu chí của nền dân chủ. Trong một số trường hợp, càng ít chính sách hay luật định về hoạt động tôn giáo thì có nghĩa là sự đảm bảo tự do tôn giáo được tốt hơn và ngược lại. Sau cùng thì chúng ta cần phải thừa nhận rằng chính trị trong đó có vấn đề hoạch định chính sách và tôn giáo là những yếu tố ảnh hưởng đến tư duy, ý thức, tình cảm và động cơ hành động của con người theo những chiều hướng rất khác nhau. Xác định được những điểm giao thoa của các chiều hướng ấy có thể là những bước khởi đầu đầy triển vọng cho việc xây dựng một hệ thống chính sách công vừa hữu hiệu vừa nhân bản./. CHÚ THÍCH: 1 Thomas A. Birkland (2011), An Introduction to the Policy Process: Theories, Concepts, Models of Public Policy Making, third edition, Routledge, New York: 9. 2 Yehezkel Dror (2003), Public Policy Making Reexamined, Transaction publishers, New Jersey. 3 Yehezkel Dror (2003), Sđd: 34. 4 Dẫn theo: Anthony Michael Kreis and Robert K. Christensen (2013), “Law and Public Policy”, The Policy Studies Journal, Vol. 41, No. S1. 5 Tham khảo: 6 Ajay Sighn Chaudhary (2005), “The Simulacra of Morality”: Islamic Veiling, Religious Politics and the Limits of Liberalism”, Dialectical Anthropology: 349. 7 Alia Al-Saji (2010), “The Racialization of Muslim Veils: A Philosophical Analysis”, Philosophy & Social Criticism, 36 (8): 876. 8 Ajay Sighn Chaudhary (2005), Bài đã dẫn: 358. 9 Myriam Hunter-Henin (2012), “Why the French don’t like the Burqa: Laïcité, National identity and religious Freedom”, International and Comparative Law Quarterly, No. 61: 627. 10 Ajay Sighn Chaudhary (2005), Bài đã dẫn: 877. 11 Paul Finkelman (2000), “Introduction”, in Religion and American Law: An Encyclopedia, Garland Publishing, Inc, New York: vi. 24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 12 Dẫn theo: Robert van Krieken, Philip Smith, Daphne Habibis, Kevin McDonald, Michael Haralambos, Martin Holborn (2000), Sociology: Themes and Perspectives, 2nd Edition, Longman: 475. 13 Frank S. Ravitch (2015), “Attempts to Teach Creationism and Evolution in Public Schools in the United States”, bài giảng tại lớp học Tôn giáo và Pháp quyền tổ chức tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội tháng 9/2015. 14 Paul Finkelman (2000), Sđd: vii. 15 Frank S. Ravitch (2015), Bài đã dẫn. 16 Anatoli Sokolov (2006), “New Religious Phenomena and the State Policies”, Hội thảo quốc tế Bước đầu thảo luận: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, tháng 9. 17 Anatoli Sokolov (2006), Bài đã dẫn. 18 Anatoli Sokolov (2006), Bài đã dẫn. 19 Paul Finkelman (2000), Sđd: vii. 20 Tham khảo thêm các nghiên cứu về cộng đồng người Amish, hay trường hợp các tôn giáo thiểu số (Jehovah Witnesses, Christian Scientists) mà tín điều của họ yêu cầu thành viên hoặc từ chối tham gia nghĩa vụ quân sự, từ chối truyền máu, từ chối chào quốc kỳ, hay từ chối chữa bệnh bằng tân dược. 21 Xem thêm: Chris Seiple (2006), “Thinking about Religion & Stability: Social Disharmony or Social Stability?”, Hội thảo Quốc tế: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tháng 9/2006: 5. 22 Pauletta Otis (2004), Sđd: 14. 23 Tôi đã trình bày với nhiều chi tiết về những phản ứng qua chính sách và pháp luật của nhiều nhà nước trên thế giới, trong đó có nước Mỹ, đối với các phong trào tôn giáo mới trong bài viết Hoàng Văn Chung (2014), “Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 9 (16). 24 Daniele Hervieu-Leger (2004), “France's Obsession with the "Sectarian Threat"”, in Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins (eds), New Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, New York: Routledge: 354. 25 Douglas Johnston (2004), “Introduction”, in Religion& Security: The New Nexsus in International Relations, Robert A. Seiple and Dennis R. Hoover (eds), Rowman & Littlefield Publishers, Inc., New York: 2. 26 Nguyễn Thái Yên Hương (Chủ biên, 2014), Tôn giáo Mỹ và việc sử dụng vấn đề tôn giáo trong chính sách đối ngoại Mỹ thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội: 117. 27 Xem nguyên văn tại 28 Xem: Şenol Korkut (2010), “The Diyanet of Turkey and Its Activities in Eurasia after the Cold War”, Acta Slavica Iaponica, Tomus 28: 121. 29 Xem: Nguyễn Thái Yên Hương (2014), Sđd: 129 - 130. 30 Judis J. B. (2005), “'The chosen Nation: the influence of religion on U.S. foreign policy'”, Carnegie Endownment for International Peace, No. 37, March. 31 Xem: John Lewis Gaddis (2009), “A Grand Strategy of Transformation”, 32 Dẫn theo: Nguyễn Thái Yên Hương (2014), Sđd: 122 - 123. 33 Xem: Toh See Kiat (2006), “Legislating to Protect Minorities and Religious Freedom: The Balance Between the State's Need to Preserve the Social Fabric Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 25 and Individual Preferences”, International Conference on Religion in Rule of Law in Southeast Asia, Hanoi, September. 34 Tôi đã trình bày một phần nội dung này trong: Hoàng Văn Chung (2015), “Tôn giáo trong xung đột và hòa giải: Quan điểm từ các nhà khoa học”, Hội thảo Quốc tế Tôn giáo, Xung đột và Hòa bình do Viện Liên kết Toàn cầu (IGE) và Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26-27 tháng 3. 35 Xem thêm: Hoàng Văn Chung (2015), “Tôn giáo trong xung đột và hòa giải: Quan điểm từ các nhà khoa học”, Bđd. 36 Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, in Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins (eds). New Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, New York: Routledge. 37 Pauletta Otis (2004), “Religion and War in the Twenty-first Century”, in Religion and Security: The New Nexus in International Relations, Robert A. Seiple and Dennis R. Hoover (ed), Rowman & Littlefield publishers, Inc, New York: 13. 38 Pauletta Otis (2004), Sđd: 14. 39 Pauletta Otis (2004), Sđd: 14. 40 Rik Torfs (2006), “Experiences of Western Democracies in Dealing with the Legal Position of Churches and Religious Communities”, Hội thảo quốc tế Bước đầu thảo luận: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, tháng 9. 41 Tham khảo: Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước, Tôn giáo, Luật pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 42 Keyes, C. F., Kendall, L. and Hardacre, H. (1994), “Introduction: Contested Visions of Community in East and Southeast Asia”, In: Keyes, C. F., Kendall, L. and Hardacre, H. (eds.) Asian Visions of Authority: Religion and the Modern States of East and the Modern States of East and Southeast Asia, Honolulu: University of Hawaii Press: 4 - 5. 43 Keyes, C. F., Kendall, L. and Hardacre, H. (1994), Sđd: 5. 44 Pitman Potter (2003), “Belief in Control: Regulation of Religion in China”, The China Quarterly, (174): 337. 45 Terence Chong (2010), “Religion and Politics in Southeast Asia”, Journal of Social Issues in Southeast Asia, (1 April): vii - viii. 46 Philip Taylor (2007), “Modernity and Re-enchantment in Post-revolutionary Vietnam”, in Taylor, P. (ed.) Modernity and Re-enchantment: Religion in Post- revolutionary Vietnam, Singapore: ISEAS Publishing: 32. 47 Pascal Bourdeaux and Jean-Paul Willaime (2010), “'Introduction: Religious Reconfigurations in Vietnam”, Social Compass, 57 (3): 307. 48 Mathieu Bouquet (2010), “Vietnamese Party-State and Religious Pluralism since 1986: Building the Fartherland?”, Social Issues in Southeast Asia, (25) 1: 91. 49 Claire Trần Thị Liên (2013), “Communist State and Religious Policy in Vietnam: A Historical Perspective”, Hague Journal on the Rule of Law, 5.2 (Sept. 2013): 247 - 249. 50 Xem: Tal Asad (1999), “Religion, Nation-State, Secularism”, in Van der Veer, P. and Lehmann, H. (eds.) Nation and Religion: Perspectives on Europe and Asia, Princeton: Princeton University Press: 192. 51 Xem: Dallin H. Oaks (1992), Religious Values and Public Policy, truy cập tại: 26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 52 tại:https://www.lds.org/ensign/1992/10/religious-values-and-public- policy?lang=eng 53 Xem: Dallin H. Oaks (1992), Bài đã dẫn. 54 Xem: Dallin H. Oaks (1992), Bài đã dẫn. 55 Frank G. Kirkpatrick, The Role of Religious Ethics in Public Policy, truy cập tại: eth_b_3718357.html 56 M. Parker and L. Skene (2002), “Religion, the Law and Medical Ethics: The Role of the Church in Developing the Law”, J Med Ethics 28: 215 - 218. 57 Brett G Scharffs (2007), “Towards a Framework for Understanding for Charitable and Economic Activities of Churches: The U.S example”, Hội thảo Quốc tế Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tháng 11: 11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anatoli Sokolov (2006), “New Religious Phenomena and the State Policies”, Hội thảo Quốc tế Bước đầu thảo luận: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, tháng 9. 2. Anthony Michael Kreis and Robert K. Christensen (2013), “Law and Public Policy”, The Policy Studies Journal, Vol. 41, No. S1. 3. Brett G. Scharffs (2007), “Towards a Framework for Understanding for Charitable and Economic Activities of Churches: The U.S example”, Hội thảo Quốc tế Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tháng 11. 4. Hoàng Văn Chung (2014), “Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 9 (16) 2014. 5. Hoàng Văn Chung (2015), “Tôn giáo trong xung đột và hòa giải: Quan điểm từ các nhà khoa học”, Hội thảo quốc tế Tôn giáo, Xung đột và Hòa bình do Viện Liên kết Toàn cầu (IGE) và Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26-27 tháng 3. 6. Chris Seiple (2006), “Thinking about Religion & Stability: Social Disharmony or Social Stability?”, Hội thảo Quốc tế Bước đầu thảo luận: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, tháng 9. 7. Dallin H. Oaks (1992), Religious Values and Public Policy, truy cập tại: https://www.lds.org/ensign/1992/10/religious-values-and-public- policy?lang=eng 8. Frank G. Kirkpatrick, The Role of Religious Ethics in Public Policy, truy cập tại: eth_b_3718357.html 9. Frank S. Ravitch (2015), “Attempts to Teach Creationism and Evolution in Public Schools in the United States”, bài giảng tại lớp học Tôn giáo và Pháp quyền tổ chức tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, tháng 9. 10. Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước, Tôn giáo, Luật pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách Tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 11. John Lewis Gaddis (2009), “A Grand Strategy of Transformation”, Hoàng Văn Chung. Khái quát một số thảo luận... 27 12. Judis J. B. (2005), “The Chosen Nation: the Influence of Religion on U.S. Foreign Policy”, Carnegie Endownment for International Peace, No. 37, March. 13. Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, in Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins (eds). New Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, New York: Routledge. 14. Nguyên văn tại 15. Rik Torfs (2006), “Experiences of Western Democracies in Dealing with the Legal Position of Churches and Religious Communities”, Hội thảo Quốc tế Bước đầu thảo luận: Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, tháng 9. 16. Robert van Krieken, Philip Smith, Daphne Habibis, Kevin McDonald, Michael Haralambos, Martin Holborn (2000), Sociology: Themes and Perspectives, 2nd Edition, Longman. 17. Şenol Korkut (2010), “The Diyanet of Turkey and Its Activities in Eurasia after the Cold War”, Acta Slavica Iaponica, Tomus 28. 18. Tal Asad (1999), “Religion, Nation-State, Secularism”, in Van der Veer, P. and Lehmann, H. (eds.) Nation and Religion: Perspectives on Europe and Asia, Princeton: Princeton University Press. 19. Tham khảo: 20. Thomas A. Birkland (2011), An Introduction to the Policy Process: Theories, Concepts, Models of Public Policy Making, third edition, Routledge, New York. 21. Toh See Kiat (2006), “Legislating to Protect Minorities and Religious Freedom: The Balance Between the State's Need to Preserve the Social Fabric and Individual Preferences”, International Conference on Religion in Rule of Law in Southeast Asia, Hanoi, September. 22. Yehezkel Dror (2003), Public Policy Making Reexamined, Transaction Publishers, New Jersey. Abstract AN OVERVIEW OF THE CURRENT REMARKABLE DISCUSSION ON RELIGION IN PUBLIC POLICIES This article generalizes about the academic discussion on the religious affairs in public policies in the domain of sociology, political science, jurisprudence, and religious studies. It mainly mentions the relationship between the State and religions, the presence of religious elements in the public space, as well as the adjustment policies towards religions in the context of religious revival, religious diversity, and the rise of tension in the international relation related to religion. Keywords: Public policy, religion, state-religion, security, social harmony.
File đính kèm:
- khai_quat_mot_so_thao_luan_dang_chu_y_hien_nay_ve_ton_giao_t.pdf