Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập
TÓM TẮT
Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần
được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương
trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ
huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có
các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU -
CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET)
Bạn đang xem tài liệu "Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014 56 KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP TRƯƠNG MINH TRÍ(*) TÓM TẮT Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU - CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET) Từ khoá: kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, trường đại học, thời kỳ hội nhập ABSTRACT Quality inspection training program of the university is a requirement to be made a priority. It brings significant benefits endogenous; improving the quality of education and training, school management more efficient. Regarding external benefits; inspection program is to bring peace of mind, confidence for educational leaders, students, parents and society. Integration period universities have quality control programs. Because it is the survival and development of the brand. There are currently testing standards: (VNU - CEA) VNU Vietnam, AUN (Calibration Southeast Asia), ABET (Accreditation standards of the United States)... Keywords: quality inspection training program, university, integration period 1. ĐẶT VẤN ĐỀ(*) Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), giáo dục là một trong các dịch vụ của hội nhập. Đại học Việt Nam đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục đại học, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng (*)ThS, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước những thách thức và yêu cầu ngày càng cao trong quá trình hội nhập và phát triển, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được tiếp tục đổi mới, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, các điều kiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Nhà nước cũng đã khuyến khích các trường đại học và các chương trình đào tạo đăng ký kiểm định hoặc đánh giá bởi các tổ chức kiểm định quốc tế. [12] 57 1.1. Khái niệm chương trình đào tạo Chương trình đào tạo thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, điều kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực tập; kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình. Chương trình đào tạo được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. - Kiến thức giáo dục đại cương: Là kiến thức của những môn khoa học cơ bản vừa có tính chất đại cương của bậc đại học vừa có tính chất nền tảng cho việc đào tạo chuyên ngành. Phần kiến thức này chủ yếu được giảng dạy ở ba học kỳ đầu của khóa học. - Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp: Là kiến thức của những môn khoa học chuyên ngành, trang bị cho sinh viên những kiến thức, kỹ năng của một ngành đào tạo mà họ đã chọn để đạt trình độ kỹ sư hoặc cử nhân, tùy theo ngành. Phần kiến thức này được giảng dạy trên cơ sở nền tảng của phần kiến thức giáo dục đại cương. Đề cương chi tiết của từng học phần phải thể hiện rõ số lượng tín chỉ, điều kiện tiên quyết (nếu có), học trước, học song hành, nội dung lý thuyết và thực hành, cách thức đánh giá học phần, giáo trình, tài liệu tham khảo và điều kiện thí nghiệm, thực hành, thực tập phục vụ học phần. Chương trình đào tạo của các trường đại học áp dụng cho các khóa 2012 trở về sau có tổng số tín chỉ là khoảng 150. [7] 1.2. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo Kiểm định là một quá trình đánh giá toàn diện từ cung cách quản lý, cơ sở vật chất, nội dung giảng dạy đến chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Kiểm định trước hết phải là một quá trình tự nguyện của một trường đại học. Kiểm định quá trình trường tự nhìn lại mình để nhận ra mặt mạnh và mặt yếu. Qua đó đưa ra một lộ trình phát triển cho tương lai. Đó là một quá trình tự thân vận động theo hướng tích cực nhất, nó không phải là cứu cánh. Kiểm định còn là “sự tự chịu trách nhiệm” của nhà trường đối với những người có lợi ích và của quá trình giáo dục, đào tạo, đến sự hiện hữu của trường như nhà đầu tư, xã hội. Làm được như vậy trường đã tăng cường được tính minh bạch của nhà trường đối với xã hội. 1.2.1. Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục + Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội) (VNU-CEA) Ngày 5/9/2013, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 3568/QĐ– BGDĐT thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội. Tên giao dịch bằng tiếng anh: VNU Center for Education Accreditation (VNU- CEA). + Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-HCM) Quyết định số 5570/QĐ–BGDĐT, ngày 22/11/2013 thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tên giao dịch bằng tiếng anh: VNU–HCM center for Education Accreditation (VNU- HCM CEA). Nhiệm vụ của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục là đào tạo kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp. Đây là tổ chức 58 kiểm định đầu tiên của Việt Nam được quyền đánh giá và công nhận cho các trường đại học và các chương trình đào tạo ở trong nước. Các tổ chức này được quyền đưa ra các quyết định công nhân hay không công nhận các trường đại học và các chương trình đào tạo đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục mà không bị can thiệp bởi bên thứ ba. [9] Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục là tổ chức thực hiện các dịch vụ công về kiểm định chất lượng giáo dục, tư vấn, giám sát việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục theo các chuẩn mực quốc gia, khu vực và quốc tế. Kiểm định chất lượng giáo dục theo các tiêu chuẫn của Bộ tiêu chuẩn kiểm định chương trình đào tạo do Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đảm nhận, việc công nhận nhà trường đạt chuẩn kiểm định của quốc gia và bằng cấp có giá trị ở trong nước. Các tổ chức kiểm định ngoài công lập có thể được thành lập tại Việt Nam sau năm 2015. Hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam đã tạo được niềm tin trong các cơ sở giáo dục đại học. Sự tin tưởng này hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học cùng nhau hợp tác trong việc chuyển đổi tín chỉ, trao đổi sinh viên và công nhận bằng cấp lẫn nhau. [8] 1.2.2. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo chuẩn kiểm định chất lượng của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN) Với mục đích phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đại học trong khu vực ASEAN, tháng 11 năm 1995, Mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á AUN-QA (ASEAN University Network - Quality Assurance) đã được thành lập. Tính đến nay (tháng 9/2014), đã có 27 trường đại học đến từ 10 quốc gia (trong đó có Việt Nam) trong khu vực trở thành thành viên của tổ chức này [4]. Nhằm đẩy mạnh công tác đảm bảo chất lượng bên trong các trường đại học trong khu vực, AUN đã đưa ra sáng kiến đánh giá chất lượng giáo dục đại học theo những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng chung của khu vực ASEAN. Đây cũng là cách mà mạng lưới các trường đại học ASEAN nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau về chất lượng đào tạo giữa các trường trong khu vực cũng như với các trường đại học đối tác trên thế giới, từng bước góp phần thúc đẩy sự công nhận thành quả học tập và phát triển hợp tác giữa các trường đại học trong khu vực Đông Nam Á. Theo TS. Nguyễn Ngọc Thanh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà nội, việc lựa chọn kiểm định theo chuẩn AUN nhằm giúp các trường biết chương trình đào tạo đã đạt đến cấp độ nào trên thang đánh giá của khu vực. Qua đó, phát hiện chương trình còn tồn tại những gì cần khắc phục nhằm đảm bảo chương trình đạt chất lượng ngang tầm các chương trình cùng lĩnh vực trong khu vực ASEAN. [2] Trong Bộ tiêu chuẩn của AUN có 18 tiêu chuẩn với 74 tiêu chí. Mỗi tiêu chí được đánh giá theo 7 mức là: 1= không có gì (không có tài liệu, kế hoạch, minh chứng ); 2 = chủ đề này của hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong mới chỉ nằm trong kế hoạch; 3 = có tài liệu, nhưng không có minh chứng rõ ràng; 4 = có tài liệu và minh chứng; 5 = có minh chứng rõ ràng về hiệu quả trong lĩnh vực xem xét; 6 = chất lượng tốt; 7 = xuất sắc. Mỗi tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn đều có trọng số như nhau, điểm đánh giá của toàn bộ chương trình là điểm trung bình cộng của cả 74 tiêu chí. 4.0 điểm, là ngưỡng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng của AUN, trong đó điểm tối đa là 7 59 điểm. Các trường kiểm định đạt theo chuẩn kiểm định chất lượng của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á, việc công nhận và bằng cấp có giá trị ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. Như vậy, những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt chuẩn này sẽ dễ dàng hội nhập trong khu vực ASEAN. [3] 1.2.3. Kiểm định chất lượng giáo dục theo chuẩn kiểm định ABET ABET (Accreditation Board on Engineering and Technology - Hội đồng Kiểm định về Kỹ thuật và Công nghệ); được thành lập từ năm 1932, là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ kiểm định chương trình đại học và trường đại học các ngành trong các lĩnh vực kỹ thuật (engineering), công nghệ (technology), điện toán (computing) và khoa học ứng dụng (applied science). ABET là chuẩn kiểm định được công nhận rộng rãi tại Hoa Kỳ. Trong nhiều trường hợp, các trường đại học phải có các chương trình kỹ thuật được công nhận bởi ABET thì mới đủ điều kiện để vận hành. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan chuyên môn đòi hỏi các kỹ sư phải tốt nghiệp từ các chương trình được công nhận ABET mới có thể hành nghề kỹ thuật. ABET kiểm định hơn 3.100 chương trình tại hơn 670 trường cao đẳng và đại học tại 23 quốc gia. ABET cung cấp chuyên ngành, kiểm định chất lượng chương trình và đánh giá một chương trình cá nhân của nghiên cứu, chứ không phải đánh giá một tổ chức như một toàn thể. ABET công nhận, đó là tự nguyện và đạt được thông qua một quá trình thẩm định, cung cấp sự bảo đảm rằng một chương trình đại học hoặc đại học đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng được thành lập bởi các ngành nghề mà các chương trình chuẩn bị cho sinh viên của mình. Từ năm 2007, tổ chức này chính thức cấp chứng chỉ kiểm định cho các chương trình đào tạo của các trường đại học ngoài nước Mỹ. Bộ tiêu chuẩn ABET bao gồm 9 tiêu chuẩn: 1/ Sinh viên (Student), 2/ Mục tiêu đào tạo (Program Educational Objectives), 3/ Khả năng sinh viên (Student Outcomes), 4/ Liên tục cải thiện (Continuous improvement), 5/ Chương trình đào tạo (Curriculum), 6/ Ban giảng huấn (Faculty), 7/ Cơ sở vật chất (Facilities), 8/ Hỗ trợ của trường đại học (Institutional Support), 9/ Tiêu chuẩn riêng của từng chương trình (Program criteria). Tiêu chuẩn “Sinh viên” là tiêu chuẩn được xem xét đầu tiên; thể hiện quan điểm của ABET, xem người học là trung tâm. Tiêu chuẩn này đòi hỏi phải theo dõi sự phát triển của sinh viên nhằm giúp họ đạt được các kết quả mong muốn, xem xét các yêu cầu về việc nhận sinh viên vào học, việc hỗ trợ người học qua hệ thống cố vấn, qua cách vận hành chương trình, “Mục tiêu đào tạo” đòi hỏi phù hợp với sứ mạng của trường đại học và dựa trên đóng góp của nhiều thành phần liên quan đến người học: giới doanh nghiệp, cựu sinh viên, giảng viên, Điểm nổi bật trong các tiêu chuẩn ABET là tiêu chuẩn “Khả năng sinh viên” (trước đây là “Chuẩn đầu ra”- Program Outcomes) với các yêu cầu cụ thể (gồm ít nhất 11 yêu cầu) thể hiện các kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học đạt được khi tốt nghiệp. Tiêu chuẩn này thể hiện quan điểm đánh giá của tổ chức ABET, là đánh giá sự thành công của một chương trình là dựa trên kết quả đạt được của người học chứ không tập trung vào những gì mà các giảng viên thực hiện trên lớp. Một tiêu chuẩn quan trọng khác là tiêu chuẩn “Liên tục phát triển”. Tiêu chuẩn này đòi hỏi một chương trình đào tạo cần phải có một hệ thống đánh giá 60 chất lượng người học để từ đó liên tục cải thiện nhằm nâng cao chất lượng đạt được. Tiêu chuẩn “Chương trình đào tạo” bao gồm một số yêu cầu tối thiểu về thời lượng của các khối kiến thức. Yêu cầu quan trọng nhất của tiêu chuẩn này là phải đảm bảo người học có thể đạt được các yêu cầu trong “Khả năng sinh viên” Các tiêu chuẩn khác nhằm đảm bảo khả năng vận hành chương trình đào tạo: có đủ giảng viên trong Ban giảng huấn và các giảng viên có thời lượng làm việc hợp lý cho công tác đào tạo; có đủ tiềm lực tài chính và cơ sở vật chất phục vụ cho việc vận hành chương trình đào tạo. Các trường đại học kiểm định đạt chất lượng giáo dục theo chuẩn kiểm định ABET, việc công nhận và bằng cấp có giá trị quốc tế. Những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt chuẩn ABET sẽ dễ dàng hội nhập quốc tế. [5] 1.3. Trường đại học trong thời kỳ hội nhập Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp, được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, với những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường; chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh. Những thành tựu trên và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới cho phép và đòi hỏi giáo dục Việt Nam chuyển từ phát triển thực tế chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang mục tiêu coi trọng cả chất lượng, hiệu quả và số lượng theo nhu cầu xã hội. [13] Trong khoảng hai thập niên qua, nền giáo dục đại học trên thế giới đã có những chuyển hướng sâu rộng đáng để tham khảo, nhất là trong tình hình xã hội đang đề cập ngày càng nhiều ... hương trình đào tạo. Người nghiên cứu đã trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục; nghiên cứu chính sách giáo dục của Nhà nước, nghiên cứu các loại hình kiểm định của thế giới, theo dõi các hoạt động kiểm định của các cơ sở giáo dục trong nước, tìm hiểu các công văn, thông báo về việc Tổ chức Hội thảo khoa học kiểm định cùng các hoạt động kiểm định, đánh giá,... nhằm thu thập những thông tin, kết quả cũng như phương hướng trong việc áp dụng xây dựng chiến lược phát triển giáo dục cùng lộ trình kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Dưới đây là các kết quả và chỉ tiêu được đề xuất trong việc kiểm định chương trình đào tạo cho các trường đại học. 2.1. Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Tiêu chí đảm bảo chất lượng giáo dục đại học là mối quan tâm hàng đầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với các cơ sở giáo dục. Từ năm 2003 bằng việc thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục đã trở thành thành viên chính thức của Mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình Dương (APQN) (Asia-Pacific Quality Network), Mạng lưới quốc tế các tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học INQAAHE (International Network for Quality Assurance Agencies in Higher Education), Mạng lưới đảm bảo chất lượng các nước ASEAN – Asean Quality Assurance Network (AQAN). Các tiêu chí thành viên của những mạng lưới này và các nguyên tắc cũng đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam (VNHEQAS). Hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam bao gồm hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong, đảm bảo chất lượng bên ngoài và các cơ quan đảm bảo chất lượng. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tất cả các cơ sở giáo dục đại học (tức là các trường đại học và cao đẳng) cần phải thành lập đơn vị đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường. Hiện tại (9/2014), đã có hơn 75% các trường đại học và 50% các trường cao đẳng đã có đơn vị đảm bảo chất lượng bên trong [12]. Các đơn vị đảm bảo chất lượng bên trong có chức năng giúp nhà trường xây dựng và củng cố văn hóa chất lượng, hỗ trợ nhà trường đạt được sứ mạng của nhà trường, duy trì hệ thống quản lý chất lượng bên trong, phê duyệt chương trình, định kỳ giám sát đánh giá, nâng cao chất lượng giáo dục, đảm bảo chất lượng của đội ngũ giảng viên, Các cán bộ, nhân viên của đơn vị đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ các đơn vị khác để 63 chuẩn bị báo cáo tự đánh giá ở cấp độ chương trình đào tạo và nhà trường. Đến nay (9/2014), đã có 161 trường đại học và 165 trường cao đẳng đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá. [12] Hệ thống đảm bảo chất lượng bên ngoài ở Việt Nam bao gồm các chính sách khung về đảm bảo chất lượng bên ngoài (kể cả kiểm định chất lượng giáo dục), được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Luật giáo dục, Luật giáo dục sửa đổi và gần đây là Luật Giáo dục đại học được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam năm 2012. Khung đảm bảo chất lượng bên ngoài bao gồm các quy định chung về đánh giá, kiểm định, các tiêu chí đánh giá, các quy trình đánh giá bên trong và bên ngoài theo chu kỳ năm năm một lần và sự công nhận cơ sở giáo dục có chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng. Kiểm định chất lượng giáo dục là bắt buộc đối với tất cả các cơ sở đại học và các chương trình đào tạo tại Việt Nam. Tính đến tháng 9/2014; đã có 40 trường đại học, 14 chương trình đào tạo giáo viên trình độ đại học và 4 chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng đã được đánh giá theo các bộ tiêu chuẩn do Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. [12] Nhà nước cũng đã khuyến khích các trường đại học và các chương trình đào tạo đăng ký kiểm định hoặc đánh giá bởi các tổ chức kiểm định quốc tế. Hiện nay, 19 chương trình đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Cần Thơ đã được Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN) và Chương trình ASEAN đánhgiá trong giai đoạn 2007- 2013 (sử dụng bộ tiêu chí đánh giá của AUN). Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh) và Trường Đại học FPT đã có các chương trình đăng ký kiểm định bởi tổ chức kiểm định ABET, Hoa Kỳ. Theo Nghị định số 73/2012/ND- CP ngày 29/09/2012 của Chính phủ quy định về hợp tác và đầu tư nước ngoài về giáo dục, tất cả các trường đại học và các chương trình liên kết đào tạo có vốn đầu tư của nước ngoài cần phải được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định ở trong nước hoặc của quốc tế được Việt Nam công nhận. [11] 2.2. Quy trình tiến hành kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thực tiễn kiểm định chất lượng tại các quốc gia trên thế giới khá đa dạng và phức tạp, nhưng có thể được khái quát trong một quy trình gồm bốn bước như sau: Bước 1: Xây dựng hoặc cập nhật các công cụ kiểm định chất lượng giáo dục Bước 2: Tự đánh giá của cơ sở đào tạo/ chương trình đào tạo Bước 3: Đánh giá từ bên ngoài (đánh giá đồng nghiệp) Bước 4: Công nhận cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng. 2.3. Quy trình – cách thức triển khai để đạt chuẩn kiểm định AUN Trường đại học sẽ xây dựng lộ trình cụ thể để tham gia kiểm định và đạt chuẩn kiểm định một số chương trình đào tạo trọng điểm trong thời gian tới. Tại mỗi đơn vị sẽ ưu tiên tập trung phát triển một vài chương trình đào tạo chất lượng cao, ưu tiên cho ngành đào tạo đủ các tiêu chuẩn, tiêu chí để tham gia vào kiểm định theo chuẩn AUN (ASEAN University Network). Việc tham gia vào AUN sẽ tạo điều kiện cho trường đại 64 học khẳng định được tầm vóc, vị thế, chất lượng đào tạo của mình trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói riêng cũng như trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế nói chung. [4] Để tham gia kiểm định chương trình đào tạo ngành, theo tiêu chuẩn AUN – QA của trường đại học là phải: Chủ động hợp tác với AUN – AQ, mời các chuyên gia đến cố vấn, hỗ trợ trường tham gia vào kiểm định theo theo tiêu chuẩn AUN; xây dựng một số chương trình đào tạo trọng điểm, mang tầm quốc tế tại mỗi đơn vị làm tiên phong để đăng ký tham gia kiểm định; tổ chức các đoàn học tập kinh nghiệm tại các cơ sở đại học đã tham gia kiểm định theo tiêu chuẩn AUN; nâng cao năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ giảng viên, sinh viên ở các chương trình được chọn tham gia kiểm định. Sau khi đã hiểu rõ quy trình kiểm định của AUN, và các tiêu chuẩn, cần triển khai: - Xác định chuẩn đầu ra của chương trình kiểm định. - Từ sứ mệnh của nhà trường, và từ tầm nhìn trong giai đoạn giáo dục của đất nước hiện nay, có thể viết lại chương trình đào tạo của ngành được kiểm định, đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Điều chỉnh chương trình đào tạo nhằm đảm bảo một số yêu cầu cụ thể trong tiêu chuẩn. - Xác định chuẩn đầu ra của từng môn học của chương trình đào tạo và xác định mối liên quan của chúng. - Đánh giá trong chương trình đào tạo của ngành. - Đánh giá ngoài chương trình đào tạo của ngành. - Triển khai các cách thức nhằm đạt được kiểm định chất lượng đào tạo theo AUN. - Mời các chuyên gia kiểm định của AUN đến cơ sở để kiểm định các chương trình. - Kiểm định các chương trình đạt, tổ chức kiểm định sẽ cấp chứng nhận kiểm định. 2.4. Quy trình – cách thức triển khai để đạt chuẩn kiểm định ABET Các giảng viên của trường đại học tham gia tập huấn về chuẩn kiểm định ABET, hướng đến các giảng viên trực tiếp thiết kế các khóa học, tiến hành giảng dạy và đánh giá sinh viên. Giảng viên sẽ được cung cấp một tầm nhìn tổng quan về ABET, chuẩn đầu ra của ABET cùng nhiều hoạt động liên quan đến việc thiết kế chương trình giảng dạy và đánh giá. Giảng viên sẽ thực hành viết các mục tiêu chương trình giáo dục của họ sao cho phù hợp với sứ mạng của nhà trường, kết nối chuẩn đầu ra hiện hành với chuẩn đầu ra của ABET, gắn kết mục tiêu khóa học với kết quả chương trình, xây dựng kế hoạch đánh giá cho các khóa học và nhiều hoạt động ý nghĩa khác. Các giảng viên cũng sẽ thảo luận và xây dựng kế hoạch hành động để huấn luyện kỹ năng lãnh đạo và kỹ năng mềm cho các khóa học của họ trong trường hợp có liên quan. [11] Bám sát vào những tiêu chuẫn kiểm định của ABET như đã trình bày ở phần trên, xem xét các tiến trình thực hiện và đánh giá các tiêu chí, tiêu chí nào chưa thực hiện được thì phải nổ lực thực hiện cho đạt kết quả. Thực tiễn kiểm định chất lượng tại các quốc gia trên thế giới khá đa dạng và phức tạp, nhưng có thể được khái quát trong một quy trình gồm bốn bước như sau: Bước 1: Xây dựng hoặc cập nhật các công cụ kiểm định chất lượng giáo dục Bước 2: Tự đánh giá của cơ sở đào tạo, 65 chương trình đào tạo Bước 3: Đánh giá từ bên ngoài (đánh giá đồng nghiệp) Bước 4: Mời các chuyên gia kiểm định của hệ thống kiểm định ABET. Bước5: Công nhận cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng. [1] 2.4.1. Đề xuất quy trình – cách thức triển khai để kiểm định chất lượng đào tạo theo ABET Trong thiết kế và vận hành chương trình đào tạo, chúng tôi nhận thấy vẫn còn nhiều việc cần phải thực hiện nhằm đạt các chuẩn của ABET: - Nhanh chóng thực hiện mời chuyên gia tư vấn đánh giá các công việc đã thực hiện, xem xét và điều chỉnh kế hoạch thực hiện trong thời gian tới. - Xây dựng và triển khai hệ thống đánh giá chất lượng sinh viên. - Tiếp tục thực hiện các thay đổi trong phương pháp giảng dạy và đánh giá sinh viên nhằm đảm bảo các chuẩn đầu ra của từng môn học và chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo. [5] 2.4.2. Vận hành chương trình đào tạo – cách thức triển khai để kiểm định chất lượng đào tạo theo ABET Sau khi đã hiểu rõ quy trình kiểm định của ABET và các tiêu chuẩn, cần triển khai: - Xác định chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo - Điều chỉnh chương trình đào tạo nhằm đảm bảo một số yêu cầu cụ thể trong tiêu chuẩn - Xác định chuẩn đầu ra của từng môn học và xác định mối liên quan với “Khả năng sinh viên” khi tốt nghiệp từ chương trình đào tạo. Qua đó, rà soát các điểm yếu trong thiết kế chương trình và thực hiện các điều chỉnh cần thiết: thay đổi phương pháp giảng dạy ở một số môn, thay đổi bố trí môn học để việc rèn luyện kỹ năng được thực hiện thường xuyên trong chương trình đào tạo. - Tổ chức các cuộc gặp gỡ doanh nghiệp nhằm kêu gọi sự hỗ trợ từ phía doanh nghiệp để thực hiện chương trình đào tạo. Trong các cuộc gặp gỡ này, nhà trường và các đại diện doanh nghiệp cần thảo luận về các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên qua việc tăng cường rèn luyện các kỹ năng cần thiết. Ý kiến của sinh viên về các hoạt động hỗ trợ của doanh nghiệp cho thấy tính hiệu quả của các hoạt động này. Mặt khác, thông qua các hoạt động này, các sinh viên có thể hiểu rõ hơn về nhu cầu của doanh nghiệp, qua đó, tự điều chỉnh việc học tập của mình. [1] - Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng sinh viên: Một yêu cầu quan trọng để thỏa mãn tiêu chuẩn “Liên tục cải thiện” là phải xây dựng một hệ thống đánh giá chất lượng sinh viên và một qui trình xem xét lại quá trình đào tạo dựa trên kết quả đánh giá chất lượng này. Hệ thống đánh giá chất lượng sinh viên cho phép theo dõi tính hiệu quả của việc vận hành chương trình đào tạo, qua đó; giúp thực hiện các điều chỉnh cần thiết. Khác với hệ thống đánh giá và cho điểm sinh viên theo từng môn học như hiện nay, hệ thống đánh giá chất lượng sinh viên cần phải làm rõ mức độ chất lượng của sinh viên theo từng tiêu chí của tiêu chuẩn “Mục tiêu đào tạo” và “Khả năng sinh viên”. Để hiện thực hệ thống này, cần phải xây dựng một bản mô tả các mức độ chất lượng theo từng tiêu chí và thực hiện một kế hoạch thu thập thông tin qua nhiều môn học và nhiều học kỳ. Việc hiện thực hệ thống này phải làm sao đảm bảo tính tin cậy của kết quả vì chúng 66 sẽ ảnh hưởng đến việc xem xét lại quy trình đào tạo. Ngoài ra, hệ thống này phải được hiện thực sao cho đảm bảo tính bền vững vì các hoạt động này cần phải được thực hiện thường xuyên. 3. KẾT LUẬN Việt Nam đang nỗ lực để nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục được xem như một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm phục vụ cho mục đích này. Công tác đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung và kiểm định chất lượng của Việt Nam nói riêng đang được hình thành và phát triển ổn định, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Việc hướng tới một chuẩn chất lượng đã được ngành giáo dục đặt ra như một vấn đề trọng tâm cần giải quyết trong những năm gần đây. Chuẩn quốc gia được coi như mốc cơ bản để khẳng định chất lượng đào tạo đối với tất cả các nhà trường. Tuy nhiên, xu thế hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng khiến các trường đại học bắt buộc phải tìm cho mình những thước đo mới tầm cở quốc tế. Từ tháng 2 năm 2014, kiểm định chất lượng chương trình đào tạo là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các trường đại học và cao đẳng. Tùy theo điều kiện và phát triển của từng trường mà các trường chọn các chuẩn kiểm định cho phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gibbs G., (1992), Improving the Quality of Student Learning, TES, Bristol, England. 2. Hồ Tấn Nhựt, Đoàn Thị Minh Trinh (Biên dịch), (2009), Cải cách và xây dựng chương trình đào tạo kỹ thuật theo phương pháp tiếp cận CDIO, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 3. 4. 5. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về CDIO, (2010), Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Minh Tri Truong, (2014), Heeap Training Under One Choice The Inevitable Integration Period, International Conference HEEAP. 7. Phạm Quốc Trụ, (2011), Hội nhập quốc tế, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Học viện Ngoại giao. 8. Quyết định số: 3568/QĐ-BGDĐT – Ngày 5/9/2013 – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội. 9. Quyết định số: 5570/QĐ-BGDDT – Ngày 22/11/2013 – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 67 10. Tổ Khảo thí - ĐBCLGDAUN-QA, (2014), Cái đích của những trường đại học hướng đến chất lượng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội. 11. Trương Minh Trí, (2013), Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 12. Trương Minh Trí, (2014), Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo ngành công nghệ kỹ thuật cơ điện tử của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Dạy và Học ngày nay. 13. Yun Chung, (2005), Quản lý giáo dục, tài liệu tham khảo dịch từ tiếng Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội. *Ngày nhận bài: 6/8/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
File đính kèm:
- kiem_dinh_chat_luong_chuong_trinh_dao_tao_truong_dai_hoc_tro.pdf