Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách đối với đại học tư

Tuy không diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới nhưng ở khu vực Đông Á, nhiều quốc gia/vùng lãnh

thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan đã ban hành những chính sách dành

riêng cho giáo dục đại học (GDĐH) tư. Dù chiếm 19% tổng số trường đại học trong toàn hệ thống và

14% tổng số sinh viên nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có một chính sách riêng thực sự phù hợp

cho khu vực GDĐH tư. Vì vậy, theo tác giả, việc tìm hiểu về khung khổ pháp luật của một số quốc gia

ở Đông Á đối với GDĐH tư cùng các quan điểm làm nền tảng cho những chính sách đó sẽ là gợi mở

hữu ích cho việc xây dựng chính sách GDĐH tư ở Việt Nam.

pdf 5 trang yennguyen 5840
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách đối với đại học tư", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách đối với đại học tư

Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách đối với đại học tư
76
Soá 5 naêm 2018
KH&CN nước ngoài
Tổng quan tình hình đại học tư trên thế 
giới
Trong nền kinh tế tri thức, tri 
thức trở thành hàng hóa, vì thế giáo 
dục hơn bao giờ hết đã trở thành lợi 
ích thiết thân của người học. Không 
có gì lạ khi việc tạo ra tri thức và 
phổ biến, chuyển giao tri thức được 
thương mại hóa và theo đuổi ở bậc 
đại học ngày càng được xem là đầu 
tư của cá nhân cho tương lai. Bên 
cạnh đó, việc giảm sút nguồn lực 
công dành cho GDĐH đang diễn ra 
trên toàn cầu, một phần là do hiện 
tượng đại chúng hóa giáo dục bậc 
cao, phần khác là do chi phí giáo 
dục tăng nhanh ở hầu như tất cả 
các nước. Thực tế này khiến cho sự 
tham gia của khu vực tư vào GDĐH 
trở thành một giải pháp tất yếu 
nhằm phát triển nguồn nhân lực 
kỹ năng cao. Bản thân các trường 
công cũng đang thay đổi và đang 
tìm kiếm nguồn lực từ nhiều nguồn 
khác nhau chứ không chỉ dựa vào 
tài trợ của ngân sách. Hoạt động 
của các trường ngày càng bị chi 
phối nhiều hơn bởi tác động của thị 
trường.
Đại học tư là bài toán của mỗi 
quốc gia
Dựa vào khu vực tư để đại 
chúng hóa hay tư nhân hóa GDĐH 
là những khái niệm khác nhau, tuy 
vậy đều dựa trên mức độ nhận thức 
và thừa nhận của nhà nước đối với 
vai trò của khu vực tư trong GDĐH, 
thể hiện qua các chính sách cụ thể. 
Trên thực tế, có những nước chỉ 
nêu vấn đề GDĐH tư qua những 
nguyên tắc chung trong Luật Giáo 
dục hoặc Luật GDĐH, như trường 
hợp Pháp, Nhật Bản, nhưng cũng 
có nước/vùng lãnh thổ có hẳn một 
bộ luật riêng hoặc một chương riêng 
của Luật để quy định khung pháp lý 
cho GDĐH tư, như trường hợp: Nga 
[1], Trung Quốc [2], Malaysia [3], 
Thái Lan [4], Đài Loan [1].
Điều này phản ánh tầm quan 
trọng của GDĐH tư ở mỗi nước. 
Đồng thời, quan điểm đối với GDĐH 
tư của từng nước cũng thay đổi theo 
thời gian. Chẳng hạn, trong thế kỷ 
trước, vào thập kỷ 70, Malaysia 
tỏ ra khắt khe với việc phát triển 
GDĐH tư nhưng trong thập kỷ 80 
đến 90 đã có quan điểm “phát triển 
có kiểm soát” và hiện nay là ủng hộ 
rõ rệt [5], dù rằng Chính phủ vẫn 
duy trì một quyền lực đáng kể từ xa.
Cũng cần lưu ý là, GDĐH tư có 
thể mang các đặc điểm khác nhau 
tùy vào mỗi nước. Hoa Kỳ là trường 
hợp tiêu biểu của những trường đại 
học tư lâu đời và cực kỳ xuất sắc 
như Havard, Yale, Stanford với 
nguồn gốc liên quan ít nhiều đến 
nhà thờ, và nguồn hiến tặng rất 
lớn. Nói cách khác, mô hình này 
được vận hành trên nền tảng một 
mô hình tài chính không dễ lặp lại 
ở nước khác và đã giúp các trường 
này có thể hoạt động như những tổ 
chức phi lợi nhuận. Về bản chất, nó 
khác với những trường đại học do 
tư nhân, hay công ty bỏ vốn đầu tư 
và thực hiện đào tạo như là cung 
cấp một dịch vụ mà ta thường thấy 
ở nhiều nước, đặc biệt là ở Đông Á. 
Khu vực GDĐH vì lợi nhuận ở Hoa 
Kỳ bắt đầu từ năm 1972, đạt đến 
đỉnh năm 2009 và suy giảm từ đó 
đến nay cũng như không có được 
một vị trí đáng kể trong hệ thống và 
xã hội [6].
Mức độ ủng hộ đối với khu vực 
tư của các quốc gia
Đối với Pháp, tại Điều L.151 
Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng 
chính sách đối Với đại học tư
Phạm Thị Ly
Trường đại học nguyễn Tất Thành
Tuy không diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới nhưng ở khu vực Đông Á, nhiều quốc gia/vùng lãnh 
thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan đã ban hành những chính sách dành 
riêng cho giáo dục đại học (GDĐH) tư. Dù chiếm 19% tổng số trường đại học trong toàn hệ thống và 
14% tổng số sinh viên nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có một chính sách riêng thực sự phù hợp 
cho khu vực GDĐH tư. Vì vậy, theo tác giả, việc tìm hiểu về khung khổ pháp luật của một số quốc gia 
ở Đông Á đối với GDĐH tư cùng các quan điểm làm nền tảng cho những chính sách đó sẽ là gợi mở 
hữu ích cho việc xây dựng chính sách GDĐH tư ở Việt Nam.
77
Soá 5 naêm 2018
KH&CN nước ngoài
Luật Giáo dục đã quy định, Nhà 
nước tôn trọng tự do giáo dục và 
đảm bảo việc cho phép mở các 
cơ sở GDĐH tư thục, tuy vậy các 
trường đại học chủ yếu là trường 
công, chỉ một số ít là trường tư (ví 
dụ như Lille Catholic University). 
Sinh viên ở các đại học công lập ở 
nước này đều được miễn học phí. 
Đáng lưu ý là, về quyền lợi, chính 
sách đào tạo và điều kiện làm việc 
của giáo viên trường tư cũng được 
áp dụng như với giáo viên công lập. 
Nhà nước cấp kinh phí cho đào tạo 
ban đầu và nâng cao trình độ của 
giảng viên.
Chính sách này ở các nước/vùng 
lãnh thổ ở Đông Á xem ra phức tạp 
hơn. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài 
Loan đều nhấn mạnh việc sử dụng 
ngân sách để mở rộng giáo dục 
phổ thông và để ngỏ việc phát triển 
GDĐH cho khu vực tư. Ở Nhật Bản, 
số trường đại học tư chiếm tới 3/4 
tổng số trường. Tại Điều 8 Luật Giáo 
dục của nước này [1] quy định: Nhà 
nước thúc đẩy giáo dục trong các 
trường tư, chứ không có thêm quy 
định nào khác. Indonesia, Thái Lan 
trong các thập kỷ hậu chiến cũng 
đi theo mô hình Nhật Bản. Trường 
hợp Philippines, Hiến pháp năm 
1987 đã miễn mọi thứ thuế cho 
trường đại học không vì lợi nhuận 
[1], chưa kể dành riêng 33 Điều 
(20-52) thuộc 7 Chương (V-XI) quy 
định về thể chế cho GDĐH tư [7]. 
Trong một Nghị định do Thủ tướng 
Lào ban hành năm 1995 GDĐH tư 
đã được hợp pháp hóa ở nước này 
[1]. Từ năm 1969, Thái Lan đã có 
Luật GDĐH tư. Trường hợp Trung 
Quốc lại có sự gián đoạn: Trong 
thế kỷ XX, GDĐH tư ở Trung Quốc 
bị cấm trong giai đoạn 1950-1979 
nhưng đến thập kỷ 80, nước này đã 
cho phép GDĐH tư thông qua Luật 
Giáo dục tư cũng như việc mời gọi 
đầu tư nước ngoài vào khu vực này.
Nhìn chung, các nước thuộc khu 
vực Đông Á đều có thái độ ủng hộ 
đối với việc phát triển GDĐH tư, dù 
thể hiện ở những mức độ và hình 
thức khác nhau. Mặc dù khu vực tư 
vẫn còn chịu thành kiến của xã hội 
nhưng nhìn vào sự phát triển ngày 
càng mạnh của đại học tư ở hầu hết 
các quốc gia Đông Á có thể thấy sự 
chuyển biến tích cực về loại hình đại 
học này (cho dù phải dùng tới một 
“uyển ngữ” là “xã hội hóa” để nói về 
hiện tượng tăng cường sự tham gia 
của khu vực tư vào GDĐH).
Các vấn đề chính sách đối với khu vực 
GDĐH tư của Đông Á 
Để thúc đẩy sự tăng trưởng của 
khu vực đại học tư, chính phủ các 
nước không chỉ dừng ở việc tuyên 
bố ủng hộ/không ủng hộ, mà đã 
bắt tay vào thiết lập một hành lang 
pháp lý nhằm đưa khu vực này phát 
triển lành mạnh và hạn chế những 
tiêu cực của nó. Dưới đây sẽ phân 
tích 4 khía cạnh: Quy mô và tăng 
trưởng; tổ chức, quản trị và tài sản; 
chính sách hỗ trợ của nhà nước; và 
vấn đề tự chủ.
Quy mô và tăng trưởng
Hình 1 là số liệu về tỷ lệ khu vực 
tư trong cả hệ thống ở một số nước/
vùng lãnh thổ.
Hình 1 cho thấy, so với các nước/
vùng lãnh thổ ở Đông Á, tỷ lệ số sinh 
viên và số trường đại học trong khu 
vực tư của Việt Nam còn rất thấp. 
Theo số liệu chúng tôi có được, tính 
đến năm học 2015-2016, tỷ lệ sinh 
viên trong khu vực tư ở Việt Nam 
là 10,4%, trong khi Nhật Bản, Hàn 
Quốc vào khoảng 77-80%. Các nhà 
làm chính sách đã từng đưa ra mục 
tiêu: Đến năm 2020 ở Việt Nam có 
30-40% số sinh viên theo học trong 
các trường tư thục [8] nhưng đến 
nay có thể thấy trước là khó hoàn 
thành mục tiêu này. 
Các nước đã giải bài toán đó như 
thế nào? Quy mô và tăng trưởng 
của khu vực tư gắn liền với quy mô 
và tăng trưởng của các trường công 
lập. Khu vực tư sẽ phát triển tốt 
nhất trong bối cảnh có sự phân chia 
hợp lý giữa 2 khu vực công - tư. Do 
nguồn lực hạn hẹp, các trường công 
cần được sử dụng cho mục tiêu 
phục vụ lợi ích công, tức những lĩnh 
vực cần đầu tư nguồn lực mạnh và 
thị trường không thể đáp ứng, như 
nghiên cứu cơ bản hay các chuyên 
ngành có ít người học nhưng cần 
thiết cho xã hội; còn những lĩnh vực 
khác thì dành cho khu vực tư.
Việc phân chia trọng tâm sứ 
mạng giữa công và tư còn liên quan 
đến một vấn đề nữa là quy hoạch 
mạng lưới GDĐH. Nếu phó mặc cho 
các động lực thị trường, thì chúng ta 
sẽ thấy các trường đại học chỉ tập 
trung ở những thành phố lớn, làm 
giảm cơ hội tiếp cận đại học với 
người dân ở các tỉnh, đặc biệt là 
nhu cầu học tập suốt đời và những 
Hình 1. Tỷ lệ khu vực tư trong cả hệ thống ở một số nước.
78
Soá 5 naêm 2018
KH&CN nước ngoài
tác động tới kinh tế địa phương.
Một yếu tố khiến các trường 
tư không phát triển mạnh mẽ như 
mong muốn là bởi những quan ngại 
có cơ sở của công chúng về chất 
lượng và sự minh bạch của các 
trường đại học này. Điều đó đặt ra 
câu hỏi thứ hai về mặt chính sách, 
là nhà nước có nên can thiệp vào tổ 
chức quản trị của các trường tư hay 
không, nếu có thì ở mức độ ra sao 
và bằng cách nào.
Tổ chức, quản trị và tài sản
Một số nước/vùng lãnh thổ có 
các văn bản quy định rất chi tiết về 
việc tổ chức quản trị của các trường 
tư, như: Đài Loan, Thái Lan, Trung 
Quốc. 
- Trường hợp Đài Loan: Đài Loan 
có Luật Trường tư thục, trong đó 
quy định cụ thể thủ tục thành lập, 
điều kiện để giữ chức vụ trong hội 
đồng quản trị (HĐQT), chi tiết đến 
mức nêu rõ “những người kết hôn 
với nhau hoặc có họ trong vòng 3 
đời nội ngoại tộc không được vượt 
quá tỷ lệ 1/3 trong HĐQT trường” 
(Điều 18). Luật này cũng quy định 
các trường hợp thành viên HĐQT 
bị bãi miễn, hiệu trưởng được 
phép/không được phép tham gia 
họp HĐQT... Luật cũng quy định 
HĐQT không được kiêm nhiệm 
chức vụ hiệu trưởng hoặc các chức 
vụ hành chính khác trong trường, 
không được hưởng lương mà chỉ 
có bồi dưỡng họp và công tác phí. 
Luật không đề cập đến vấn đề lợi 
nhuận hay phi lợi nhuận, nhưng có 
quy định mọi khoản thu của trường 
được sử dụng cho các chi phí trong 
kế hoạch, nếu còn dư thì bổ sung 
vào quỹ (Điều 62). Mức thu cũng 
nằm trong một phạm vi được cơ 
quan thẩm quyền quy định. Luật 
bắt buộc các trường đăng ký thành 
lập Quỹ (Điều 35 đến 40). Trong 
trường hợp vi phạm có thể bị buộc 
giải thể
Các quy định trên đây cho thấy, 
Đài Loan có xu hướng thắt chặt 
kiểm soát đối với các trường tư, và 
các trường phải hoạt động trong 
khuôn khổ pháp lý của mô hình 
không vì lợi nhuận.
- Trường hợp Thái Lan: Thái Lan 
đã ban hành Luật GDĐH tư lần đầu 
vào năm 1979 (được sửa đổi bổ 
sung vào các năm 1992 và 2003). 
Luật này quy định cụ thể các điều 
kiện mở trường, thủ tục cấp phép, 
nhiệm kỳ, quyền và trách nhiệm 
của HĐQT, thành phần của HĐQT 
trong đó có thành viên đương nhiên 
là hiệu trưởng, đại diện giảng viên, 
và 3 người do Bộ Giáo dục chỉ 
định. Chủ tịch HĐQT do Bộ Giáo 
dục ra quyết định bổ nhiệm. HĐQT 
lựa chọn và bổ nhiệm hiệu trưởng. 
Giấy phép mở trường và mở ngành 
có thể bị thu hồi hoặc bị đặt dưới 
sự kiểm soát của Nhà nước trong 
trường hợp hoạt động của trường có 
vấn đề (Điều 84 đến 95).
Một điểm đặc biệt khác là tại 
Chương 9, các Điều 104-123 Luật 
GDĐH tư Thái Lan cũng quy định 
chi tiết các hình thức trừng phạt khi 
trường tư có vi phạm. Luật này cũng 
quy định chi tiết về tài sản và cách 
sử dụng tài sản, về việc lập Quỹ và 
phân phối nguồn thu cho các quỹ. 
Điều 66 quy định phần thặng dư 
được chia cho chủ trường không 
được quá 30%. Báo cáo tài chính 
thường niên phải được kiểm toán 
và sau khi được HĐQT chấp thuận, 
hiệu trưởng phải gửi báo cáo này 
cho Văn phòng Ủy ban GDĐH.
Một điểm đặc biệt cho thấy, Thái 
Lan đối xử với các trường tư giống 
như với các doanh nghiệp khi quy 
định về việc chuyển nhượng, thừa 
kế các quyền của người mở trường. 
Điều này không thấy ở trong các bộ 
luật liên quan của Trung Quốc, Đài 
Loan.
- Trường hợp Trung Quốc: Luật 
GDĐH ở Trung Quốc đề cập rất hạn 
chế về GDĐH tư. Tuy nhiên, nước 
này có Quy định về các trường xã 
hội hóa năm 1997 và Luật Khuyến 
khích GDĐH ngoài công lập (gồm 
10 chương, 68 điều), có hiệu lực từ 
ngày 1/9/2003, thay thế tất cả các 
văn bản trước đó về GDĐH ngoài 
công lập. Luật này quy định từ thủ 
tục thành lập, thay đổi và giải thể 
đến tổ chức và hoạt động, quản lý 
và giám sát, vấn đề tài sản, cũng 
như trách nhiệm pháp lý của GDĐH 
tư.
Điều 3 Luật này xác định, trường 
đại học tư là doanh nghiệp công lợi 
(public beneficiary enterprise - có 
nơi dịch là doanh nghiệp xã hội) 
và là một phần không thể tách rời 
của hệ thống giáo dục XHCN. Có 
thể do tính chất nhạy cảm của vấn 
đề tư nhân hóa giáo dục ở Trung 
Quốc, Luật không dùng từ “GDĐH 
tư” mà dùng từ “GDĐH ngoài công 
lập”. Tổ chức và cá nhân có thể 
xin thành lập trường, tiêu chuẩn 
và điều kiện mở trường cũng giống 
như đối với các trường công. Về mặt 
tổ chức, Luật quy định HĐQT gồm 
những người sáng lập, hiệu trưởng 
và đại diện giảng viên. Phải có 1/3 
số thành viên HĐQT có trên 5 năm 
kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy. 
HĐQT là bộ phận có quyền quyết 
định cao nhất trong trường, có 
quyền tuyển dụng và sa thải hiệu 
trưởng nhưng phải báo cáo cơ quan 
thẩm quyền để được chấp thuận.
Đối với vấn đề tài sản, Luật quy 
định trường ngoài công lập có quyền 
sở hữu doanh nghiệp đối với tài sản 
của trường, gồm tài sản do người 
sáng lập đóng góp, tài sản công, 
và tài sản do trường tích lũy được. 
Trường có toàn quyền sử dụng tài 
sản này. Luật Khuyến khích GDĐH 
ngoài công lập của Trung Quốc 
không quy định cụ thể như Thái Lan 
mà chỉ nêu học phí chủ yếu nên 
được dùng cho hoạt động giảng dạy, 
giáo dục và cải thiện điều kiện học 
tập. Tuy nhiên, Điều 38 bộ Luật này 
79
Soá 5 naêm 2018
KH&CN nước ngoài
có đề cập: Các trường nên có thông 
báo về báo cáo tài chính hàng năm; 
Điều 51 của Luật cho phép chi tiền 
lời cho những người sáng lập (được 
gọi là tiền thưởng) ở mức hợp lý sau 
khi đã phân bổ cho các quỹ đầu tư 
phát triển trường, nhưng không quy 
định rõ thế nào là “hợp lý” mà trao 
quyền đó cho Quốc vụ Viện quyết 
định cách tính cụ thể.
Luật Khuyến khích GDĐH ngoài 
công lập của Trung Quốc cũng quy 
định cụ thể về việc giám sát hoạt 
động của trường. Báo cáo tài chính 
hàng năm phải qua xem xét và 
được chấp thuận của cơ quan có 
thẩm quyền. Các quảng cáo tuyển 
sinh cũng phải nộp cho cấp có thẩm 
quyền để lưu. Tương tự như Thái 
Lan, Luật quy định rõ các hành vi bị 
cấm, chẳng hạn như quảng cáo sai 
sự thật, cấp bằng cho người không 
đi học, dùng giấy tờ giả... 
Chính sách hỗ trợ của nhà 
nước
Trong khi quy định khá ngặt 
nghèo về điều kiện mở trường cũng 
như kiểm soát chặt chẽ hoạt động 
của các trường tư, các nước/vùng 
lãnh thổ Đông Á đồng thời cũng có 
những quy định cụ thể về những hỗ 
trợ của nhà nước đối với loại hình 
trường đại học này. Luật Trường tư 
thục của Đài Loan quy định: Trong 
một số trường hợp cần thiết, Nhà 
nước cấp ngân sách cho trường tư, 
mức cấp phụ thuộc vào chất lượng 
hoạt động của nhà trường. Tài sản 
cho/tặng nhà trường được miễn 
thuế.
Chính phủ Thái Lan quy định, 
Nhà nước hỗ trợ trường tư thành lập 
các quỹ đầu tư phát triển, miễn thuế 
cho hàng hóa trang thiết bị dùng 
trong giảng dạy và nghiên cứu, hỗ 
trợ trong việc chia sẻ nguồn lực (thư 
viện, phòng thí nghiệm) giữa các 
trường công và tư.
Trung Quốc có lẽ là nước có 
nhiều chính sách ưu ái về tài chính 
cho đại học tư hơn cả. Luật Khuyến 
khích GDĐH ngoài công lập [2] 
quy định: Chính phủ cấp quận/
hạt (county) có thể thành lập các 
quỹ để bao cấp cho việc phát triển 
trường tư, ở cấp cao hơn có thể bao 
cấp trực tiếp cho các trường, cấp 
hoặc cho trường thuê các tài sản 
công đang bị bỏ không, hoặc cấp 
đất. Các trường tư cũng được ưu đãi 
về thuế, được nhận tài sản quyên 
tặng của cá nhân, tổ chức và doanh 
nghiệp theo các quy định của luật 
pháp. Thêm vào đó, Chính phủ còn 
khuyến khích các tổ chức tiền tệ 
cho trường tư vay để phát triển.
Vấn đề tự chủ 
Mặc dù thừa nhận sự cần thiết 
của GDĐH tư trong bối cảnh nguồn 
lực công không đủ để đáp ứng nhu 
cầu phát triển, chính phủ các nước 
Đông Á vẫn thiên về việc kiểm 
soát trách nhiệm giải trình của các 
trường. 
Các quy định nhằm kiểm soát 
trường tư là một vấn đề nhạy cảm 
mà các nhà làm chính sách luôn 
phải tìm kiếm một điểm cân bằng. 
Có một thực tế là những quy định 
quá chặt chẽ và chi tiết sẽ triệt tiêu 
năng lực sáng tạo và khả năng 
thích ứng của các trường với một 
thị trường đang thay đổi từng giờ. 
Ví dụ như, quy định về số lượng 
tiến sỹ cơ hữu để mở ngành, thoạt 
nghe có vẻ rất hợp lý, nhưng trong 
thực tế nó là rào cản không đáng 
có với những ngành như âm nhạc, 
nghệ thuật, thậm chí có thể không 
phù hợp với một định hướng mới có 
tính chất đổi mới, sáng tạo của nhà 
trường. Hay với một trường đại học 
xác định trọng tâm sứ mạng và nét 
khác biệt của mình là tập trung cho 
đào tạo khởi nghiệp thì số giờ giảng 
dạy kiến thức hàn lâm có thể giảm 
mạnh, thay vào đó là các giờ thảo 
luận nhóm, làm đề án, đi thực tế. 
Như vậy họ cần mời những nhân 
vật là doanh nhân, chính trị gia, 
viên chức chính phủ, lãnh đạo các 
tổ chức xã hội (rất có thể không có 
bằng tiến sỹ và không phải là người 
cơ hữu của nhà trường) tham gia 
giảng dạy. Vì thế, quy định cứng 
nhắc về bằng cấp giảng viên có thể 
sẽ xói mòn những sáng kiến và nỗ 
lực đổi mới vô cùng cần thiết cho 
các trường đại học nói chung, trong 
đó có các đại học khu vực tư.
Trở lại với các quy định tại các 
văn bản liên quan đến đại học tư 
của Trung Quốc, Đài Loan, Thái 
Lan... cho thấy các nhà làm luật đã 
tránh không đụng chạm vào chỗ dễ 
bị tổn thương nhất của các trường 
tư là quyền lựa chọn hiệu trưởng, 
số lượng tuyển sinh và học phí. Chỉ 
Đài Loan quy định trường tư không 
được vượt trần học phí do Nhà nước 
quy định và Chính phủ Trung Quốc 
thì vẫn nắm quyền chuẩn thuận 
hiệu trưởng.
So với trường đại học công thì 
mức độ tự chủ ở trường đại học tư 
thuộc các nước này rộng hơn, đặc 
biệt là trong vấn đề tuyển dụng 
nhân sự điều hành cấp cao của nhà 
trường. Trong cả 3 trường hợp, nhà 
nước đều bảo vệ các tiêu chuẩn 
học thuật ở trường tư, về cơ bản 
cũng giống như các yêu cầu đặt ra 
đối với trường công. Tiêu chuẩn đối 
với vị trí hiệu trưởng (trừ độ tuổi), 
giảng viên, chương trình đào tạo 
của trường công phần lớn cũng áp 
dụng cho các trường tư.
Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Trong thế kỷ trước, ở Việt Nam 
có lúc các trường tư khá phát triển 
ở phía Nam nhưng từ 1975-1990, 
không có trường tư nào hoạt động 
do ở ta không có chủ trương phát 
triển loại hình đại học này. Năm 
1989, trường đại học dân lập đầu 
tiên của nước ta được thành lập. 
Đến nay, các trường đại học tư 
ở Việt Nam phát triển rất nhanh, 
nhưng vẫn còn khiêm tốn trong 
tương quan với các nước trong khu 
vực Đông Á như đã được đề cập. 
80
Soá 5 naêm 2018
KH&CN nước ngoài
Quá trình phát triển GDĐH ở nước 
ta gần đây còn cho thấy, nhược 
điểm chính của các trường đại học 
công lập là thiếu động lực để đổi 
mới, trong khi đối với các đại học 
tư là tầm nhìn ngắn hạn - hệ quả 
của một chính sách còn bất cập, 
thể hiện nhận thức chưa đầy đủ về 
khả năng đóng góp của các đại học 
tư. Nếu nhược điểm này được khắc 
phục, chính khu vực đại học tư sẽ là 
khu vực có động lực mạnh mẽ hơn 
để cải thiện chất lượng vì họ phụ 
thuộc vào học phí để tồn tại, hay 
nói cách khác, chất lượng là lý do 
sống còn nên họ buộc phải đổi mới 
[9]. Vấn đề ở đây là cần tạo được 
một hành lang pháp lý đủ sức khích 
lệ các trường đại học tư phát triển 
một cách lành mạnh.
Đến nay, đại học tư đã được 
nhắc đến trong Luật Giáo dục, Luật 
GDĐH, Quy hoạch mạng lưới các 
trường đại học. Tuy nhiên, chúng ta 
chưa có một bộ luật dành riêng cho 
đại học tư. Qua phân tích về thực 
tiễn chính sách ở các quốc gia, 
đặc biệt là các nước/vùng lãnh thổ 
Đông Á với sự gần gũi, tương đồng 
về văn hóa, có thể rút ra những bài 
học sau:
Cần giữ sự kiểm soát của Nhà 
nước ở mức độ hợp lý
Áp lực đặt ra cho Nhà nước là 
kiểm soát trường tư nhằm bảo vệ 
lợi ích của người học và của xã hội. 
Nếu việc kiểm soát diễn ra quá ngặt 
nghèo và không hợp lý, nó có thể 
triệt tiêu sự năng động, sáng tạo và 
linh hoạt của các trường đại học tư 
trong việc đáp ứng nhu cầu thay đổi 
thường xuyên của thị trường. Ngược 
lại, việc kiểm soát quá lỏng sẽ có 
thể gây tổn hại tới lợi ích chung của 
xã hội. Bởi vậy, các nhà làm chính 
sách cần trả lời được hai câu hỏi: 
Kiểm soát cái gì và đến mức độ nào 
để cân bằng giữa hai động lực trái 
ngược vừa nêu.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, 
các quy định luật pháp cần thông 
thoáng và hợp lý. Có như vậy mới 
giữ một mức độ tự chủ khá đáng kể 
cho trường đại học tư, đồng thời vẫn 
tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm 
giải trình của họ. Chẳng hạn nên 
quy định trong các văn bản pháp 
luật liên quan những vi phạm nào 
là không được chấp nhận và có thể 
dẫn tới thu hồi giấy phép, ví dụ như 
vi phạm về quảng cáo không đúng 
sự thực. Một điểm đáng lưu ý khác 
là, cần tách biệt vai trò của HĐQT 
(giữ quyền sở hữu, quyền quyết 
định cao nhất về những vấn đề lớn, 
quyền tuyển dụng và được quyền 
sa thải hiệu trưởng) với vai trò của 
hiệu trưởng (điều hành công việc). 
Có thể cần phải cân nhắc việc 
không khuyến khích HĐQT kiêm 
nhiệm chức vụ hiệu trưởng. Việc 
tách rời hai lực lượng này nhằm bảo 
toàn sự cân bằng cần thiết cho việc 
bảo đảm chất lượng học thuật và 
xây dựng một mô hình quản trị lành 
mạnh.
Quan điểm về tài chính, tài 
sản, sở hữu, vấn đề vì lợi nhuận 
và không vì lợi nhuận
Thời gian qua, vấn đề vì lợi 
nhuận/không vì lợi nhuận tại Việt 
Nam đã bị đẩy lên căng thẳng quá 
mức mà kết quả là không ai được 
lợi gì, cả Nhà nước, nhân dân, lẫn 
các bên liên quan. Không phải 
ngẫu nhiên mà một số nước/vùng 
lãnh thổ Đông Á trên đây (có thể kể 
thêm một số trường hợp khác nữa, 
như Malaysia, Nga, Kazakhstan...) 
đã không quy định rõ hai loại hình 
vì lợi nhuận/không vì lợi nhuận, mặc 
dù giới hàn lâm không ngừng cảnh 
báo là các trường vì lợi nhuận hoạt 
động theo mô hình doanh nghiệp 
(sinh viên là khách hàng, quyền 
lực cao nhất nằm trong tay HĐQT 
và giới quản lý điều hành cấp cao, 
trong khi giới học thuật không có 
tiếng nói đáng kể) sẽ làm tổn hại 
đến các tiêu chuẩn học thuật của 
trường đại học.
Tóm lại, về nhiều mặt, trường 
đại học hiện đã khác rất nhiều 
so với các trường đại học truyền 
thống. Đó là một tổ chức có nhiều 
bên liên quan, nên mọi vấn đề đều 
cần phải được nhìn từ nhiều phía và 
lập trường hay quan điểm của tất 
cả các bên đều cần được cân nhắc 
trong quá trình xây dựng chính 
sách. Vì thế, vai trò của người làm 
chính sách chính là tìm được một 
điểm hài hòa cao nhất của các bên 
nhằm đạt được lợi ích tốt nhất cho 
xã hội ?
TÀI LIỆU THAM KHảO
[1] Vụ Pháp chế - Bộ Giáo dục và Đào tạo 
(2005), Hệ thống giáo dục và luật giáo dục một 
số nước trên thế giới, Nhà xuất bản Giáo dục.
[2] Luật Khuyến khích GDĐH ngoài công 
lập ở Trung Quốc, 
cache/0700501_China-HE-Promotion-Law-
English-translation.pdf
[3] Luật GDĐH Malaysia, 
gov.my/agcportal/uploads/files/Publications/
LOM/EN/Act%20550.pdf
[4] Luật GDĐH Thái Lan, 
thailawforum.com/database1/Thailand-Private-
University.html
[5] Daniel Levy (Phạm Thị Ly dịch) (2015), 
Giáo dục đại học tư ở Đông Á, Nhà xuất Đại học 
Quốc gia Hà Nội.
[6] Government Accountability Office 
report (2010), https://www.documentcloud.org/
documents/1672463-aug-2010-gao-report.html
[7] Luật GDĐH Philippines, 
ched.gov.ph/wp-content/uploads/2013/05/
Manual-of-Regulations-for-Private-Higher-
Education.pdf
[8] Thủ tướng Chính phủ (2007), Quy hoạch 
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai 
đoạn 2006-2020.
[9] Đàm Quang Minh, Phạm Thị Ly (2014), 
“Giáo dục ngoài công lập ở Việt Nam”, Hội thảo 
cải cách GDĐH (VED 2014), https://hocthenao.
vn/2014/09/12/giao-duc-ngoai-cong-lap-o-viet-
nam-dam-quang-minh-pham-thi-ly/.

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_quoc_te_trong_xay_dung_chinh_sach_doi_voi_dai_ho.pdf