Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Nam từ năm 1919 đến năm 1945 - Thực tiễn lịch sử và những bài học kinh nghiệm
Tóm tắt: Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường đầu tư vào
Việt Nam, tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai. Sự thay đổi trong chính sách nông
nghiệp của chính quyền thuộc địa đã làm cho kinh tế nông nghiệp ở Hà Nam có nhiều
chuyển biến. Diện tích, sản lượng, năng suất, các loại cây trồng; số lượng, chất lượng vật
nuôi tăng cao. Sản phẩm nông nghiệp ngày càng có giá trị hơn do được xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài. Xuất hiện các mô hình chuyên canh và đa canh trong sản xuất nông
nghiệp, điển hình là các đồn điền trồng cà phê và chăn nuôi gia súc của người Pháp.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới sản xuất nông
nghiệp trong tỉnh. Quy mô, số lượng, diện tích các loại cây trồng, vật nuôi đều giảm.
Thực trạng sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam từ năm 1919 đến năm 1945 cho chúng ta
nhiều bài học quý về: Cơ chế quản lý của chính quyền; yếu tố kĩ thuật, vốn, thị trường;
phân phối sản phẩm lao động.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Nam từ năm 1919 đến năm 1945 - Thực tiễn lịch sử và những bài học kinh nghiệm
176 TRNG I HC TH H NI KINH T+ NNG NGHIOP TmNH H, NAM T N M 1919 +N N M 1945- THTC TI#N LZCH SQ V, NH[NG B,I HPC KINH NGHIOM Mai Thị Tuyết Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam, tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai. Sự thay đổi trong chính sách nông nghiệp của chính quyền thuộc địa đã làm cho kinh tế nông nghiệp ở Hà Nam có nhiều chuyển biến. Diện tích, sản lượng, năng suất, các loại cây trồng; số lượng, chất lượng vật nuôi tăng cao. Sản phẩm nông nghiệp ngày càng có giá trị hơn do được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Xuất hiện các mô hình chuyên canh và đa canh trong sản xuất nông nghiệp, điển hình là các đồn điền trồng cà phê và chăn nuôi gia súc của người Pháp. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới sản xuất nông nghiệp trong tỉnh. Quy mô, số lượng, diện tích các loại cây trồng, vật nuôi đều giảm. Thực trạng sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam từ năm 1919 đến năm 1945 cho chúng ta nhiều bài học quý về: Cơ chế quản lý của chính quyền; yếu tố kĩ thuật, vốn, thị trường; phân phối sản phẩm lao động. Từ khoá: Nông nghiệp, tỉnh Hà Nam, Pháp thuộc Nhận bài ngày 16.7.2017; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.10.2017 Liên hệ tác giả: Mai Thị Tuyết; Email: tuyetmai4589@gmail.com 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hà Nam là một tỉnh nhỏ, nhưng có vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ngõ phía Nam của Hà Nội và nằm ở trung tâm của châu thổ sông Hồng. Vì vậy, Hà Nam là một tỉnh ở Bắc kì bị thực dân Pháp đánh chiếm và đi vào khai thác từ khá sớm. Sự điều chỉnh chính sách khai thác của thực dân Pháp ở Đông Dương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho kinh tế nông nghiệp tỉnh Hà Nam, cũng như cả nước có nhiều thay đổi Nghiên cứu kinh tế nông nghiệp Hà Nam thời kì này sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ một số vấn đề của lịch sử kinh tế như: có hay không có sự chuyển biến về kinh tế- xã hội thời Pháp thuộc; vai trò của nhà nước thực dân và khoa học kĩ thuật đối với sự chuyển biến ấy; những tác động của nông nghiệp tới đời sống kinh tế- xã hội. Từ đó, tổng kết những bài học kinh TP CH KHOA HC − S 19/2017 177 nghiệm, vận dụng vào công tác quản lí, chỉ đạo, tổ chức sản xuất, đồng thời nâng cao ý thức phát huy truyền thống lao động của người dân nhằm thúc đẩy ngành kinh tế nông nghiệp Hà Nam nói riêng, cả nước nói chung hiện nay phát triển. 2. NỘI DUNG 2.1. Chính sách nông nghiệp của thực dân Pháp sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 2.1.1. Tăng cường đầu tư khai thác nông nghiệp Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp cũng là nước tham chiến. Mặc dù thắng trận, nhưng Pháp bị tổn thất nặng nề về nhiều mặt, trong đó có kinh tế, tài chính. Để bù đắp cho những thiệt hại đó, thực dân Pháp đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Lĩnh vực trồng trọt được được ưu tiên đầu tư (từ vị trí thứ tư năm 1918 chuyển lên vị trí thứ nhất ở thời điểm này) [23, tr.18- 21]. Số vốn đầu tư của các nhà tư bản Pháp vào nông nghiệp Đông Dương không ngừng tăng qua các năm, Jean Pierre Aumiphin nhận định: “Hình như từ 1924 – 1939, nghĩa là trong 15 năm, khối lượng vốn đầu tư tư nhân Pháp đạt gần gấp đôi so với thời gian từ 1888 – 1923, tức là trên 30 năm” [5, tr.49]. 2.1.2. Xây dựng hệ thống ngân hàng hỗ trợ kinh tế nông nghiệp Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp đầu tư mạnh hơn vào nông nghiệp, quan hệ hàng hoá - tiền tệ ngày càng thâm nhập vào nông thôn. Năm 1926, Toàn quyền Đông Dương đã ký hai nghị định cho ra đời hệ thống tín dụng nông nghiệp lấy tên là Bình dân nông phố ngân hàng (Crédit populaire agricole), viết tắt là CPA. Hệ thống CPA nhanh chóng được mở rộng ra khắp Bắc Kỳ và Trung Kỳ, trong đó có Hà Nam. 2.1.3. Tăng cường, phát triển hệ thống thuỷ nông Hà Nam ở vùng đất trũng, không gần biển, hệ thống sông ngòi khá dày nên thường xuyên bị úng lụt. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính quyền thuộc địa đã cho xây dựng một số công trình thủy nông nhằm cải thiện tình hình tưới tiêu ở đây. Tuy nhiên, do trình độ kĩ thuật thấp kém, đầu tư ít nên không mấy hiệu quả. Đây cũng là tình trạng chung tại các tỉnh BK. Chính vì vậy, cùng với chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, thực dân Pháp tăng cường hơn công tác thủy lợi trên phạm vi cả nước. Ở Bắc Kỳ, cũng như Hà Nam, chính quyền tập trung vào việc thực hiện kế hoạch đắp đê sông Hồng; sông Đáy, sông Thái Bình, điển hình là Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông Hồng (năm 1926). 178 TRNG I HC TH H NI Công trình thủy nông quy mô nhất của Hà Nam thời kỳ này là Hệ thống thủy nông sông Nhuệ, xây dựng trong giai đoạn 1932 đến 1940. Hệ thống này gồm có cống Liên Mạc lấy nước từ sông Hồng, lợi dụng sông Nhuệ để làm kênh chính và cống Phủ Lý, cùng hệ thống trạm bơm trong toàn tỉnh Hà Nam, Sơn Tây. Nhiệm vụ của hệ thống là lấy nước tưới cho khu vực 110.000 ha [6, tr.231]. Như vậy, so với trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở giai đoạn này, thực dân Pháp đã chú ý hơn và đầu tư có quy mô vào hệ thống thủy nông ở Hà Nam. Tuy vậy, cho tới năm 1945, nhiều hạng mục của một số công trình vẫn còn dang dở. 2.1.4. Các chính sách khuyến nông Khuyến khích mở rộng kinh tế đồn điền Sau năm 1919, chính quyền thực dân ban hành một loạt các văn bản kích thích sự phát triển của kinh tế đồn điền. Nghị định ngày 13/11/1925 tạo điều kiện về pháp lý cho nông dân các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nam lập các đồn điền nhỏ (5 ha) tại các tỉnh trung du và miền núi. Ngày 19/9/1926, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bổ sung những bất cập của nghị định ngày 27/12/1913. Theo đó, nhiều điều khoản khuyến khích lập đồn điền được ban hành, điển hình: đồn điền dưới 300 ha có thể được cấp phát không, không phải trả tiền. Ngày 4/11/1928 ban hành sắc luật cho phép Toàn quyền Đông Dương được quyền cấp phát đồn điền có diện tích (DT) dưới 4000 ha [7, tr.110]. Như vậy, từ việc cho phép người bản xứ được nhận cấp phát đồn điền với DT đối đa không quá 5 ha (Nghị định năm 1888), sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nghị định đã nới lỏng, tạo điều kiện hơn cho người bản xứ. Cho vay vốn Ngân hàng nông nghiệp Hà Nam ra đời từ ngày 10/11/1931 và đi vào hoạt động. Tới những năm 40, số người được vay và số tiền cho vay có xu hướng tăng lên từng tháng: Tháng 8/1941: 92 người vay; 9/1941: 124 người; 10/1941: 138 người... [21, tr.151]. Không chỉ hỗ trợ vay vốn, Cục khuyến nông các tỉnh, trong đó có Hà Nam còn hỗ trợ người nông dân về giống và mua chịu phân bón. Điển hình từ năm 1938 đến năm 1941, chính quyền thuộc địa ở các tỉnh đều có chính sách cho người nông dân vay hạt ngô giống để trồng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nông nghiệp còn bán chịu phân bón (tức là vay tiền ngân hàng để mua phân bón) cho người sản xuất nông nghiệp. Tài liệu đương thời có ghi: “Nông dân ta ai cũng biết rằng, cấy cày, trồng trọt có bón phân sẽ lợi lớn. Nhưng mà nhiều khi không có tiền mua dùng. Bởi thế, nên nhà nước đã định rằng, hễ ai không có tiền mua phân bón hiệu Con Cá thì các nhà Nông phố ngân hàng bán chịu cho, để ai cũng có thể mua được về bón cho cây trồng để cho hoa lợi được nhiều” [24, tr.19]. TP CH KHOA HC − S 19/2017 179 2.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp 2.2.1. Ngành trồng trọt Trồng lúa Lúa luôn là cây trồng chính của ngành trồng trọt ở Hà Nam: “Đất Hà Nam phần nhiều là đất phù sa, cây lúa tốt lắm, nhưng phải mấy nơi như huyện Duy Tiên và một phần Phủ Lý và huyện Kim Bảng thường phải lụt, nên dân chỉ cấy được vụ chiêm thôi. Đất ruộng kể gần được nửa diện tích toàn tỉnh, nhưng thấp và ngập nhiều, cho nên từ tháng 5 đến tháng 8 dân sự phần nhiều đi chài lưới” [8, tr.43]. Dưới tác động của chính sách kinh tế nông nghiệp của chính quyền thực dân sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nghề trồng lúa ở Hà Nam có nhiều biến chuyển. DT, sản lượng (SL), năng suất (NS), giá trị (GT) không ngừng thay đổi. Tuy nhiên, ở Hà Nam, về cơ bản chỉ trồng được vụ tháng 5. Từ tháng 7 trở đi, hầu hết các cánh đồng trong tỉnh bị ngập chìm trong nước. Chính vì vậy, DT trồng lúa vụ tháng 10 ở Hà Nam qua các năm không đáng kể. Sách Địa dư huyện Bình lục phản ánh tình trạng này vào năm 1934 như sau: “Về vụ tháng Mười thì nhiều ruộng bị úng thủy, năm nào mưa ít nước nhỏ thì cấy chín ba được ngót một phần lúa mùa. Từ ngày lấp sông Châu giang ở Vĩnh Trụ và Phương Trà, không cho nước chảy ra sông Cái, tức sông Hồng Hà, nước mưa đầy đồng, không tiêu thoát được, nên nhiều ruộng để đồng trắng nước trong... Hiện năm 1934, mưa nhiều, nước trong đồng to, nên mất 7000 mẫu mùa” [9, tr.10]. Diễn biến của DT trồng lúa những năm 30 được thể hiện trong bảng dưới đây: Bảng 1. Diện tích lúa cả năm ở Hà Nam năm 1921 và các năm từ 1934 đến 1940 TT Năm Diện tích (ha) 1 1921 55.409 2 1934 51.316 3 1935 64.694 4 1936 60.654 5 1937 44.563 6 1938 65435 7 1939 63.571 8 1940 44.243 Nguồn: [15, tr.30]; [16]; [17, tr.20]; [18] 180 TRNG I HC TH H NI Như vậy, so với thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, DT lúa của Hà Nam đã tăng lên đáng kể. Năm 1921 tăng thêm 5.056 ha so với năm 1918. Nếu so với năm 1897 (khi thực dân Pháp bắt đầu khai thác kinh tế nông nghiệp ở Hà Nam), DT trồng lúa tăng lên nhiều lần (năm 1897, DT lúa là 8.595 ha) [1]. Tức là, DT lúa năm 1921 tăng lên khoảng gấp 6 lần so với năm 1897. Kết quả này, một phần có sự tác động lớn từ chính sách kinh tế nông nghiệp, nhất là chính sách đầu tư và khuyến nông của chính quyền thực dân sau năm 1919. Trồng ngô Giống như nhiều tỉnh ở Việt Nam nói chung, Bắc Kỳ nói riêng, trước năm 1919, chính quyền thực dân chưa thực sự quan tâm, đầu tư phát triển cây ngô. Vì vậy, DT trồng ngô nhỏ và thường xuyên sụt giảm, hoặc có tăng cũng không đáng kể. Sau năm 1919, DT, SL, NS, GT của ngô được phục hồi và tăng qua các năm. Hà Nam thường xếp thứ 8 hoặc thứ 9 trên tổng số 23 tỉnh ở Bắc kì [20]. Không chỉ khôi phục và mở rộng về mặt DT (tính từ năm 1930), SL và NS ngô cũng tăng lên đáng kể. Đúng như nhận định của P.Gourou: “Từ khi các nhà xuất cảng chú ý đến cây có hạt này vì có thị trường tiêu thụ rộng rãi ở Pháp thì mới được phát triển rộng rãi Trước tình trạng không thể bán gạo Bắc Kỳ ra ngoài được, vì mặc dù giá có tụt xuống nó vẫn còn đắt hơn so với giá Hồng Kông, nhà cầm quyền đã thúc đẩy nông dân trồng ngô mà họ có thể bán được 3 - 4 đồng một tạ cho nhà xuất cảng, trong khi họ chỉ có thể bán 1 tạ thóc chưa được 2 đồng. Nhiều ruộng dâu đã bị nhổ đi thay thế bằng cánh đồng trồng ngô” [19, tr.23]. Tuy nhiên, dù diện tích trồng ngô có tăng, song ngô vẫn chỉ là loại cây trồng thứ hai đứng sau cây lúa. Các cây lương thực, thực phẩm khác Theo khảo sát của chính quyền thực dân, ngoài cây lúa và ngô, thời kỳ này, người dân Hà Nam còn trồng các loại cây lương thực, thực phẩm khác như hành, tía tô, rau riếp, mướp tàu, mướp ta, rau cải ta, dưa hấu, rau răm, cà chua ta, củ nghệ, củ gừng, ớt, tía tô, mùi, cây thìa là, kinh giới, đậu đen, đậu đỏ, đậu trắng, đậu nhự, đậu ván trắng, đậu trứng quốc, đậu đen xanh lòng, đậu xanh lòng, ngô nếp, ngô tẻ, ngô tía, kê đỏ, kê vàng, rau muống, đậu tương, củ đậu, củ từ trắng, củ cải trắng, củ cải đỏ, củ sắn tầu, khoai tây trắng, khoa tây đỏ, khoai tây vàng, khoai tây nghệ, khoai lang, khoai môn, khoai nước trắng, khoai nước đỏ, khoai sọ, khoai sáp, tỏi ta, rau dền, cà bát, cà pháo, cà tứ thời... [2]. Cây công nghiệp Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhiều cây công nghiệp đã được trồng ở Hà Nam như: trầu không, mía, chè. Điển hình nhất là cây cà phê. Ban đầu chỉ có 300 gốc trồng thử nghiệm ở một số diện tích nhất định tại Kẻ Sở, sau đó Guillaume và Borel và mở rộng diện tích lên đến 1530 ha vào năm 1896 (trong vòng 9 năm). DT này được duy trì ổn định TP CH KHOA HC − S 19/2017 181 cho tới những năm 1915 - 1918 [3, tr.6]. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933), tình hình sản xuất cà phê ở Hà Nam bị ảnh hưởng đáng kể, DT và SL bị sụt giảm nhanh chóng. Năm 1930, SL giảm xuống còn 169 tấn; năm 1931: 81,9 tấn [11, tr.4], DT năm 1932 chỉ còn 700 ha [19, tr.23]. DT, SL tiếp tục giảm vào năm 1933 [12, tr.4]. Những năm tiếp theo, DT và SL cà phê lên xuống thất thường và duy trì ở con số không cao. Bảng 2. Diện tích, sản lượng cà phê ở Hà Nam qua các năm từ 1934 đến 1940 TT Năm DT (ha) SL (tấn) 1 1934 696 103 2 1935 440 91,98 3 1936 727 54 4 1938 394 5 1940 702 143 Nguồn: [13, tr.27]; [14, tr.25]; [15, tr.29]; [16, tr.30]; [18, tr.53] Nhìn vào số liệu trên, chúng ta thấy rõ sự biến động về DT trồng cà phê ở Hà Nam qua các năm; đồng thời, SL một số năm không cân xứng với DT. Đơn cử như năm 1935, DT là 440 ha, đạt trên 91 tấn, nhưng năm 1936, DT cao gần gấp đôi năm 1935, tuy nhiên, SL chỉ đạt hơn một nửa SL của năm 1935. Điều đó chứng tỏ tình hình sản xuất cà phê ở Hà Nam gặp không ít khó khăn trong thời điểm này. Mặc dù vậy, sự tồn tại của vùng chuyên canh cây cà phê ở Hà Nam trong một thời gian tương đối dài, với một DT khá lớn; đồng thời, sản xuất hiệu quả suốt từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1918 và duy trì ở một số năm tiếp theo, chứng tỏ sự thích nghi của cây cà phê với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở Hà Nam. 2.2.2. Ngành chăn nuôi Chăn nuôi gia súc Đây là nghề phổ biến, quan trọng của các gia đình nông dân Việt Nam từ trước đến nay. Thời gian này, gia súc được nuôi nhiều ở Hà Nam là lợn, trâu, bò. Hà Nam là một trong số các tỉnh phía Bắc có số lượng trâu, bò nhiều nhất. Tính đến năm 1930, tổng số trâu bò ở Hà Nam là 11.527 con. Trong đó bao gồm: 4650 con bò và 6.877 con trâu [22, tr.223]. GT vật nuôi không ngừng tăng cao, nhất là khi có chính sách xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Sự gia tăng về số lượng trâu bò ở Hà Nam sau năm 1919, bắt nguồn chủ yếu từ các đồn điền ở Hà Nam, với mục đích để xuất khẩu. 182 TRNG I HC TH H NI Ngoài trâu, bò, thời kỳ này ở Hà Nam còn nuôi các loại gia súc khác như lợn, dê, cừu... Lợn là một trong những vật nuôi truyền thống và phổ biến ở các địa phương của Việt Nam. “Hầu như nhà nào cũng có chuồng lợn. Thịt lợn và mỡ lợn giữ vai trò quan trọng trong thực phẩm của nông dân; phụ nữ đi chợ về bao giờ cũng mang về miếng thịt lợn. Có thể tính mỗi nhà ít ra có một con lợn và không phải là quá đáng nếu tính tổng số lượng lợn ở châu thổ lên tới một triệu con” [10, tr.389]. Chăn nuôi gia cầm. Gà, vịt là loại gia cầm truyền thống phổ biến ở tỉnh. Hầu như gia đình nào cũng nuôi gà. Bên cạnh giống gà cũ, người dân bắt đầu nhập một số giống gà mới về nuôi như gà Tây, gà Sao. Vịt ở đây không được nuôi nhiều bằng gà, nơi nuôi nhiều vịt nhất ở Bắc Kỳ (năm 1909) là tỉnh Thái Bình và Hưng Yên [4, tr.28]. Tính đến năm 1932, tổng số gia cầm được nuôi ở Hà Nam lên đến 410.908 con [12, tr.19]. Như vậy, dưới chính sách khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân, từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhiều nhân tố của quan hệ sản xuất mới đã được thâm nhập vào kinh tế nông nghiệp Hà Nam, đưa đến những chuyển biến nhất định cả về cơ cấu kinh tế, diện tích, sản lượng, năng suất Tuy nhiên, do sự nhất quán trong chiến lược cai trị hòng biến thuộc địa thành nơi cung cấp và tiêu thụ, cho nên đời sống của người dân tỉnh Hà Nam vẫn vô cùng thống khổ. Đó là nguyên nhân dẫn tới phong trào đấu tranh chống thực dân diễn ra ngày càng mạnh mẽ. 2.3. Một số kinh nghiệm lịch sử rút ra từ việc nghiên cứu kinh tế nông nghiệp Hà Nam từ năm 1919 đến 1945 − Chính sách kinh tế vĩ mô của chính quyền có sự tác động lớn tới tình hình sản xuất nông nghiệp. Nhìn từ góc độ kinh tế thuần túy, bỏ qua yếu tố chính trị, rõ ràng chúng ta thấy được những tích cực từ chính sách cho vay vốn, cải tiến kĩ thuật sản xuất và các chính sách khuyến nông đã làm cho DT, SL, NS, GT của các loại cây trồng và số lượng, chất lượng của gia súc, gia cầm ở Hà Nam tăng lên đáng kể trong một thời gian dài, nhất là giai đoạn sau năm 1919 (khi thực dân Pháp đầu tư, tác động mạnh mẽ hơn vào kinh tế nông nghiệp). − Yếu tố kĩ thuật, thủy lợi, sau là vốn mang tính chất quyết định trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Thời Nguyễn, đê ở Hà Nam cũng như Bắc Kỳ liên tục bị vỡ, hệ thống thủy nông nội đồng đơn giản, sơ sài. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp thường xuyên bị mất mùa, DT đất canh tác eo hẹp (chỉ sản xuất được một vụ). Tuy nhiên, quá trình thực dân Pháp gia cố, đắp mới hệ thống đê (điển hình là đê sông Hồng, sông Nhuệ), đến năm 1929, về cơ bản ở Hà Nam ít xảy ra vỡ đê; cùng với đó, nhiều công trình thủy nông được xây dựng, điển hình là hệ thống thủy nông sông Nhuệ đã góp phần quan trọng làm cho DT canh tác ngày càng mở rộng. SL, NS, GT một số loại cây trồng, điển hình là lúa, ngô TP CH KHOA HC − S 19/2017 183 không ngừng tăng lên. Để thực hiện được các công trình kĩ thuật đó phải có tài chính. Hơn nữa, các chủ sở hữu lớn ở Hà Nam muốn mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao NS, GT cũng cần nguồn vốn. Muốn áp dụng giống cây trồng, vật nuôi mới, tốt hơn cũng phải có nguồn tài chính hậu thuẫn. Việc ra đời của ngân hàng nông nghiệp Hà Nam vừa thực hiện mục đích thương mại của chính quyền thực dân, đồng thời cũng nhằm ứng nhu cầu thực tiễn ấy. − Yếu tố thị trường tác động mạnh mẽ đến sản lượng, số lượng, năng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp. Năm 1906, chính quyền thực dân bắt đầu thực hiện chủ trương xuất khẩu các mặt hàng nông sản ra nước ngoài, do vậy, giá sản phẩm một số mặt hàng tăng cao, kích thích hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam phát triển. Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 -1933), nhu cầu của thị trường nước ngoài giảm mạnh, giá cả các mặt hàng trong nước, cũng như ở Hà Nam sụt giảm. Hoạt động sản xuất nông nghiệp có chiều hướng trầm lắng và đi xuống. Diện tích cây trồng (điển hình là cà phê), số lượng vật nuôi (điển hình là trâu, bò) thu hẹp và giảm mạnh. − Để tạo dựng địa bàn nông thôn ổn định và phát triển một nền nông nghiệp bền vững, thì các nguồn lợi từ sản xuất nông nghiệp cần hướng tới phục vụ trước hết cho người nông dân. Về cơ bản, từ năm 1919 đến năm 1945, mọi GT từ sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam nói riêng, Việt Nam nói chung đều bị thực dân Pháp tước đoạt, mặc dù có sự phát triển trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, những bất công đó đã làm nảy sinh mâu thuẫn xã hội và ngày càng được đẩy lên cao theo thời gian, nhất là khi sự tước đoạt ngày càng tàn bạo, tất yếu sẽ làm bùng nổ các cuộc đấu tranh, phản kháng của giai cấp nông dân. 3. KẾT LUẬN Sau năm 1919, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam. Nông nghiệp, nhất là trồng trọt được các nhà tư bản Pháp quan tâm hàng đầu. Số vốn đầu tư vào Đông Dương cũng như Việt Nam không ngừng tăng lên. Các biện pháp về kĩ thuật sản xuất nông nghiệp được quan tâm hơn. Các chính sách khuyến nông cũng được chính quyền thực dân đẩy mạnh. Sự độc canh cây lúa bị phá vỡ. Các mô hình chuyên canh và đa canh xuất hiện, điển hình mô hình này là các đồn điền của người Pháp. Bên cạnh các cây trồng, vật nuôi truyền thống cho giá trị cao, các điền chủ và người dân đã áp dụng sản xuất các giống cây trồng và vật nuôi mới, bước đầu thu được kết quả tốt như cà phê, lợn, bò, dê, cừu Hệ thống thủy nông nội đồng được cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới. Giống cây trồng, vật nuôi được tuyển lựa. Nhờ đó, DT, SL, NS cây trồng, điển hình là lúa và vật nuôi có sự chuyển biến theo hướng tích cực. Tuy nhiên, đời sống (vật chất, tinh thần) của người dân lại không được cải thiện, thậm chí ngày càng bi đát hơn. Nguyên nhân cơ bản là do mọi nguồn lợi từ sản xuất nông nghiệp đều rơi vào tay kẻ thống trị và tay sai của chúng. 184 TRNG I HC TH H NI TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AFC, No302 Rapports des Residents de Hanam, Haiphong sur les superficies de culture de riz et production de riz de ces provinces en 1897, TTLT I, Hà Nội. 2. AFC, No52 Enquete de la Direction de L’Agriculture, des Forets et du Commerce de L’Indochine sur la culture agricole dans les provinces du Tonkin 1898-1908, TTLT I, Hà Nội. 3. DAT, No50 Statistique des cultures de Hanam du Service local de l’ Agriculture du Tonkin de 1915 à 1918, TTLT I, Hà Nội. 4. Dauphinot G, Le Tonkin en 1909, Imprierie D’extreme-orient, Lưu trữ tại Thư viện Quốc gia. 5. Aumiphin J (1994), Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939) (Đinh Xuân Lâm, Ngô Thị Chính, Hồ Song, Phạm Quang Trung dịch), - Nxb Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội. 6. Phan Khánh (1981), Sơ thảo Lịch sử thủy lợi Việt Nam, tập 1, - Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 7. Dương Văn Khoa (2012), Nông nghiệp tỉnh Nam Định (1884-1945), Luận án tiến sĩ Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 8. Ngô Vi Liễn, Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thư (1930), Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, - Nxb Lê Văn Tân, Hà Nội. 9. Ngô Vi Liễn (1935), Địa dư huyện Bình Lục, Nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội. 10. Gourou P (1936), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, tài liệu dịch, - Nxb Nghệ thuật, Pari. 11. RST, No74268 Rapport écono de l’annee 1933 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 12. RST, No74269 Rapport écono de l’annee 1934 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 13. RST, No74270 Rapport écono de l’annee 1934 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 14. RST, No74271 Rapport écono de l’annee 1935 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 15. RST, No74273 Rapport écono de l’annee 1936 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 16. RST, No74275 Rapport écono de l’annee 1938 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 17. RST, No74276 Rapport écono de l’annee 1939 de la province de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 18. RST, No74277 Rapport écono de l’annee 1940 de Hanam, TTLT I, Hà Nội. 19. Residence de Ha Nam (1933), Monographie de la province de Ha Nam, Pierre Pasquier, lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. 20. RST, No075239-02, Rapports Ðconomiques sur la situation agricole du Tonkin de 1941, TTLT I, Hà Nội. 21. RST, No075371, Releves des depenses des Caisses provinciales de Credit agricole de Bac Giang, Bac Ninh, Ha Dong, Ha Nam en 1941, TTLT I, Hà Nội 22. Henry Y (1932), Kinh tế nông nghiệp Đông Dương (Hoàng Đình Bình dịch), lưu trữ tại thư viện Khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn. 23. Phạm Quang Trung (1993), Vấn đề tín dụng nông nghiệp ở nước ta dưới thời Pháp thuộc, Luận án Phó Tiến sỹ lịch sử, Hà Nội. 24. Phân bón lúa cùng các thứ cây và hoa màu khác ở Bắc Kỳ, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, 1931. TP CH KHOA HC − S 19/2017 185 HA NAM'S AGRICULTURAL ECONOMY FROM 1919 TO 1945 - HISTORICAL REALITY AND EXPERIENCED LESSON Abstract: After the First World War, the French colonialists intensified their investment in Vietnam, carrying out colonization for the second time. The change in the agricultural policy of the colonial government had changed the agricultural economy in Ha Nam. Area, yield, productivity, crops; the quantity and quality of animals increased. Agricultural products were becoming more and more valuable as they are exported to foreign markets. There was the appearance of specialized and multi-cultivation models in agriculture, typically French coffee plantations and cattle herds. The world economic crisis (1929-1933) had a profound effecting on agricultural production in the province. The scale, quantity, area of crops and livestock decreased. The actual situation (of agricultural production in Ha Nam from 1919 to 1945 showed us valuable lessons on: government management; technology, capital, and market factors; distribution of labor products. Keywords: Agriculture, Ha Nam province, French domination
File đính kèm:
- kinh_te_nong_nghiep_tinh_ha_nam_tu_nam_1919_den_nam_1945_thu.pdf