Kiểm toán môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và hướng áp dụng tại Việt Nam

Môi trường và phát triển bền vững (PTBV) hiện nay không chỉ là vấn đề riêng của quốc gia/dân tộc nào mà đã trở thành vấn đề toàn cầu, của nhân loại, trong đó Việt Nam không phải là ngoại lệ. Vấn đề môi trường đang được hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm, vì môi trường có vị trí và vai trò vô cùng to lớn đối với cuộc sống hàng ngày, sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế mạnh mẽ, bùng nổ dân số dẫn đến việc khai thác-Sử dụng quá mức các tài nguyên thiên nhiên vốn hữu hạn, thải ra môi trường một khối lượng chất thải khổng lồ, quá sức chịu đựng của trái đất. Nhận thức được tầm quan trọng và xu thế phát triển tất yếu của kiểm toán môi trường (KTMT) trong hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN), tháng 10/2015, KTNN đã thành lập bộ phận KTMT nhằm mục đích triển khai nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực KTMT và từng bước triển khai áp dụng tại KTNN. Đây là hướng đi đúng đắn và phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động KTMT còn gặp nhiều khó khăn như chưa có cơ sở pháp lý quy định rõ KTNN có trách nhiệm thực hiện KTMT, nhận thức và ý thức của các đơn vị về hoạt động KTMT còn chưa đầy đủ, đặc biệt là kinh nghiệm về KTMT của các Kiểm toán viên KTNN còn nhiều hạn chế. Bài viết với mục đích tìm hiểu vai trò và xu hướng phát triển KTMT tại các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) trong cộng đồng các cơ quan kiểm toán tối cao ASOSAI, INTOSAI, nghiên cứu những kinh nghiệm về KTMT từ các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) để từ đó đề xuất giải pháp triển khai áp dụng tại cơ quan KTNN Việt Nam trong thời gian tới

pdf 8 trang yennguyen 3700
Bạn đang xem tài liệu "Kiểm toán môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và hướng áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm toán môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và hướng áp dụng tại Việt Nam

Kiểm toán môi trường: Kinh nghiệm quốc tế và hướng áp dụng tại Việt Nam
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 137 - tháng 3/2019
KIEÅM TOAÙN MOÂI TRÖÔØNG: KINH NGHIEÄM
QUOÁC TEÁ VAØ HÖÔÙNG AÙp DUÏNG TAÏI VIEÄT NAM
TS. Lê DOãN HOÀI*
* Trưởng phòng Kiểm toán môi trường, KTNN Chuyên ngành III
Môi trường và phát triển bền vững (PTBV) hiện nay không chỉ là vấn đề riêng của quốc gia/dân tộc nào mà đã trở thành vấn đề toàn cầu, của nhân loại, trong đó Việt Nam không phải là ngoại lệ. Vấn đề môi trường đang được hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm, vì môi trường có vị trí và vai trò vô cùng to lớn đối với cuộc sống 
hàng ngày, sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế mạnh mẽ, 
bùng nổ dân số dẫn đến việc khai thác-sử dụng quá mức các tài nguyên thiên nhiên vốn hữu hạn, thải ra 
môi trường một khối lượng chất thải khổng lồ, quá sức chịu đựng của trái đất. 
Nhận thức được tầm quan trọng và xu thế phát triển tất yếu của kiểm toán môi trường (KTMT) trong 
hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN), tháng 10/2015, KTNN đã thành lập bộ phận KTMT 
nhằm mục đích triển khai nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực KTMT và từng 
bước triển khai áp dụng tại KTNN. Đây là hướng đi đúng đắn và phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc 
tế và yêu cầu thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động KTMT còn gặp nhiều khó khăn như 
chưa có cơ sở pháp lý quy định rõ KTNN có trách nhiệm thực hiện KTMT, nhận thức và ý thức của các đơn 
vị về hoạt động KTMT còn chưa đầy đủ, đặc biệt là kinh nghiệm về KTMT của các Kiểm toán viên KTNN 
còn nhiều hạn chế... Bài viết với mục đích tìm hiểu vai trò và xu hướng phát triển KTMT tại các cơ quan 
kiểm toán tối cao (SAI) trong cộng đồng các cơ quan kiểm toán tối cao ASOSAI, INTOSAI, nghiên cứu 
những kinh nghiệm về KTMT từ các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) để từ đó đề xuất giải pháp triển khai 
áp dụng tại cơ quan KTNN Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: kiểm toán môi trường, môi trường, bảo vệ môi trường.
Environmental auditing: International experiences and lessons for Vietnam
The current environment and sustainable development is not only a matter of every nation but has become 
a global issue of mankind, in which Vietnam is not an exception. Environmental issues are of great concern 
to most countries in the world, because the environment has a tremendous role and position for the daily 
life, existence and development of a nation. In particular, in the context of strong economic development, 
population explosion leads to the over-exploitation of natural resources of finite capital, discharging into the 
environment a huge amount of waste, challenging the endurance of the Earth. 
recognizing the importance and trend of the inevitable development of the Environmental audit 
(Ea) in the operation of SaV, in October 2015, SaV established its Ea department to implement research 
and application the international experiences in the field of Ea and gradually apply in SaV. This is the 
right direction and in line with international trends and practices and practical requirements in Vietnam. 
However, in fact, Ea activities still face many difficulties such as there is no legal basis to stipulate that SaV is 
responsible for implementing Ea, awareness of the other units on Ea activities is still incomplete, especially 
the experience of Ea of state auditors is still limited... This paper aims to understand the role and trend of Ea 
development in SaIs in aSOSaI, INTOSaI and study the experience of Ea from the other SaIs to propose 
solutions to be applied at SaV in the coming future.
keywords: Environmental audit, environment, environment protection.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 55Số 137 - tháng 3/2019
1. kiểm toán môi trường
Khái niệm KTMT có nguồn gốc từ khu vực Bắc 
Mỹ, bắt đầu xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ 
20. Đây là giai đoạn mà nền công nghiệp và kinh 
tế khu vực Bắc Mỹ phát triển mạnh mẽ, các loại 
chất thải, nước thải, khí thải phát sinh từ các hoạt 
động công nghiệp và các hoạt động kinh tế khác 
đã làm ảnh hưởng xấu tới môi trường, sự ô nhiễm 
môi trường lan rộng và trở nên nghiêm trọng. Đến 
những năm 1970, một số công ty ở Châu âu và 
Nam Mỹ đã bắt đầu đánh giá một cách có hệ thống 
việc tuân thủ của doanh nghiệp với các thể chế, luật 
pháp về môi trường, phối hợp với loại hình kiểm 
toán tài chính, từ đó dần hình thành nội dung kiểm 
toán mới trong lĩnh vực môi trường, hay còn được 
biết đến với tên gọi KTMT. 
Môi trường và phát triển bền vững hiện nay 
không chỉ là vấn đề riêng của mỗi quốc gia/dân tộc 
nào mà đã trở thành vấn đề toàn cầu. Nhận thức 
tầm quan trọng của KTMT là xu hướng phát triển 
tất yếu và phổ biến của các cơ quan kiểm toán tối 
cao trên thế giới cũng như thực tiễn nước ta, đặc 
biệt, trong bối cảnh Đảng, Nhà nước ta rất quan 
tâm đến công tác BVMT và thống nhất trong mọi 
chỉ đạo, hành động và hoạt động kinh tế-xã hội là 
“Không đánh đổi môi trường để lấy kinh tế”. Năm 
2016, Ban cán sự Đảng KTNN đã quyết định thành 
lập bộ phận chuyên sâu về KTMT. Đây là hướng 
đi đúng đắn và phù hợp với xu hướng và thông lệ 
quốc tế và yêu cầu thực tiễn Việt Nam. 
Theo Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán 
tối cao (INTOSaI), KTMT là việc cơ quan kiểm 
toán/kiểm toán viên tiến hành kiểm tra, đánh giá 
đối với các vấn đề môi trường và các thông tin liên 
quan đến khía cạnh môi trường (bao gồm cả vấn 
đề tài chính cho môi trường) của một tổ chức, đơn 
vị một cách có hệ thống và khoa học; qua đó, đưa 
ra các kiến nghị về chính sách, quản lý và xử lý vi 
phạm pháp luật về môi trường nhằm cải thiện chất 
lượng công tác quản lý môi trường, BVMT, thúc 
đẩy Chính phủ và toàn xã hội tham gia BVMT, đảm 
bảo quốc gia PTBV về môi trường. 
2. Vai trò của cơ quan kiểm toán tối cao trong 
kiểm toán môi trường
Nhóm công tác về KTMT của Tổ chức quốc tế 
các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSaI WGEa) 
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN56 Số 137 - tháng 3/2019
được thành lập vào tháng 10/1992 tại Đại hội 
INTOSaI lần thứ 14 với 12 thành viên sáng lập. 
Hiện nay, INTOSaI WGEa là Nhóm công tác có 
số lượng thành viên lớn nhất trong các nhóm làm 
việc của INTOSaI với gần 132 thành viên và có 6 
trong 7 khu vực kiểm toán tối cao trên thế giới đã 
thành lập Nhóm công tác cấp khu vực về KTMT 
(rWGEa), gồm: Châu âu, Châu á, Châu Phi, 
Châu Mỹ La tinh và Ca-ri-bê, Thái Bình Dương, 
và ả-rập. 
Nhiệm vụ chính của INTOSaI WGEa là hỗ trợ 
các SaI trong việc thực hiện các cuộc KTMT và 
kiểm toán liên quan đến môi trường; hỗ trợ việc 
trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm kiểm 
toán, xây dựng các hướng dẫn, cẩm nang sử dụng 
trong KTMT và thực hiện kiểm toán các vấn đề 
môi trường có tính chất khu vực và toàn cầu. 
INTOSaI, thông qua Nhóm công tác về KTMT 
(WGEa) thường xuyên theo dõi tình hình và xu 
hướng phát triển của KTMT trên thế giới. Các 
cuộc điều tra/khảo sát về KTMT được thực hiện 
định kỳ trong các thành viên INTOSaI. Kết quả 
điều tra được sử dụng để phát triển chính sách, 
hướng dẫn KTMT áp dụng và khuyến khích các 
SaI thành viên thực hiện KTMT, qua đó, các SaI 
thành viên có thể rút ra bài học về phát triển và 
thực hiện KTMT ở nước mình, đồng thời, nâng cao 
cơ hội hợp tác trên quy mô toàn cầu.
Đối tượng KTMT của cơ quan kiểm toán tối cao 
được xác định là các cơ quan quản lý nhà nước có 
liên quan đến môi trường, kết quả của hoạt động 
kiểm toán này có tác động đến tài sản công và tài 
chính công của 01 quốc gia và được thực hiện bởi 
các Kiểm toán viên KTNN. Theo các Chuyên gia 
đến từ cơ quan kiểm toán tối cao In-đô-nê-si-a thì 
những cuộc kiểm toán như thế này được hiểu là 
kiểm toán khía cạnh môi trường. Trong khi đó, 
các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ trực 
tiếp quản lý lĩnh vực môi trường, với chức năng 
nhiệm vụ của mình, thực hiện KTMT với các đối 
tượng là các công ty tư nhân hoạt động liên quan 
đến môi trường, kết quả kiểm toán có tác động đến 
hình ảnh của công ty, doanh nghiệp và nhưng cuộc 
kiểm toán như thế này được hiểu là kiểm toán môi 
trường. Như vậy, các SaI đang thực hiện KTMT 
theo cách tiếp cận hiện nay là kiểm toán khía cạnh 
môi trường. 
3. Định hướng phát triển kiểm toán môi trường 
của các cơ quan kiểm toán tối cao 
Khi tiến hành các cuộc KTMT có thể áp dụng 1 
trong 3 hoặc kết hợp/lồng ghép cả 03 loại hình kiểm 
toán (kiểm toán hoạt động, kiểm toán tài chính và 
kiểm toán tuân thủ) tùy thuộc vào mục tiêu, nội 
dung của từng cuộc kiểm toán cụ thể. Trong đó, 
loại hình kiểm toán hoạt động đóng vai trò chủ 
đạo, được áp dụng phổ biến trong các cuộc KTMT 
(chiếm khoảng 75% trong số các cuộc KTMT mà 
các SaI thực hiện hàng năm). 
 Các chủ đề KTMT được các SaI quan tâm thực 
hiện gồm: Các vấn đề về quản lý nguồn nước (nước 
sạch cho sinh hoạt, quản lý tài nguyên nước, nước 
thải KCN...), quản lý chất thải đô thị (chất thải rắn, 
cấp thoát nước...), chất lượng không khí, quản lý 
tài nguyên rừng (đa dạng sinh học), chuyển đổi sử 
dụng đất đô thị, khai khoáng, giảm nhẹ và thích 
ứng với biến đổi khí hậu (xu hướng đang gia tăng 
mạnh trong thời gian gần đây), các vấn đề môi 
trường xuyên biên giới (quản lý các con sông liên 
quốc gia, phát thải khí nhà kính...).
Ngoài ra, INTOSaI cũng khuyến nghị và hướng 
dẫn các SaI có thể thực hiện KTMT đối với các chủ 
đề như: Kiểm toán công tác quản lý, giám sát của 
Chính phủ/cơ quan quản lý về việc tuân thủ pháp 
luật môi trường; Kiểm toán các chương trình, dự 
án về môi trường; Kiểm toán sự tác động đến môi 
trường của các chương trình, dự án; Kiểm toán các 
hệ thống quản lý môi trường; Kiểm toán, đưa ra 
ý kiến đối với các dự thảo về cơ chế, chính sách, 
pháp luật và chương trình về môi trường. Và các 
SaI đều có xu hướng gia tăng tăng các cuộc KTMT 
trong thời gian tới, từng bước nâng cao vai trò của 
KTMT tại các SaI và trách nhiệm của từng SaI 
trong việc BVMT nhằm phát triển kinh tế xã hội 
một cách bền vững. 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 57Số 137 - tháng 3/2019
4. Thực trạng của kiểm toán môi trường tại 
kiểm toán nhà nước
Đối với Việt Nam, KTMT mới hình thành (cả 
về nhận thức, khái niệm và hành động thực tiễn) 
và được triển khai trong một vài năm gần đây, song 
cũng đã được quan tâm, chú ý trong các chính 
sách, pháp luật cũng như thực tiễn công tác BVMT, 
đặc biệt là sau các sự cố môi trường nghiêm trọng 
gần đây (như sự cố môi trường Fomosa Hà Tĩnh). 
Đến nay, việc triển khai thực hiện KTMT ở 
KTNN còn rất hạn chế, thực tiễn kiểm toán những 
năm qua về KTMT chưa nhiều, chưa có một tổ chức 
bộ máy, cơ sở pháp lý, quy trình, hướng dẫn... đầy 
đủ cho hoạt động KTMT ở KTNN. Chúng ta chủ 
yếu kiểm toán báo cáo tài chính và có đánh giá tính 
kinh tế, tính hiệu quả một số chương trình mục 
tiêu quốc gia có liên quan đên môi trường (Kiểm 
toán Chương trình Mục tiêu quốc gia về nước 
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Kiểm toán 
Chương trình Giảm nhẹ và Thích ứng với biến đổi 
khí hậu; Kiểm toán hợp tác về các vấn đề nước sông 
Mê Kông (KTNN Việt Nam phối hợp với KTNN 
Thái Lan, Lào, Campuchia và Myanmar, thực hiện 
năm 2012). Các cuộc kiểm toán này bước đầu đưa 
ra các đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả 
trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản 
công, tuy nhiên, đây là những cuộc kiểm toán chủ 
yếu áp dụng loại hình kiểm toán tài chính và kiểm 
toán tuân thủ, do đó, chưa tập trung đánh giá được 
tác động đến môi trường của Chương trình/dự án, 
chưa đủ căn cứ sử dụng làm cơ sở đưa ra các kiến 
nghị kiểm toán nhằm nâng cao tính kinh tế, hiệu 
lực, hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính 
công, tài sản công phục vụ cho mục đích BVMT và 
phát triển bền vững cũng như đánh giá tác động 
môi trường. Trong khi nhiều vấn đề ảnh hưởng 
đến sức khỏe, đời sống con người và làm hủy hoại 
đến môi trường, ô nhiễm môi trường ngày càng 
trở nên bức xúc đối với lợi ích cộng đồng, xã hội 
như: Ô nhiễm nguồn nước; ô nhiễm không khí; ô 
nhiễm về tiếng ồn; ô nhiễm từ các chất thải độc hại; 
ô nhiễm từ sự ảnh hưởng của quá trình phát triển 
xã hội vv... chưa được đề cập trong các hoạt động 
kiểm toán của KTNN. 
Theo quy định tại Điều 32, Luật KTNN năm 
2015, loại hình kiểm toán gồm: Kiểm toán tài 
chính; kiểm toán tuân thủ; kiểm toán hoạt động. 
Kiểm toán tài chính các vấn đề về môi trường tập 
trung đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung 
thực của các thông tin tài chính và báo cáo tài 
chính so với các quy định về tài chính liên quan 
đến môi trường. Kiểm toán tuân thủ về môi 
trường tập trung vào tính phù hợp và tuân thủ các 
quy định pháp luật, các chính sách về môi trường 
của quốc gia và địa phương, và các công ước, hiệp 
định quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong khi 
đó, kiểm toán hoạt động về môi trường tập trung 
đánh giá tính hiệu lực của các chính sách và quy 
định pháp luật về môi trường, tính kinh tế và hiệu 
quả của các hoạt động quản lý môi trường và sử 
dụng tài chính về BVMT. Thực tế theo số liệu 
thống kê cho thấy, từ năm 2008-2018, KTNN đã 
thực hiện hiện nhiều cuộc kiểm toán liên quan 
đến môi trường, trong đó có những cuộc kiểm 
toán có nội dung liên quan đến tài chính, chuyên 
đề và cuộc kiểm toán hoạt động. 
Tính từ khi thành lập bộ phận chuyên về KTMT 
tại KTNN đến nay, KTNN đã thực hiện 04 cuộc 
kiểm toán chuyên sâu về lĩnh vực KTMT, các cuộc 
kiểm toán này đang được tiếp cận dựa trên đánh 
giá hệ thống quản lý của nhà nước về môi trường từ 
Trung ương đến địa phương (quản lý và xử lý nước 
thải, quản lý môi trường tại các khu công nghiệp, 
đối với ngành nhiệt điện). Kết quả kiểm toán bước 
đầu đã phát hiện và kiến nghị các Bộ ngành liên 
quan, báo cáo Chính phủ xem xét trình Quốc hội 
sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật liên quan 
đến công tác BVMT, kiến nghị các cơ quan quản 
lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương chấn 
chỉnh công tác quản lý từ các phát hiện, tồn tại về 
BVMT nhằm BVMT một cách tốt hơn.
5. Một số bài học kinh nghiệm về kiểm toán 
môi trường 
(1) Về đối tượng của KTMT
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN58 Số 137 - tháng 3/2019
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có văn bản pháp lý 
nào quy định rõ cơ quan KTNN có nhiệm vụ thực 
hiện KTMT và các đối tượng KTMT thuộc phạm 
vị kiểm toán của KTNN, do đó trong quá trình 
triển khai thực thi nhiệm vụ còn gặp nhiều khó 
khăn do phần nhiều các đơn vị được kiểm toán 
chưa hiểu được vai trò của KTNN trong hoạt động 
KTMT. 
Theo các chuyên gia đến từ cơ quan KTNN 
In-đô-nê-si-a (hiện đang là chủ tịch Nhóm KTMT 
của INTOSaI). Các chuyên gia đưa ra ý kiến, cần 
phân biệt rõ đối tượng của KTMT để giúp KTV 
định hướng hướng tiếp cận kiểm toán do mỗi đối 
tượng kiểm toán khác nhau sẽ có cách tiếp cận khác 
nhau trong việc xác định mục tiêu, nội dung, trọng 
tâm kiểm toán. Qua đây, Nhóm chuyên gia cũng 
đưa ra cách tiếp cận cần phân biệt rõ là KTMT và 
kiểm toán khía cạnh môi trường. Cụ thể:
Nội dung kiểm toán môi trường
kiểm toán khía 
cạnh môi trường
Yêu cầu
Giám đốc công 
ty, Bộ trưởng Bộ 
TNMT 
Yêu cầu của xã 
hội
Cơ quan 
thực hiện
Kiểm toán viên độc 
lập về môi trường
Kiểm toán viên 
KTNN
Đối tượng 
kiểm toán
Các công ty tư 
nhân hoạt động 
liên quan đến 
môi trường
Các cơ quan 
quản lý nhà 
nước liên quan 
đến môi trường
Tác động Hình ảnh của công ty Tài chính công
Bên cạnh đó, Nhóm chuyên gia cũng đưa ra 
ý kiến cần thiết phải phân chia đối tượng KTMT 
là Cơ quan quản lý môi trường (Bộ TNMT, Sở 
TNMT...), Cơ quan giám sát môi trường (cơ quan 
giám sát quy trình xử lý nước thải, khí thải, chất 
thải rắn...), Cơ quan hoạt động liên quan đến môi 
trường (đơn vị sản xuất kinh doanh liên quan trực 
tiếp đến môi trường). Và đối với mỗi đối tượng 
KTMT khác nhau, cần tập trung vào các nội dung 
kiểm toán tương ứng để Kiểm toán viên dễ hình 
dung, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực 
hiện kiểm toán. 
(2) Về chủ đề kiểm toán môi trường
Mặc dù KTMT là lĩnh vực kiểm toán còn mới 
mẻ ở Việt Nam nhưng đã phổ biến đối với KTNN 
nhiều nước trên thế giới. Chủ đề KTMT mà các 
SaI đang thực hiện rất phong phú đa dạng không 
chỉ bó hẹp đối với các vấn đề liên quan đến ô nhiễm 
môi trường mà các SaI còn kiểm toán những chủ 
đề như phát triển bền vững, năng lượng tái tạo, đa 
dạng sinh học, các công cụ tài chính trong quản lý 
môi trường (phí, thuế bảo vệ môi trường, quỹ bảo 
vệ môi trường). 
Từ kinh nghiệm của các SaI cho thấy, khi xác 
định phạm vi để thực hiện KTMT, các SaI thường 
xác định phạm vi kiểm toán rộng, do bảo vệ môi 
trường là lĩnh vực có tính liên ngành, trên phạm vi 
cả quốc gia và những ảnh hưởng của môi trường 
thường trên phạm vi rộng, có tác động lâu dài 
do đó nếu chỉ KTMT trên phạm vi hẹp (một địa 
phương, một khu công nghiệp, một bộ ngành..) thì 
không thể nhìn được bức tranh tổng thể về quản lý 
môi trường và không xác định rõ được trách nhiệm 
của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa 
phương cũng như không xác định rõ được tác động 
của môi trường lên đời sống xã hội.
KTMT ở Việt Nam còn mới mẻ, do đó trong giai 
đoạn đầu KTNN mới chọn các chủ đề kiểm toán 
nhỏ nhưng trong thời gian tới, KTNN nên chọn 
chủ đề KTMT có phạm vi kiểm toán rộng, liên 
ngành, chọn mẫu tại nhiều địa phương để đánh giá 
được toàn diện, và có được những kiến nghị mang 
tính vĩ mô, tổng thể cả về mặt chính sách. 
Một điểm nữa trong chủ đề kiểm toán là hiện nay 
các SaI đang đẩy mạnh các chủ đề kiểm toán gắn 
với việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững 
(SDGs) của Liên Hợp quốc. INTOSaI cũng mới ban 
hành Hướng dẫn kiểm toán đạt mục tiêu phát triển 
bền vững năm 2016 và tổ chức nhiều khóa học, hội 
thảo liên quan đến kiểm toán SDGs. Việt Nam, là 
một trong những quốc gia cam kết thực hiện SDGs 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 59Số 137 - tháng 3/2019
(Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định 
số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về Kế hoạch hành 
động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 
vì sự phát triển bền vững), do dó trong thời gian tới, 
KTNN nên có các chủ đề KTMT nói riêng và chủ 
đề kiểm toán hoạt động nói chung gắn với việc thực 
hiện các mục tiêu SGDs. 
(3) Về tổ chức thực hiện kiểm toán môi trường
Thời gian để thực hiện một cuộc kiểm toán tại 
các SaI khá linh hoạt tùy thuộc vào tính chất của 
mỗi cuộc kiểm toán. Những cuộc kiểm toán hoạt 
động trong lĩnh vực KTMT do các SaI tổ chức 
thường có thời gian dài (ví dụ: SaI Ấn Đô thực 
hiện kiểm toán quản lý chất thải trong 08 tháng). 
Liên hệ với thực tiễn tại KTNN Việt Nam, thời 
gian kiểm toán của mỗi cuộc kiểm toán tối đa là 60 
ngày do đó đây là một khó khăn đối với KTMT khi 
phạm vi kiểm toán thường rộng, hoạt động kiểm 
toán thường bao gồm nhiều nội dung khác như 
phỏng vấn, khảo sát tại hiện trường, thuê đơn vị 
ngoài phân tích mẫu... Chưa kể để có những bằng 
chứng kiểm toán thuyết phục cần theo dõi trong 
thời gian dài trước khi đưa ra đánh giá cuối cùng 
(Ví dụ như theo dõi việc xả thải không đúng quy 
định của 1 đơn vị, có nhiều đơn vị thải trộm ra 
hệ thống thoát nước mưa, và thường thải vào ban 
đêm, theo đường ống thải được giấu rất tinh vi, khó 
phát hiện...)
Bên cạnh đó, khi lập kế hoạch kiểm toán, các 
SaI thường tham vấn các chuyên gia, đơn vị bên 
ngoài, đơn vị được kiểm toán, tổ chức phi Chính 
phủ tổ chức các buổi trao đổi nhóm để từ đó xác 
định mục tiêu kiểm toán, tiêu chí kiểm toán. Từ 
kinh nghiệm của các SaI cho thấy việc tham vấn 
các đơn vị bên ngoài ngay từ khi lập kế hoạch kiểm 
toán rất cần thiết đối với kiểm toán môi trường do 
lĩnh vực môi trường rất rộng, trong khi Kiểm toán 
nhà nước chưa có các chuyên gia trong lĩnh vực 
môi trường, quản lý môi trường.
Các SaI cũng xây dựng cơ sở dữ liệu về KTMT 
như các vấn đề môi trường, các chính sách và 
chương trình quốc gia về môi trường, các công ước 
quốc tế mà quốc gia tham gia ký kết... để làm cơ sở 
dữ liệu phục vụ cho việc chọn chủ đề kiểm toán và 
xây dựng tiêu chí kiểm toán. KTNN chưa có cơ sở 
dữ liệu này, do đó còn lúng túng và khó khăn khi 
xác định chủ đề kiểm toán. 
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN60 Số 137 - tháng 3/2019
Về thực hiện kiểm toán, các SaI sử dụng nhiều 
công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý) và dữ 
liệu vệ tinh (bản trả phí và bản miễn phí) đề thu 
thập bằng chứng liên quan đến tác động của môi 
trường trên phạm vi rộng (ví dụ vùng nước, vùng 
khí hậu...). Đây là công cụ mạnh để thu thập được 
bằng chứng có độ tin cậy cao, có thể thu thập được 
những hình ảnh trong quá khứ, hiện tại từ một cơ 
quan độc lập cung cấp. Các nước như SaI Ấn Độ, 
Indonesia, Thái Lan... đều đang dùng công nghệ 
này khi thu thập bằng chứng và đánh giá rất tích 
cực về nguồn dữ liệu này. 
(4) Báo cáo kiểm toán môi trường:
Báo cáo KTMT của SaI Ấn Độ nói riêng và các 
SaI được trình bày với nhiều hình ảnh, biểu đồ 
minh họa, các phát hiện kiểm toán, kiến nghị kiểm 
toán hay thông lệ thực hành tốt nhất được thể hiện 
bằng các màu sắc khác nhau do dó báo cáo nhìn 
trực quan sinh động và giúp người đọc dễ nắm bắt 
thông tin. 
So sánh với báo cáo KTMT của KTNN hiện nay 
đang được trình bày theo mẫu của báo cáo kiểm 
toán hoạt động cho thấy, báo cáo của KTNN trình 
bày còn nặng về câu chữ, chưa sinh động, ít hình 
ảnh và biểu đồ minh họa, cách trình bày còn nặng 
về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán, gây khó hiểu 
cho người đọc. 
Về trình bày các phát hiện kiểm toán: Đối với 
mẫu Báo cáo của KTNN hiện nay đang thực hiện, 
tại các nội dung kiểm toán, các phát hiện kiểm toán 
chủ yếu đang được giàn trải đều, và được tiến hành 
theo trình tự:
Thực trạng vấn đề → Phát hiện → Nguyên nhân 
→ kết luận
Tuy nhiên theo đề xuất của các chuyên gia 
In-đô- nê-si-a, đối với mỗi nội dung kiểm toán, đặc 
biệt là cuộc KTMT cần đi theo trình tự:
Phát hiện kiểm toán → Tác động → Nguyên 
nhân cốt lõi → Giải trình của đơn vị được kiểm 
toán → kết luận → kiến nghị
Như vậy, so với mẫu Báo cáo kiểm toán mà 
KTNN đang thực hiện theo Hệ thống Hồ sơ mẫu 
biểu của KTNN, thì mẫu báo cáo kiểm toán theo 
gợi ý của Nhóm Chuyên gia In-đô-nê-si-a có nhiều 
ưu điểm mà KTNN có thể nghiên cứu để bổ sung, 
và áp dụng trong thời gian tới, cụ thể:
- Đối với phần Thực trạng nội dung kiểm toán, 
phần này được đưa vào phần thứ hai: Giới thiệu về 
hoạt động kiểm toán, còn đối với KTNN thì đang 
để ở mục “Khái quát về cuộc kiểm toán” tuy nhiên 
chỉ nêu lên khái quát chức năng, nhiệm vụ của 
các đơn vị liên quan đến nội dung kiểm toán chứ 
không phản ánh những nội dung, công việc mà các 
đơn vị đã tiến hành. Với cách gợi ý của các Chuyên 
gia, trong phần “Thực trạng nội dung kiểm toán”, 
cần tóm lược chức năng, nhiệm vụ, qua đó khái 
quát về các nội dung liên quan đến hoạt động kiểm 
toán mà đơn vị đã và đang thực hiện trong thời 
gian nằm trong giới hạn kiểm toán, tránh trùng lặp 
tại các phần đã được nêu trong Báo cáo kiểm toán 
để giúp người đọc dễ hiểu hơn.
- Đi sâu đánh giá tác động môi trường đối với 
mỗi phát hiện, và đây cũng là giá trị cốt lõi của 
hoạt động KTMT. Và để làm được việc này cần có 
sự hỗ trợ của Chuyên gia chuyên sâu về lĩnh vực 
môi trường, đặc biệt là các Chuyên gia trong nước 
có kinh nghiệm chuyên sâu về lĩnh vực kiểm toán 
đang thực hiện. 
- Tại mỗi nội dung kiểm toán, sau khi phân tích, 
đánh giá nguyên nhân cốt lõi, kết hợp với giải trình 
của đơn vị thì đưa ra kiến nghị trực tiếp liên quan 
đến các phát hiện đối với các cơ quan chức năng để 
giúp các nhà quản lý cũng như đơn vị được kiểm 
toán nắm bắt rõ hơn những tồn tại, thiếu sót cần 
khắc phục từ việc phân tích, đánh giá ở trên. 
- Báo cáo đi thẳng vào các phát hiện kiểm toán, 
giúp Báo cáo trở nên súc tích và dễ hiểu hơn. 
- Báo cáo có thêm mục “Giải trình của Đơn vị 
được kiểm toán”, đây là điểm mới đối với Báo cáo 
kiểm toán và hầu như chưa từng có trong các Báo 
cáo của KTNN trước đây nói chung và Báo cáo 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 61Số 137 - tháng 3/2019
KTMT nói riêng, qua việc giải trình của đơn vị sẽ 
giúp Báo cáo có đầy đủ thông tin cả khách quan và 
chủ quan, giúp Kiểm toán viên phân tích, đánh giá 
các phát hiện trước khi đưa ra kết luận cuối cùng.
(4) Đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực KTMT
Môi trường hiện nay không còn là vấn đề của 
riêng một quốc gia, mà là vấn đề toàn cầu, do dó 
cần có sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm KTMT giữa 
các SaI. Tuy nhiên việc mời giảng viên nước ngoài 
sang đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm có thể gặp khó 
khăn do vấn đề kinh phí. Khóa học KTMT tại Ấn 
Độ đã mời chuyên gia từ các SaI khác đào tạo cho 
học viên qua hình thức đào tạo trực tuyến, KTNN 
Việt Nam có thể áp dụng hình thức đào tạo này cho 
các lớp có quy mô nhỏ. 
6. Đề xuất giải pháp phát triển kiểm toán môi 
trường trong thời gian tới
Trên cơ sở những kinh nghiệm và kiến thức thu 
thập được, Tác giả xin kiến nghị một số giải pháp 
phát triển KTMT trong thời gian tới như sau: 
(1) Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách 
và hành lang pháp lý cho lĩnh vực KTMT; hệ thống 
cơ sở dữ liệu về môi trường, KTMT; hoàn thiện các 
chuẩn mực và hướng dẫn, tài liệu đào về KTMT. 
Trong đó đặc biệt quan tâm, nghiên cứu, sửa đổi 
Luật KTNN theo hướng quy định rõ KTNN có 
nhiệm vụ thực hiện KTMT và các đối tượng KTMT 
thuộc phạm vị, chức năng của KTNN. 
(2) Nghiên cứu thí điểm lập kế hoạch chiến lược 
cho lĩnh vực KTMT, trong đó đề xuất các chủ đề 
kiểm toán mới, có phạm vi rộng và có tính thời sự 
cao, mang tính vĩ mô trong quản lý nhà nước về 
môi trường để thực hiện kiểm toán. Trong đó tập 
trung ưu tiên vào các mục tiêu phát triển bền vững 
theo Chương trình Nghị sự 30 của Liên Hợp quốc, 
nên ưu tiên tập trung ưu tiên vào việc kiểm toán 
sự chuẩn bị của Chính phủ trong việc đạt được các 
mục tiêu về Phát triển bền vững theo cam kết đã 
thực hiện và các chủ đề KTMT đang được các SaI 
quan tâm như Biến đổi khí hậu, Đa dạng sinh học, 
khai thác khoáng sản...
(3) Cho phép các Đoàn kiểm toán về môi 
trường áp dụng thí điểm, linh hoạt các mẫu biểu, 
hồ sơ kiểm toán, cách thức trình bày Báo cáo theo 
thông lệ quốc tế mà các SaI đang áp dụng. Từ đó 
từng bước áp dụng thực tiễn vào điều kiện cụ thể 
tại Việt Nam. 
(4) Cho phép sử dụng cộng tác viên (chuyên gia 
môi trường) trong cả quá trình kiểm toán, ngay từ 
khâu khảo sát lập kế hoạch kiểm toán đối với các 
cuộc KTMT cần chuyên gia tư vấn. Bên cạnh đó, 
đối với các kiểm toán có tính chất phức tạp, được 
phép sử dụng các công nghệ hỗ trợ trong KTMT 
như hệ thống thông tin địa lý (GIS), hình ảnh vệ 
tinh viễn thám... trong việc kiểm toán liên quan 
đến rừng, tài nguyên khoáng sản...
(5) Triển khai áp dụng công nghệ thông tin 
trong hoạt động kiểm toán, đạo tạo trực tuyến từ 
xa, thay vì cử cán bộ sang nước ngoài học hay mời 
các chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy tại Việt 
Nam, chúng ta có thể kết nối học từ xa với các SaI 
có thế mạnh về KTMT đối với các lĩnh vực KTMT 
cụ thể để tiết kiệm kinh phí, nhiều người có thể 
tham gia được và tận dụng được kinh nghiệm của 
các SaI một cách tối đa. 
Trên đây là một số kinh nghiệm quốc tế về 
KTMT và đề xuất triển khai áp dụng tại cơ quan 
KTNN Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước 
đến năm 2020;
2. Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác 
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 25/6/1998;
3. Nghị quyết 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường 
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước, ngày 15/11/2004;
4. Phan Trường Giang, (2016), Phát triển kiểm 
toán môi trường ở KTNN - hướng đi phù 
hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế, Tạp 
chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán, số 
103-5/2016.

File đính kèm:

  • pdfkiem_toan_moi_truong_kinh_nghiem_quoc_te_va_huong_ap_dung_ta.pdf