Kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu sau mổ của điều dưỡng tại các bệnh viện hạng I thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮT Đặt vấn đề: Thời gian 6 giờ đầu sau mổ là giai đoạn của nhiều rối loạn về sinh lý trên các tạng chính yếu của cơ thể; bệnh nhân cần phải được theo dõi chăm sóc một cách đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng và kinh nghiệm. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân (CSBN) 6 giờ đầu sau mổ của điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng đa khoa tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 131 điều dưỡng hiện đang CSBN tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện (Bình Dân, Nguyễn Tri Phương, 115, Nhân Dân Gia Định, Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2), từ tháng 3/2013 đến tháng 5/2013 được phân thành 2 nhóm. Nhóm điều dưỡng gây mê hồi sức (n = 68) và nhóm điều dưỡng đa khoa ( n = 63). Điều dưỡng được phát phiếu khảo sát kiến thức bằng bộ câu hỏi trắc nghiệm và quan sát thực hành CSBN tại phòng hồi tỉnh qua bảng kiểm kỹ thuật. Kết quả: Điều dưỡng CSBN 6 giờ đầu sau mổ đa phần là nữ giới chiếm tỉ lệ 78,6% và phần lớn có độ tuổi dưới 45 với tỉ lệ 91,6% và đa số trình độ chuyên môn trung cấp đạt tỉ lệ cao 74,8%. Phần lớn các nội dung về kiến thức và thực hiện kỹ thuật điều dưỡng đều có tỉ lệ trả lời và chăm sóc đúng trên 50%. Kết luận: nhóm điều dưỡng gây mê có điểm kiến thức và thực hành hay tỉ lệ đúng cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa. Có bốn mối liên quan về kiến thức và ba mối liên quan với điểm thực hành giữa đặc tính dịch tễ học của điều dưỡng

pdf 6 trang yennguyen 2360
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu sau mổ của điều dưỡng tại các bệnh viện hạng I thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu sau mổ của điều dưỡng tại các bệnh viện hạng I thành phố Hồ Chí Minh

Kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu sau mổ của điều dưỡng tại các bệnh viện hạng I thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 47
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CHĂM SÓC  
BỆNH NHÂN 6 GIỜ ĐẦU SAU MỔ CỦA ĐIỀU DƯỠNG  
TẠI CÁC BỆNH VIỆN HẠNG I THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
 Nguyễn Thị Mỹ Hiền*, Nguyễn Văn Chừng*, Nguyễn Văn Chinh*  
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thời gian 6 giờ đầu sau mổ là giai đoạn của nhiều rối loạn về sinh lý trên các tạng chính yếu 
của cơ thể; bệnh nhân cần phải được theo dõi chăm sóc một cách đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng 
và kinh nghiệm. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân (CSBN) 6 giờ đầu sau mổ của 
điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng đa khoa tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Đối  tượng  – phương pháp nghiên  cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô  tả  trên 131 điều dưỡng hiện đang 
CSBN tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện (Bình Dân, Nguyễn Tri Phương, 115, Nhân Dân Gia Định, Nhi Đồng 1 
và Nhi Đồng 2), từ tháng 3/2013 đến tháng 5/2013 được phân thành 2 nhóm. Nhóm điều dưỡng gây mê hồi sức 
(n = 68) và nhóm điều dưỡng đa khoa ( n = 63). Điều dưỡng được phát phiếu khảo sát kiến thức bằng bộ câu hỏi 
trắc nghiệm và quan sát thực hành CSBN tại phòng hồi tỉnh qua bảng kiểm kỹ thuật.  
Kết quả: Điều dưỡng CSBN 6 giờ đầu sau mổ đa phần là nữ giới chiếm tỉ lệ 78,6% và phần lớn có độ tuổi 
dưới 45 với tỉ lệ 91,6% và đa số trình độ chuyên môn trung cấp đạt tỉ lệ cao 74,8%. Phần lớn các nội dung về 
kiến thức và thực hiện kỹ thuật điều dưỡng đều có tỉ lệ trả lời và chăm sóc đúng trên 50%.  
Kết  luận: nhóm điều dưỡng gây mê có điểm kiến  thức và  thực hành hay  tỉ  lệ đúng cao hơn nhóm điều 
dưỡng đa khoa. Có bốn mối liên quan về kiến thức và ba mối liên quan với điểm thực hành giữa đặc tính dịch tễ 
học của điều dưỡng. 
Từ khóa: Chăm sóc bệnh nhân ngay sau mổ, phòng hồi tỉnh.  
ABSTRACT 
SURVEY OF KNOWLEDGE, PATIENT CARE PRACTICEAT 6 HOURS AFTER SURGERY OF NURSES 
AT FIRST CLASS HOSPITALS IN HO CHI MINH CITY 
Nguyen Thi My Hien, Nguyen Van Chung, Nguyen Van Chinh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 47 ‐ 52 
Background: Six hours after surgery end  time  is  the stage of many physiological disorders on  the major 
organs of the body; patients need to be monitored with particular care with doctors, nursing has the ability and 
experience.  
Objectives: Knowledge  surveys,  patient  care  practices  6  hours  after  surgery  of Nurse Anesthetists  and 
General Nurses at the first class hospitals in Ho Chi Minh City.  
Research methods: The  cross‐section  study descripts 131 nurses who  are working  in  recovery  room  at 
Nguyen Tri Phuong hospital, 115 Hospital, Gia Định Hospital, Pediatric Hospital no.1 and Pediatric Hospital 
no. 2  from March to May 2013.They are classified  into two groups. Nurse Anesthetists (n = 68) and General 
Nurses (n = 63). Nursing knowledge was surveyed by the multiple choice questions and observed patient care 
practice at recovery room by using checklist. 
Results: Most women, who care the patient for 6‐hour after surgery, comprise 78.6% and most of them are 
* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thị Mỹ Hiền,   ĐT: 0983363762,    Email: hienduc1081@ymail.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 48 
under age 45 with the ratio of 91.6% and a majority of qualified with 2‐year‐ training is high, ratio 74.8%. The 
majority of the content on knowledge and on‐the‐job implementation has a ratio of answers and proper care on 
50%. 
Conclusion: Nurse  anesthetists  have  the  knowledge  and  practice  of  the  correct  ratio  or  higher  general 
nurses. There are 4 relations of knowledge and 3 points of respect to the practice of epidemiology characteristics 
between nurse anesthetists and general nurses.  
Keyword: patient care after surgery, recovery room.  
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thời gian sau mổ, nhất là thời gian khi người 
bệnh còn tác dụng của thuốc dùng trong gây mê 
và phẫu thuật, còn gọi là thời gian thoát mê rất 
quan trọng, đây  là giai đoạn của nhiều rối  loạn 
về  sinh  lý  trên  các  tạng  chính  yếu  của  cơ  thể 
người bệnh, bao gồm các biến chứng về hô hấp, 
tuần hoàn, thần kinh trung ương, tiêu hóa, thận 
niệu cho đến hệ vận động cơ xương khớp, cũng 
như hệ nội tiết(4,6,7). Để phát hiện sớm các tai biến, 
biến  chứng  xảy  ra  trong  thời  gian  này,  người 
bệnh cần phải được theo dõi chăm sóc một cách 
đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng 
và  kinh  nghiệm,  đồng  thời  cần  có  đầy  đủ  các 
phương tiện để theo dõi và bảo trì các chức năng 
quan trọng của người bệnh(9). 
Chăm sóc người bệnh  tại phòng hồi  tỉnh  là 
một chuyên khoa đòi hỏi phải có kỹ năng(10). Do 
vậy, người  điều dưỡng  làm việc  tại phòng hồi 
tỉnh  vừa  là  người  nói  thay  người  bệnh  những 
yêu  cầu  cần  thiết,  đồng  thời vừa  là người  đáp 
ứng các yêu cầu đó; nhất là khi người bệnh đang 
trong thời gian chịu ảnh hưởng của gây mê và có 
trách nhiệm duy nhất  là  chăm  sóc người bệnh 
sau gây mê cho đến khi họ hoàn toàn có ý thức, 
gần như trở về trạng thái ban đầu(4). 
Tại Việt Nam nói  chung,  ở Thành phố Hố 
Chí Minh nói riêng hầu hết các bệnh viện đã có 
sự thống nhất điều trị người bệnh ngay sau mổ 
thuộc quyền quyết  định  của bác  sĩ gây mê hồi 
sức, nhưng  lãnh vực  theo dõi,  chăm  sóc người 
bệnh  ngay  sau mổ  chưa  được  phân  công  phổ 
biến  cho  điều dưỡng  gây mê  hồi  sức  chủ  yếu 
vẫn  là  điều  dưỡng  đa  khoa.  Theo  tiêu  chuẩn 
nghiệp vụ các ngạch viên chức y tế điều dưỡng 
cho thấy rằng điều dưỡng gây mê hồi sức có đủ 
kiến thức, thực hành trong chăm sóc người bệnh 
6 giờ đầu sau mổ(1).  
Đây là vấn đề cần phải tiến hành nghiên cứu 
đề  tài này nhằm mục  đích  tìm hiểu kiến  thức, 
thực hành chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu  sau 
mổ  và mối  liên  quan  giữa  đặc  điểm  của  đối 
tượng nghiên cứu với kiến thức, thực hành trong 
chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu sau mổ. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Thu  thập số  liệu  tại khoa Phẫu  thuật – gây 
mê hồi sức các bệnh viện (Nguyễn Tri Phương, 
115, Nhi  Đồng  1, Nhi  Đồng  2, Nhân Dân Gia 
Định, Bình Dân) từ 15/3/2013 đến 15/5/2013. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chí đưa vào 
Đối  tượng  tham gia nghiên  cứu  là những 
điều  dưỡng  gây  mê  hồi  sức  (ĐDGMHS)  và 
điều dưỡng  đa khoa  (ĐDĐK)  ở khoa gây mê 
hồi sức đã có chăm sóc người bệnh (CSNB) tại 
phòng hồi tỉnh trong các bệnh viện hạng 1 trên 
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; có thời gian 
làm việc từ 12 tháng trở lên; tình nguyện tham 
gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại trừ 
Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng 
đa khoa  đang  trong  thời gian  tập  sự,  làm việc 
bán thời gian hay cộng tác, đang trong thời gian 
chấp hành kỷ luật có thể làm ảnh hưởng đến kết 
quả nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 49
Cỡ mẫu 
131 mẫu đạt yêu cầu chia thành hai nhóm 
Nhóm Điều dưỡng gây mê hồi sức: 68 điều 
dưỡng. 
Nhóm Điều dưỡng đa khoa: 63 điều dưỡng. 
Phương pháp tiến hành 
Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng 
đa khoa  đồng ý  tham gia nghiên  cứu  thì  sau 
khi ký giấy đồng ý sẽ được phát bảng câu hỏi 
trắc nghiệm. 
Điều dưỡng  trưởng khoa phân công cụ  thể 
lịch  làm việc  của  từng  điều dưỡng  trong khoa 
cho người nghiên cứu quan sát  thực hành dựa 
theo bảng kiểm kỹ thuật. 
Số  liệu  sau khi  thu  thập  sẽ được phân  tích 
dựa trên phần mềm Stata 12.0. 
KẾT QUẢ 
Qua khảo sát có 131 mẫu được đưa vào phân 
tích, kết quả như sau: 
Đặc tính chung của điều dưỡng 
Điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu 
sau mổ đa phần  là nữ giới chiếm tỉ  lệ 78,6% và 
phần  lớn có độ  tuổi dưới 45 với  tỉ  lệ 91,6%. Về 
trình độ chuyên môn, đa số  trung học đạt  tỉ  lệ 
cao 74,8%, đại học chỉ 22,1%; 41,2% điều dưỡng 
tham gia có  thời gian công  tác dưới 5 năm. Về 
đời sống cá nhân, tỉ lệ có và chưa có gia đình là 
gần bằng nhau và hầu như tất cả đều có dưới 2 
con với tỉ lệ 95,4%. Về các nguồn cập nhật thông 
tin chăm sóc người bệnh, học hỏi kinh nghiệm từ 
đồng nghiệp chiếm tỉ lệ vượt trội với 84,6%; loại 
bệnh mổ ASA IV và ASA V có tỉ lệ thấp, các mặt 
bệnh mổ còn  lại có  tỉ  lệ  tương đương; đa phần 
đối tượng đều mong muốn được học thêm kiến 
thức về cách chăm sóc người bệnh tại phòng hồi 
tỉnh với tỉ lệ 84,7%. 
Tỉ  lệ  kiến  thức  đúng  về  chăm  sóc  người 
bệnh 6 giờ đầu sau mổ 
Gồm 51  câu hỏi,  được  chia  thành 3 nhóm 
dựa  theo mức  độ quan  trọng  trong giai  đoạn 
chăm sóc người bệnh ngay sau phẫu thuật. Đa 
phần các nội dung đều có tỉ lệ trả lời đúng trên 
50%, 21 nội dung có tỉ lệ trả lời đúng trên 90%, 
bên  cạnh  đó  vẫn  còn  7  nội dung  tỉ  lệ  trả  lời 
đúng dưới 50% thậm chí có 3 nội dung chỉ đạt 
tỉ lệ dưới 30%. 
Tỉ  lệ  thực hành  đúng  về  chăm  sóc người 
bệnh 6 giờ đầu sau mổ 
Phần thực hành người nghiên cứu quan sát 
theo bảng kiểm để đánh giá thực hành CSNB 6 
giờ  đầu  sau mổ  của  điều dưỡng  gây mê  hồi 
sức và điều dưỡng đa khoa. Ngoại  trừ  truyền 
máu,  tất  cả  các  nội dung  còn  lại  đều  có  trên 
50% đối tượng thực hành đúng. Tuy nhiên, đối 
với  những  yêu  cầu  đầu  tiên  khi  chăm  sóc 
người bệnh 6 giờ đầu  sau phẫu  thuật  là  theo 
dõi  cử  động  2  chi  dưới  với  gây  tê  tủy  sống, 
theo dõi  lượng máu mất, nâng hàm khi SpO2 
dưới 95% và đặt nội khí quản khi người bệnh 
có suy hô hấp có tỉ lệ thực hành đúng chưa cao 
so với các nội dung khác. 
Mối  liên quan giữa  đặc  điểm dịch  tễ học 
của  điều dưỡng với  điểm kiến  thức  chăm 
sóc người bệnh 6 giờ đầu sau mổ 
Bảng 1: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều 
dưỡng với điểm kiến thức 
Đặc tính Điểm (tổng = 126) 
Độ lệch 
chuẩn 
Giá trị
p 
Thông tin 
cập nhật
Có 99,7 8,3 
0,04 
Không 93,3 17,3 
Phân loại 
bệnh mổ
Biết 99,2 8,0 
0,02 
Không 89,5 21,7 
Ý kiến đào
tạo 
Có 97,1 14,6 
0,01 
Không 92,8 9,5 
Phân 
nhóm 
Gây mê 
(kiến thức) 101 8,9 
0,04 
Gây mê 
(kiến thức, 
thực hành) 
97,8 8,2 
Đa khoa 
(kiến thức, 
thực hành) 
93,3 18,3 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 50 
Mối  liên quan giữa  đặc  điểm dịch  tễ học 
của  điều dưỡng với  điểm kiến  thức  chăm 
sóc người bệnh 6 giờ đầu sau mổ  
Bảng 2: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều 
dưỡng với điểm thực hành 
Đặc tính Điểm (tổng = 27) 
Độ lệch 
chuẩn 
Giá trị
p 
Từ 30 đến 45 10,8 8,3 
Trên 45 14,3 6,9 
Thâm niên 
công tác 
Dưới 5 năm 17,5 7,1 
0,003
Từ 5 đến 10 
năm 11,7 7,8 
Từ 11 đến 20 
năm 11,6 9,2 
Trên 20 năm 12,5 5,6 
Trên 10 triệu 23,8 1,8 
Không 14,4 8,7 
Phân loại 
bệnh mổ 
Biết 14,5 8,6 
0,05 
Không 11,8 8,0 
Phân nhóm 
Gây mê 
(kiến thức, thực 
hành) 
18,5 4,6 
0,0001Điều dưỡng 
(kiến thức, thực 
hành) 
15,0 6,5 
BÀN LUẬN 
Chăm sóc người bệnh  là một công việc đòi 
hỏi sự cẩn thận và chu đáo, đặc biệt là chăm sóc 
người bệnh ở giai đoạn hậu phẫu, vì thế các đặc 
tính này dường như phù hợp ở nữ giới hơn phái 
nam. Qua khảo sát toàn bộ điều dưỡng chăm sóc 
ở khoa gây mê các bệnh viện, tỉ lệ nữ giới chiếm 
hơn ¾ trong mẫu nghiên cứu. Một nghiên cứu ở 
bệnh viện Johannesburg, Nam Phi(8) cũng có kết 
quả tương tự, 95,9% (n=47) điều dưỡng làm việc 
trong phòng hồi tỉnh là nữ và chỉ 4,1% (n = 2) là 
nam. Độ tuổi trung bình là 44 (25 đến 63), trung 
vị 41 tuổi. Bên cạnh đó, tỉ lệ nhân viên có trên 5 
năm  kinh  nghiệm  chiếm  tỉ  lệ  tương  đương 
(58,8%); đây là nguồn lực dồi dào và là điều kiện 
thuận  lợi  để  lớp  sau  học  hỏi  lớp  trước,  cộng 
hưởng  sức mạnh  tuổi  trẻ  giúp  nâng  cao  chất 
lượng  chăm  sóc  người  bệnh.Tất  cả  đối  tượng 
đều đồng ý rằng điều dưỡng cần được đào tạo 
thêm kiến thức cũng như kỹ năng chăm sóc của 
điều  dưỡng  tại  phòng  hồi  tỉnh,  điều  này  cho 
thấy  trách  nhiệm  của  nhân  viên  đối  với  chính 
công  việc  đang  làm,  là  yếu  tố  quan  trọng  để 
nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh. 
Nhìn chung 51 câu hỏi về kiến thức, tỉ lệ trả 
lời đúng là rất cao chỉ 7 nội dung có tỉ lệ trả lời 
đúng dưới 50%,  thậm chí có câu đạt gần 100%, 
điều này  cho  thấy  chất  lượng  chăm  sóc người 
bệnh khâu sau mổ ở các bệnh viện hạng 1, mặc 
dù tỉ lệ nhân viên có trình độ cử nhân và làm lâu 
năm  là  không  nhiều,  tuy  nhiên  kiến  thức  vẫn 
được họ cập nhật đầy đủ. Bên cạnh đó, chúng ta 
cũng cần lưu tâm đến 7 câu có tỉ lệ trả lời thấp, 
thậm chí chỉ đạt xung quanh mức 20%. 
Đây  là  giai  đoạn  đòi  hỏi  rất  nhiều  yếu  tố 
giúp  người  bệnh  phục  hồi  sức  khỏe  sau  phẫu 
thuật, trong đó 4 bước quan trọng nhất thiết phải 
có là theo dõi cử động hai chi dưới với gây tê tủy 
sống,  theo  dõi  lượng máu mất,  nâng  hàm  khi 
SpO2 dưới  95% và  đặt nội khí quản khi người 
bệnh có suy hô hấp có tỉ lệ thực hành đúng trên 
50%  nhưng  vẫn  chưa  cao  bằng  các  nội  dung 
khác.  Điều  này  có  thể  diễn  giải  từ  thực  trạng 
hiện  nay,  các  nhân  viên  y  tế  đều  nắm  rõ  lý 
thuyết và các thao tác chuyên môn, tuy nhiên do 
tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên, họ 
phải chăm sóc quá nhiều người bệnh khiến cho 
các  thao  tác  chưa  được  thực hiện  đầy  đủ như 
những gì được học. Đặc biệt ở nhóm điều dưỡng 
gây mê hồi sức các thao tác chăm sóc người bệnh 
ngay sau mổ hầu như đạt tỉ lệ 100%. 
Có sự khác biệt đáng kể ở nhóm điều dưỡng 
gây mê được đào tạo chuyên sâu và điều dưỡng 
đa khoa. Nhóm điều dưỡng đa khoa có điểm về 
thực hành thấp hơn nhóm còn lại. Đây là yếu tố 
quan trọng nhất trong chăm sóc người bệnh, đặc 
biệt là giai đoạn 6 giờ sau hậu phẫu, việc đào tạo 
chuyên ngành cho điều dưỡng chăm sóc người 
bệnh tại phòng hồi tỉnh là điều cần thiết và cũng 
được hầu hết điều dưỡng làm việc trong ngành 
nghề này ủng hộ. 
Nhân viên có cập nhật thông tin về chăm sóc 
người bệnh cao hơn nhân viên không cập nhật 
cho  thấy mức  độ quan  tâm  đến việc nâng  cao 
kiến  thức  trong công việc mình  làm có ý nghĩa 
rất  lớn.  Ý  thức  được  tầm  ảnh  hưởng  của  giai 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 51
đoạn  hậu  phẫu  đối  với  sức  khỏe  người  bệnh, 
người  điều dưỡng  cần  luôn  chủ động học hỏi, 
tìm  tòi  thêm kiến  thức nâng cao  tay nghề. Tuy 
nhiên,  nhân  viên  không  được  phân  công  hoặc 
không biết phân cấp mình đang chăm sóc có số 
điểm thấp, đây là vấn đề cần lưu ý, điều dưỡng 
chăm sóc cần nắm rõ mặt bệnh mình phụ trách 
sẽ giúp nhận biết mình phải  làm gì để kết quả 
cuộc phẫu  thuật  sẽ  theo  chiều hướng  tốt nhất. 
Nhóm những điều dưỡng có ý kiến nên đào tạo 
thêm về chuyên ngành chăm sóc người bệnh giai 
đoạn  hồi  tỉnh,  điểm  kiến  thức  cao  hơn  nhóm 
không muốn.  Điều  dưỡng  gây mê  không  trực 
tiếp chăm sóc người bệnh có điểm kiến thức cao 
hơn 2 phân nhóm còn  lại. Đây  là những người 
đa số thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có độ 
chín trong tay nghề, luôn cập nhật các thông tin 
mới và tiếp thu chúng dễ dàng hơn so với nhóm 
những người  ít  thâm niên hơn khi chưa đạt độ 
thuần  thục  trong nghề nghiệp vì  chưa  có kinh 
nghiệm. Ngoài ra, những người này cũng là đối 
tượng  được phân công chăm sóc các mặt bệnh 
đa dạng, hiểu và nắm rõ các cấp độ cần xử lý đối 
với một người bệnh sau phẫu thuật. 
Tóm  lại,  trên  đối  tượng  là  các  điều dưỡng 
làm việc  trong phòng hồi  tỉnh  thực hiện  chăm 
sóc người bệnh sau phẫu  thuật  tập  trung phần 
lớn là nữ, trung bình khoảng 33 tuổi, tỉ lệ có gia 
đình nhiều hơn một ít so với người còn độc thân, 
có  và  chưa  có  con  tương  đương  nhau.  Điều 
dưỡng  đa khoa và  điều dưỡng gây mê  có  tỉ  lệ 
tương đương nhau khi lấy mẫu toàn bộ các bệnh 
viện  đa khoa  có phòng hồi  tỉnh,  trình  độ  điều 
dưỡng phần lớn vẫn là trung cấp cả ở nhóm đa 
khoa và chuyên ngành gây mê. Thâm niên công 
tác  từ 5 năm  trở  lên chiếm gần 60%. Trong cập 
nhật thông tin về chuyên ngành mình đang công 
tác, đa phần họ cập nhật từ nhà trường. Việc cập 
nhật  thông  tin xét  theo  tiêu  chí  cập nhật  từ ba 
nguồn thông  tin trở  lên, ngoài các kiến  thức đã 
được  cung  cấp  trên  ghế  nhà  trường,  bổ  sung 
thêm  trong  quá  trình  làm  việc  (sách,  tạp  chí, 
internet, từ đồng nghiệp hoặc kinh nghiệm thực 
tế) tỉ lệ này chiếm khoảng 41%. Đa phần các điều 
dưỡng  tham  gia  trả  lời  bộ  câu  hỏi  đều  được 
phân  công  chăm  sóc  các  cấp  độ  từ ASA  I  đến 
ASA V (91%). Tham khảo ý kiến chung về việc 
nên đào  tạo chuyên ngành chăm sóc hậu phẫu 
cho điều dưỡng  làm việc ở phòng hồi tỉnh, gần 
85% đồng ý với ý kiến trên. Trong quá trình thu 
thập số liệu, nghiên cứu viên cũng đã tham khảo 
ý kiến chuyên gia gây mê hồi sức mô hình chăm 
sóc người bệnh ngay sau phẫu  thuật  tại phòng 
hồi tỉnh, các chuyên gia cho rằng trên thực tế đã 
có  nhiều  tai  biến  xảy  ra  nhất  là  xử  trí  nhanh 
trong cấp cứu hô hấp cho người bệnh ngay sau 
mổ nên rất cần  thiết phải có sự phối hợp chăm 
sóc  giữa  điều  dưỡng  gây mê  hồi  sức  và  điều 
dưỡng đa khoa giai đoạn này. Điều dưỡng gây 
mê hồi sức đã được huấn  luyện  thành thạo các 
kỹ năng giải phóng đường  thở như nâng hàm, 
đặt nội khí quản, kiến  thức dược động  lực học 
giúp phát hiện sớm, đánh giá tác dụng của thuốc 
sử dụng  trong gây mê hồi sức ngay  từ khi còn 
ngồi  trên ghế nhà  trường.  Đây  cũng  là vấn  đề 
cần phải  đào  tạo  về  chuyên ngành  cho những 
điều  dưỡng  đa  khoa  khi  họ  được  phân  công 
chăm sóc người bệnh tại phòng hồi tỉnh. 
Điểm  kiến  thức  và  thực  hành  có mối  liên 
quan  với  các  đặc  điểm  về  độ  tuổi,  thâm  niên 
công  tác,  ý  kiến  nên  hay  không  trong  đào  tạo 
chuyên  ngành  cho  các  điều  dưỡng  chăm  sóc 
người bệnh phòng hồi  tỉnh và nhất  là 3 yếu  tố 
quan  trọng:  cập  nhật  thông  tin  thường  xuyên, 
nhận định mặt bệnh được phân công chăm sóc 
và phân nhóm điều dưỡng đa khoa và gây mê. 
KẾT LUẬN  
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  nhóm  điều 
dưỡng gây mê có điểm kiến thức, thực hành hay 
tỉ lệ đúng cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa. 
Có bốn mối  liên quan giữa đặc  tính dịch  tễ 
học  của  điều dưỡng với  điểm kiến  thức,  đó  là 
mối  liên quan về giới  tính, việc cập nhật  thông 
tin chuyên môn, bệnh mổ được phân công chăm 
sóc và về phân nhóm điều dưỡng. 
Có ba mối liên quan giữa đặc tính dịch tễ học 
của điều dưỡng với điểm  thực hành, đó  là mối 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 52 
liên quan về nhóm  tuổi,  thâm niên công  tác và 
về phân nhóm điều dưỡng. 
KIẾN NGHỊ  
Từ kết quả của nghiên cứu, các nhận xét và 
so sánh với các đề tài liên quan, chúng tôi mong 
muốn xây dựng một chương  trình  theo chuyên 
đề  dựa  trên  các  nội  dung  còn  nhầm  lẫn  hoặc 
chưa nắm rõ trong kiến thức cũng như lớp huấn 
luyện về các kỹ năng còn sai và thiếu sót trong 
thực hành.  
Trong quá trình thực hiện đề tài theo chúng 
tôi, tại phòng hồi tỉnh cần có sự phân công chăm 
sóc người  bệnh  6  giờ  đầu  sau phẫu  thuật nên 
phối hợp giữa đội ngũ điều dưỡng gây mê hồi 
sức và đa khoa. Điều này cần nhân  rộng  trong 
tất cả khoa gây mê hồi sức các bệnh viện đa khoa 
cũng như chuyên khoa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ nội vụ  (2005) Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch y  tế viên 
chức điều dưỡng. 
2. Đỗ Văn Dũng  (2009) Hướng dẫn phân  tích và  sử dụng Stata, 
Khoa Y tế công cộng. 
3. Lê Hoàng Ninh  (2011) Phương pháp chọn mẫu và xác  định cỡ 
mẫu trong nghiên cứu y học, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh 
Tp.HCM, tr. 30‐36. 
4. Manager OR (1998)  ʺPatterson P.PACU Staffing. Staffing the 
recovery areas an art as well as a scienceʺ. 14 (4), 19 ‐ 22. 
5. Nguyễn Văn Chừng (2013). Hội chứng suy hô hấp người lớn. 
In: Nguyễn Văn Chừng. Gây mê hồi sức giản yếu, tr. 36 ‐ 38. 
Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh Tp.HCM. 
6. Nguyễn Văn Chừng (2011). Chăm sóc bệnh nhân sau mổ. In: 
Nguyễn Văn Chừng. Gây mê hồi sức cơ bản, tr. 18 – 33. Nhà 
xuất bản Y học, Chi nhánh Tp. HCM. 
7. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Chinh (2010). Những đặc 
điểm  đường  thở.  In: Nguyễn Văn Chừng. Sử dụng mặt nạ 
thanh quản để kiểm soát đường thở trong Gây mê hồi sức, tr. 
14 – 20. Nhà xuất bản y học, Chi nhánh Tp. HCM. 
8. Scribane  J, Perrie HC  (2011)  ʺA pilot study  to determine  the 
profile of  recovery  room nurses  in  Johannesburg hospitalsʺ. 
South Afr J Anaesth Analg, 17 (5), 323 ‐ 327. 
9. Van Aken HPT  (1997)  ʺThe perioperative phase as a part of 
anesthesia.  Tasks  of  the  recovery  roomʺ.  Anesth  Article  in 
German, 2 (46). 
10. Wit MAM and et al  (2012)  ʺNursing role  to  improve care  to 
infarct  patiets  and  patients  undergoing  heart  surgery:  10 
years’ experienceʺ. Netherlands Heart J, 20, 5 ‐ 11. 
Ngày nhận bài báo:        18/8/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:    29/9/2014 
Ngày bài báo được đăng:  20/10/2014 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_cham_soc_benh_nhan_6_gio_dau_sau_mo_cua.pdf