Mối quan hệ đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong điều hành chính sách tiền tệ
Tóm tắt
Nghiên cứu này điều tra thực nghiệm mối quan hệ đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm
phát trong thực thi chính sách tiền tệ bằng cách xem xét mối quan hệ của phương sai có điều kiện
của hai biến trong một khung phân tích GARCH-BEKK đa chiều. Sử dụng dữ liệu trong giai đoạn
1959 – 2017 ở Anh, chúng tôi tìm thấy bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ mối quan hệ đánh đổi mà cơ
quan tiền tệ phải đối mặt giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu.
Điều này gợi ý về một “lựa chọn chính sách” thay thế lý thuyết đường cong Phillips trong điều hành
chính sách tiền tệ ở các quốc gia.
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong điều hành chính sách tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong điều hành chính sách tiền tệ
1Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 __________________________________________ 1 Trường Đại học Tài chính – Marketing, Email: holam@ufm.edu.vn 2 Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Email: thotcdn@ueh.edu.vn MỐI QUAN HỆ ĐÁNH ĐỔI GIỮA ỔN ĐỊNH SẢN LƯỢNG VÀ ỔN ĐỊNH LẠM PHÁT TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THE INFLATION–OUTPUT STABILITY TRADE-OFF AND MONETARY POLICY Hồ Thị Lam1 Trần Ngọc Thơ2 Ngày nhận bài: 30/11/2018 Ngày chấp nhận đăng: 04/01/2019 Ngày đăng: 05/4/2019 Tóm tắt Nghiên cứu này điều tra thực nghiệm mối quan hệ đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong thực thi chính sách tiền tệ bằng cách xem xét mối quan hệ của phương sai có điều kiện của hai biến trong một khung phân tích GARCH-BEKK đa chiều. Sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 1959 – 2017 ở Anh, chúng tôi tìm thấy bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ mối quan hệ đánh đổi mà cơ quan tiền tệ phải đối mặt giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu. Điều này gợi ý về một “lựa chọn chính sách” thay thế lý thuyết đường cong Phillips trong điều hành chính sách tiền tệ ở các quốc gia. Từ khóa: Chính sách tiền tệ, lạm phát, tăng trưởng, sản lượng, đánh đổi. Abstract This paper empirically investigates the inflation–output stability trade-off by examining the stochastic behavior of the conditional variances of output and inflation in light of a bivatiate GARCH-BEKK model and data from 1959 to 2017 in the UK. Statistical support for the hypothesized volatility trade-off during the research period. This suggests a “policy menu” to replace the Phillips curve theory of monetary policy operating in countries. Keywords: Monetary policy, inflation, economic growth, output, trade-off. 1. Giới thiệu Trong thập kỷ vừa qua, thế giới đã chứng kiến những bất ổn nghiêm trọng trong kinh tế vĩ mô. Khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 với lạm phát cao và tăng trưởng sụt giảm nghiêm trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tiếp theo đó, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp năm 2009 và sau đó đã nhanh chóng lan sang các nước khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy và Pháp dẫn đến khủng hoảng nợ công Châu Âu. Bên cạnh đó, bắt nguồn từ Tây Ban Nha, khủng hoảng hệ thống ngân hàng với nợ xấu ở mức cao đã gây khó khăn cho cả khu vực. Ngoài ra, những bất ổn trên thị trường chứng 2Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 phát, một số nhà kinh tế lập luận rằng khi một nền kinh tế bị tác động bởi các cú sốc kinh tế, mối quan hệ đánh đổi lạm phát-sản lượng trong ngắn hạn có thể dẫn đến kết quả là một sự đánh đổi trong biến động lạm phát-biến động sản lượng vĩnh viễn (Fuhrer, 1997; Lee, 2002). Mặc dù nhiều nghiên cứu trước đây chú trọng nghiên cứu tương quan giữa giá cả và sản lượng (Mankiw, 1989; Mitchell, 1994; Cover & Hueng, 2003; Cover & Pecorino, 2007), các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa phương sai của các biến này vẫn còn hạn chế. Trong số các nghiên cứu được thực hiện để xem xét tương quan giữa phương sai của sản lượng và lạm phát, hầu hết các nghiên cứu quan tâm đến khía cạnh lý thuyết (Fuhrer, 1997; Ndou & ctg, 1999; Bernanke, 2004; Mishkin & Schmidt-Hebbel, 2007), trong khi số ít các nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ trên khía cạnh thực nghiệm lại chủ yếu tập trung vào Mỹ hoặc các nước EU (Lee, 1999, 2002). Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu kiểm định mối quan hệ đánh đổi giữa biến động sản lượng và biến động lạm phát mà các cơ quan tiền tệ phải đối mặt trong hoạch định chính sách tại Anh. Chính sách tiền tệ ở Anh đã thay đổi đáng kể trong những thập kỷ qua. Nước Anh đã chứng kiến sự ra đời của kiểm soát tín dụng và cạnh tranh (Competition & Credit Control, 1971), sau đó là loại bỏ các ràng buộc và kiểm soát tiền tệ chặt chẽ (Hendry & Ericsson, 1991) cũng như áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu trong thực thi chính sách tiền tệ. Trong khi nhiều nghiên cứu cho rằng chính sách lạm phát mục tiêu đã thành công trong việc tăng tính minh bạch của chính sách tiền tệ và giảm đáng kể tỷ lệ lạm phát ở các quốc gia áp dụng, mà không có bất kỳ hậu quả tiêu cực đối với sản lượng (Mishkin & Posen, 1997). Trong khi các nghiên cứu khác cho thấy việc neo lạm phát khoán Trung Quốc năm 2016 kéo theo sự rối loạn của thị trường chứng khoán các quốc gia khác. Những bất ổn liên tục và có tác động lan tỏa giữa các quốc gia trong một môi trường hội nhập toàn cầu khiến các cơ quan tiền tệ ngày càng chú trọng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong hoạch định chính sách (Castelnuovo, 2006). Ổn định kinh tế vĩ mô có nhiều lợi ích. Lạm phát ổn định giúp cải thiện chức năng của thị trường tài chính, giúp các tác nhân kinh tế lập kế hoạch dễ dàng hơn và giảm bớt chi phí cho việc phòng ngừa rủi ro lạm phát. Biến động sản lượng giảm hàm ý việc làm ổn định hơn và giảm mức độ bất ổn kinh tế đối với hộ gia đình và doanh nghiệp. Giảm biến động sản lượng cũng liên quan chặt chẽ với việc suy thoái kinh tế là ít thường xuyên hơn và ít nghiêm trọng hơn (Bernanke, 2004). Gần đây, phần lớn các cơ quan tiền tệ ở các quốc gia đều theo đuổi mục tiêu ổn định giá và duy trì lạm phát ở mức thấp, bằng cách đặt ra mức lạm phát mục tiêu, với công cụ chính sách là lãi suất (Dittmar, Gavin & Kydland, 1999; Cecchetti & Ehrmann, 2002; Arestis & Mouratidis, 2004; Castelnuovo, 2006; King, 2013). Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu lạm phát có thể khiến các quốc gia phải đánh đổi bằng việc đối diện với biến động sản lượng cao hơn (Cecchetti, Flores-lagunes, & Krause, 2006; Stephen Cecchetti & Ehrmann, 2002; Taylor, 1979, 1994). Khác với mối quan hệ đánh đổi được hàm ý bởi đường cong Phillips truyền thống, trong đó tồn tại mối quan hệ đánh đổi trong ngắn hạn giữa mức độ lạm phát và sản lượng, ngày nay, các nghiên cứu tập trung xem xét sự lựa chọn chính sách giữa biến động lạm phát và biến động sản lượng trong dài hạn (Lee, 2002; Bernanke, 2004). Có một sự đồng thuận chung rằng không tồn tại mối quan hệ đánh đổi trong dài hạn giữa mức sản lượng và tỷ lệ lạm 3Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 bảng mất giá mạnh so với hàng loạt các đồng tiền khác, dẫn đến giá nhập khẩu tăng, kéo theo giá các loại hàng hóa cũng gia tăng. Điều này đã gây sức ép lên tăng trưởng của kinh tế khắp nước Anh. Và gây ra áp lực cho cơ quan thực thi chính sách tiền tệ trong việc đạt được ổn định kinh tế vĩ mô. Bối cảnh nêu trên khiến cho Anh là một trường hợp nghiên cứu thú vị về mối quan hệ đánh đổi giữa biến động sản lượng và biến động lạm phát. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu theo tháng được thu thập từ cơ sở dữ liệu của Federal Reserve Bank of St. Louis và Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) với mô hình GARCH – BEKK, kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ đánh đổi giữa biến động sản lượng và biến động lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu ở cả hai quốc gia. Phần còn lại của nghiên cứu được cấu trúc như sau, phần tiếp theo trình bày tóm tắt cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu có liên quan. Phần 3 giải thích phương pháp kinh tế lượng được sử dụng để điều tra sự tồn tại của mối quan hệ đánh đổi này. Cụ thể chúng tôi thảo luận chi tiết về phương pháp mô hình hóa biến động ngẫu nhiên của lạm phát và lỗ hổng sản lượng bằng mô hình GARCH – BEKK trong phần này. Phần này cũng trình bày nguồn gốc và đặc tính dữ liệu nghiên cứu. Kết quả kiểm định và thảo luận được trình bày ở phần 4 và cuối cùng, chúng tôi kết luận. 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây Trong số các nghiên cứu ngày càng tăng về các quy tắc chính sách tiền tệ được thực hiện cho tới nay, nhiều nghiên cứu hàm ý về một mối quan hệ đánh đổi giữa biến động lạm phát và biến động lỗ hổng sản lượng (Phelps & Taylor, 1977; Taylor, 1979, 1994; Fuhrer, 1997; Ndou & ctg, 1999). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ đánh đổi trong ngắn hạn giữa mức độ vào một tỷ lệ cố định có thể dẫn đến sự đánh đổi là biến động biến động sản lượng lớn hơn và ảnh hưởng đến các điều kiện kinh tế vĩ mô khác như việc làm (Cecchetti, Flores-Lagunes & Krause, 2006). Anh là quốc gia thực hiện chế độ lạm phát mục tiêu trong khuôn khổ chính sách tiền tệ từ rất sớm vào năm 1992 (Mishkin & Schmidt-Hebbel, 2002, 2007). Ủy ban Chính sách tiền tệ của NHTW Anh đã được trao trách nhiệm duy nhất vào năm 1998 để thiết lập lãi suất để phù hợp với lạm phát chỉ số giá bán lẻ của Chính phủ (RPI) mục tiêu là 2,5% (Key Monetary Policy Dates Since 1990). Mục tiêu thay đổi thành 2% trong tháng 12 năm 2003 khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thay thế chỉ số giá bán lẻ làm chỉ số lạm phát của Anh (King, 2003). NHTW Anh đã tiên phong trong việc tạo ra cách để truyền đạt thông tin cho công chúng, đặc biệt là thông qua Báo cáo lạm phát, đã được nhiều ngân hàng trung ương khác mô phỏng (Mishkin & Posen, 1997). NHTW Anh cho rằng, điều này giúp mọi người dễ dàng lên kế hoạch cho tương lai, nếu lạm phát là quá cao hoặc biến động nhiều, rất khó cho các doanh nghiệp để thiết lập mức giá phù hợp và công chúng cũng khó khăn trong việc lên kế hoạch chi tiêu của họ. Nhưng nếu lạm phát quá thấp hoặc âm, thì một số người có thể giảm chi tiêu bởi vì họ hy vọng giá giảm. Nếu mọi người giảm chi tiêu của họ thì hoạt động của các công ty có thể trì trệ và mọi người có thể mất việc làm1. Việc theo đuổi lạm phát mục tiêu đã đem lại sự ổn định nhất định cho nền kinh tế Anh (Mishkin & Posen, 1997). Tuy nhiên, gần đây, với việc Anh bắt đầu tiến trình rời khỏi Liên minh Châu Âu (được gọi là Brexit) vào đầu năm 2017, lạm phát đã nhảy vọt sau cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 6 năm 2016. Viễn cảnh Brexit khiến đồng 1 Theo https://www.bankofengland.co.uk/monetary- policy/inflation. 4Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 Taylor (1979, 1994) lập luận mối quan hệ đánh đổi biến động tồn tại dựa trên hành vi tối ưu hóa của NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ để giảm thiểu tổn thất của nền kinh tế trước các tác động không lường trước được của các cú sốc. Theo đó, NHTW cố gắng để tối thiểu hóa giá trị kỳ vọng của hàm tổn thất bậc hai, phụ thuộc vào tính năng động của cấu trúc nền kinh tế (sản lượng và lạm phát) như làm một hàm của công cụ chính sách (lãi suất) (Taylor, 1979; Arestis & Mouratidis, 2004): ℒ = E[λ (π − π*)2 + (1 − λ) (y − y*)2] (1) Trong đó, E biểu thị toán tử kỳ vọng, π là lạm phát và y là log của tổng sản lượng của nền kinh tế, π* thể hiện mức lạm phát mục tiêu và y* là sản lượng tiềm năng. Trọng số λ đo lường sự ưa thích biến động lạm phát của các nhà hoạch định chính sách (0 ≤ λ ≤ 1). Về thực nghiệm, đã có một số nghiên cứu điều tra mối quan hệ đánh đổi này, song rất ít (Fuhrer, 1997; Lee, 1999, 2004; Taylor, 1994). Các nghiên cứu này đi đến một kết luận chung rằng bất kỳ cố gắng nào để đạt được ổn định lạm phát đều dẫn đến biến động sản lượng tiềm năng cao hơn. Cecchetti & Ehrmann (2002) kiểm định sự đánh đổi biến động và so sánh sự khác biệt giữa các quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu và các quốc gia không theo đuổi lạm phát mục tiêu trong một mẫu gồm 23 quốc gia phát triển và đang phát triển. Kết quả của họ cho thấy rằng, các nước theo đuổi lạm phát mục tiêu và 9 quốc gia EU gán trọng số cao hơn đối với biến động lạm phát trong hàm tổn thất so với các quốc gia còn lại. Arestis & Mouratidis (2004) điều tra mối quan hệ giữa biến động lạm phát và biến động sản lượng đối với 9 nước Liên minh châu Âu lạm phát và lỗ hổng sản lượng (như được mô tả bởi đường cong Phillips) hàm ý một mối quan hệ đánh đổi trong dài hạn giữa phương sai (biến động) tương ứng của chúng (Bernanke, 2004). Mục tiêu của các NHTW trong thực hiện chính sách tiền tệ là duy trì sự ổn định về giá cũng như ổn định nền kinh tế thực nhằm giảm thiểu tổn thất của nền kinh tế do tác động của các cú sốc. Để đạt được điều này, các nhà hoạch định chính sách sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết nền kinh tế với mục đích tối thiểu hóa hàm tổn thất kỳ vọng (Taylor, 1979, 1994). Cecchetti (2000) và Cecchetti, Flores-Lagunes & Krause (2006), bên cạnh những nghiên cứu khác nữa, cho rằng mối quan hệ đánh đổi giữa biến động lỗ hổng sản lượng và biến động lạm phát chỉ tồn tại khi nền kinh tế đối mặt với cú sốc cung (tức là cú sốc chi phí đẩy). Bernanke (2004) minh họa đơn giản mối quan hệ này như sau: “ xem xét ví dụ kinh điển về một cú sốc tổng cung, giá dầu tăng mạnh do gián đoạn nguồn cung từ nước ngoài. Theo phân tích thông thường, giá dầu tăng làm gia tăng mức giá tổng thể (sự gia tăng tạm thời trong lạm phát) trong khi làm giảm sản lượng và việc làm. Do đó, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt với một sự lựa chọn khó khăn. Nếu họ chọn thắt chặt chính sách (tăng lãi suất ngắn hạn) để bù đắp ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến mức giá chung, họ có thể phải chấp nhận mức giảm sản lượng nghiêm trọng hơn. Ngược lại, nếu các nhà hoạch định chính sách chọn giảm tác động của cú sốc giá dầu đến sản lượng, hành động của họ có thể làm trầm trọng thêm tác động đến lạm phát. Do đó, đối mặt với sự xuất hiện liên tục của cú sốc tổng cung như cú sốc giá dầu, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ buộc phải lựa chọn giữa ổn định sản lượng và ổn định lạm phát” 5Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 Lee (1999, 2002) sử dụng mô hình GARCH đa biến để mô hình hóa mối quan hệ giữa biến động lỗ hổng sản lượng và biến động lạm phát bằng moment bậc hai của chúng với trường hợp của Mỹ. Kết quả cho thấy tồn tại mối tương quan âm giữa biến động của 2 biến, tuy nhiên mối tương quan này thay đổi giữa các giai đoạn khác nhau và độ dốc của đường cong đánh đổi là tương đối phẳng. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Không giống với ước lượng mối quan hệ đánh đổi được hàm ý bởi đường cong Phillips truyền thống có thể được thực hiện trực tiếp từ các hệ số hồi quy ước lượng được, mối quan hệ đánh đổi biến động phải được xem xét trong điều kiện biến đổi các hệ số hồi quy ước lượng được từ một mô hình kinh tế lượng để tính toán sự đánh đổi biến động. Do đó, mối quan hệ này chỉ được xem xét dựa vào một mô hình cụ thể, hoặc một lý thuyết (Taylor, 2006). Theo sau Mishkin & Schmidt-Hebbel (2007); Rudebusch & Svensson (1999), chúng tôi kiểm định mối quan hệ giữa biến động của lỗ hổng sản lượng và biến động lạm phát sử dụng mô hình tổng cung và tổng cầu động. Xem xét: và so sánh sự khác biệt trong mối quan hệ này trong hai giai đoạn trước và sau hiệp ước Maastricht. Sử dụng mô hình biến động ngẫu nhiên (stochastic volatility model) với dữ liệu hàng quý, các tác giả cho thấy mối quan hệ đánh đổi đã cải thiện trong hầu hết các quốc gia sau khi thực hiện hiệp ước, tuy nhiên mức độ cải thiện là khác nhau giữa các quốc gia trong mẫu, do tác động của cấu trúc kinh tế. Erceg, Henderson & Levin (1998) cũng phát triển một mô hình DSGE dựa trên hành vi của người tiêu dùng và của doanh nghiệp dưới các điều kiện khác nhau về tính ... 4. K ết q uả ư ớc lư ợn g m ô hì nh G A R C H M a tr ận C M a tr ận A M a tr ận B c 1 1 c 2 1 c 2 2 a 1 1 a 1 2 a 2 1 a 2 2 b 1 1 b 1 2 b 2 1 b 2 2 0. 7* ** -0 .0 03 0. 00 0. 64 ** * -0 .0 4* ** 0. 16 ** 0. 25 ** * -0 .2 4* ** -0 .0 3* ** -0 .1 2* ** 0. 96 ** * (3 8. 87 ) (- 0. 54 ) (- 2. 4e -9 ) (2 6. 21 ) (- 13 .8 1) (2 .3 4) (4 6. 28 ) (- 5. 02 ) (- 8. 27 ) (- 3. 03 ) (7 86 .5 2) G hi c hú : T ất c ả cá c hệ s ố ướ c lư ợn g dự a tr ên p hư ơn g tr ìn h (5 ): 1 1 1 T T T T t t t t H C C A u u A B H B − − − = + + , t ro ng đ ó u t th u đư ợc từ p hư ơn g tr ìn h (2 ) và ( 3) : 1, 0 1, 1, 1, 1, 1 1, 1 1 1 0 n n n n t j t j j t j j t j j t j t j j j j y y i oi l u θ α β π φ γ − − − + − = = = = = + + + + + ∑ ∑ ∑ ∑ , 2, 0 2, 2, 2, 1 2, 1 1 0 n n n t j t j j t j j t j t j j j y oi l u π θ α β π γ − − + − = = = = + + + + ∑ ∑ ∑ . C ác p hư ơn g tr ìn h (2 ), ( 3) v à (5 ) đư ợc ướ c lư ợn g đồ ng t hờ i sử d ụn g ph ươ ng p há p m ax im um -l ik el ih oo d tr on g gi ai đ oạ n 19 59 – 2 01 7. G iá t rị t -s ta ti st ic t ro ng n go ặc đ ơn , * , * *, * ** b iể u th ị m ức ý n gh ĩa th ốn g kê 1 0% , 5 % v à 1% , t ươ ng ứ ng . N gu ồn : T ín h to án c ủa c hú ng tô i t ừ ph ần m ềm R A T S 9. 0. 12 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 chúng tôi tìm thấy bằng chứng thống kê mạnh mẽ cho tất cả các ước lượng của hệ số a12 và a21. Kết quả này có xu hướng hỗ trợ sự tồn tại của tác động lan tỏa chéo giữa cú sốc lạm phát/sản lượng đến biến động sản lượng/lạm phát. Các kiểm định sau hồi quy theo thống kê Ljung-Box của phần dư và phần dư bình phương đều không thể bác bỏ tính phân phối chuẩn, cho thấy mô hình ước lượng là phù hợp và kết quả nghiên cứu là đáng tin cậy. Điều thu hút sự chú ý của chúng tôi hơn là ước lượng các yếu tố ngoài đường chéo của ma trận A, a12 và a21. Các hệ số này phản ánh phương sai có điều kiện của sản lượng hoặc lạm phát tương quan với thay đổi ngoài kỳ vọng bình phương trong quá khứ của biến còn lại. Đặc biệt hơn, a12 nắm bắt mức độ mà cú sốc lạm phát trễ một kỳ giải thích biến động của sản lượng hiện tại. Mặt khác, tham số a21 báo cáo mức độ giải thích của cú sốc sản lượng trễ một kỳ đối với biến động lạm phát hiện tại. Thật thú vị, Bảng 5. Kết quả kiểm định phần dư với thống kê Q Ljung-Box Phương trình Sản lượng Phương trình Lạm phát Độ trễ Phần dư Phần dư bình phương Phần dư Phần dư bình phương 3 4.52 (0.21) 7.6 (0.06) 0.79 (0.85) 1.84 (0.61) 6 8.44 (0.21) 12.96 (0.04) 3.43 (0.75) 3.38 (0.76) 9 18.68 (0.03) 24.4 (0.004) 7.10 (0.63) 14.49 (0.11) Ghi chú: Kiểm định chuẩn đoán phần dư và phần dư bình phương được thực hiện với thống kê Q Ljung-Box. Giá trị p-value trong ngoặc đơn (). Nguồn: Tính toán của chúng tôi từ phần mềm RATS 9.0. 5. Kết luận Những tranh luận trong xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể vẫn ngày càng gia tăng. Trong khi, chính sách tiền tệ ở một số quốc gia được thúc đẩy theo hướng đa mục tiêu bao gồm ổn định giá, công ăn việc làm cao và ổn định tài chính, chính sách tiền tệ của Anh được coi là chính sách tiền tệ một mục tiêu với việc NHTW cố gắng để duy trì mức lạm phát dao động xung quanh giá trị mục tiêu của mình. Với việc theo đuổi một mục tiêu duy nhất, chính sách tiền tệ có thể hiệu quả hơn, song nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, cơ quan tiền tệ của các quốc gia này có thể phải đánh đổi để đạt được sự ổn định về giá. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung nghiên cứu mối quan hệ đánh đổi giữa biến động sản lượng và biến động lạm phát ở Anh trong giai đoạn 1959 - 2017. Sử dụng mô hình GARCH – BEKK để mô hình hóa tương quan của phương sai (biến động) của hai biến sản lượng và lạm phát, trên mô hình tổng cung – tổng cầu đơn giản. Cách tiếp cận này hỗ trợ cung cấp bằng chứng về cả sự bất ổn trong trung bình có điều kiện và phương sai có điều kiện của sản lượng và lạm phát. Kết quả của nghiên cứu xác nhận NHTW Anh phải đối mặt với sự đánh đổi giữa ổn định sản lượng và ổn định giá khi thực thi chính sách tiền tệ trong giai đoạn nghiên cứu. Kết quả này phù hợp với những phát hiện của các nghiên cứu trước đây tại một số quốc gia khác (Fuhrer, 1997; King, 1999; Lee, 1999, 2002, 2004) và cho rằng mối quan hệ đánh đổi này được xem như một “lựa chọn chính sách” mà các cơ quan tiền tệ phải đối mặt. 13 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 gia không thực hiện lạm phát mục tiêu trong thực thi chính sách tiền tệ để so sánh về mức độ đánh đổi giữa hai nhóm quốc gia. Đồng thời, so sánh về độ lớn của mối quan hệ đánh đổi trước và sau giai đoạn áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu cũng là một hướng nghiên cứu thú vị cần được quan tâm. Kết quả của nghiên cứu này cung cấp một bằng chứng sơ khởi về tồn tại mối quan hệ đánh đổi trong việc đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của chính sách tiền tệ, được hàm ý bởi lý thuyết. Các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng mẫu nghiên cứu, trong đó bao gồm các quốc gia thực hiện chế độ lạm phát mục tiêu và các quốc Tài liệu tham khảo Arestis, P. and Mouratidis, K. (2004) ‘Is there a trade-off between inflation variability and output- gap variability in the EMU countries?’, Scottish Journal of Political Economy, 51(5), pp. 691– 706. doi: 10.1111/j.0036-9292.2004.00328.x. Bernanke, B. S. et al. (1997) ‘Systematic Monetary Policy and the Effects of Oil Price Shocks’, Brookings Papers on Economic Activity, 1997(1), pp. 91–157. Available at: https://www. princeton.edu/~mwatson/papers/Bernanke_Gertler_Watson_BPEA_1997.pdf (Accessed: 10 August 2018). Bernanke, B. S. (2004) ‘The Great Moderation’. Remarks at the meetings of the Eastern Economic Association, Washington, DC. Bollerslev, T. (1986) ‘Generalized autoregressive conditional heteroskedasticity’, Journal of Econometrics. North-Holland, 31(3), pp. 307–327. doi: 10.1016/0304-4076(86)90063-1. Castelnuovo, E. (2006) ‘Monetary Policy Switch, the Taylor Curve, and the Great Moderation’, SSRN Electronic Journal. doi: 10.2139/ssrn.880061. Cecchetti, S. (2000) ‘Making monetary policy: Objectives and rules’, Oxford Review of Economic Policy, 16(4), pp. 43–59. doi: 10.1093/oxrep/16.4.43. Cecchetti, S. and Ehrmann, M. (2002) ‘Does Inflation Targeting Increase Output Volatility? An International Comparison of Policymakers’ Preferences and Outcomes’, in Norman Loayza and Klaus Schmidt-Hebbel (eds) Monetary Policy: Rules and Transmission Mechanisms. Cambridge, MA, pp. 247–274. doi: 10.3386/w7426. Cecchetti, S. G. (1999) ‘Legal Structure, Financial Structure, and the Monetary Policy Transmission Mechanism’, FRBNY ECONOMIC POLICY REVIEW, (JULY 1999), pp. 9–32. Cecchetti, S. G., Flores-lagunes, A. and Krause, S. (2006) ‘HAS MONETARY POLICY BECOME MORE EFFICIENT ? A CROSS-COUNTRY ANALYSIS’, The Economic Journal, 116, pp. 408–433. Cecchetti, S. G., Flores-Lagunes, A. and Krause, S. (2006) ‘Has monetary policy become more efficient? A cross-country analysis’, Economic Journal, pp. 408–433. doi: 10.1111/j.1468- 0297.2006.01086.x. Chatterjee, S. (2002) ‘The Taylor curve and the unemployment-inflation tradeoff’, Business Review, Federal Re(Q3), pp. 26–33. 14 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 Cobham, D., Macmillan, P. and Mcmillan, D. G. (2004) ‘The inflation/output variability trade-off: further evidence’, Applied Economics Letters. Taylor & Francis Group , 11(6), pp. 347–350. doi: 10.1080/1350485042000228178. Cover, J. P. and Hueng, C. J. (2003) ‘The Correlation between Shocks to Output and the Price Level: Evidence from a Multivariate GARCH Model’, Southern Economic Journal. Southern Economic Association, 70(1), p. 75. doi: 10.2307/1061632. Cover, J. P. and Pecorino, P. (2007) The Price-Output Correlation and the Variance of Output, SSRN Electronic Journal. doi: 10.2139/ssrn.1005246. Dittmar, R., Gavin, W. T. and Kydland, F. E. (1999) ‘The Inflation- Output Variability Tradeoff and Price-Level Targets’, Federal Reserve Bank of St. Louis Review, (Jan), pp. 23–32. Elder, J. and Serletis, A. (2010) ‘Oil Price Uncertainty’, Journal of Money, Credit and Banking. Wiley, 42(6), pp. 1137–1159. doi: 10.2307/40784879. Enders, W. (2015) Applied Econometric Time Series. Fourth. John Wiley & Sons, Inc. Available at: https://www.amazon.com/Applied-Econometric-Wiley-Probability-Statistics-ebook/dp/ B00P6SS6RA (Accessed: 10 August 2018). Engle, R. F. (1982) ‘Autoregressive Conditional Heteroscedasticity with Estimates of the Variance of United Kingdom Inflation’, Econometrica. The Econometric Society, 50(4), p. 987. doi: 10.2307/1912773. Engle, R. F. (1983) ‘Estimates of the Variance of U. S. Inflation Based upon the ARCH Model’, Journal of Money, Credit and Banking. Ohio State University Press, 15(3), p. 286. doi: 10.2307/1992480. Engle, R. F. and Kroner, K. F. (1995) ‘Multivariate Simultaneous Generalized Arch’, Econometric Theory. Cambridge University Press, 11(1), pp. 122–150. doi: 10.2307/3532933. Erceg, C. J., Henderson, D. W. and Levin, A. T. (1998) ‘Output-gap and Price Inflation Volatilities : Reaffirming Tradeoffs in an Optimizing Model by Conference on Monetary Policy Rules Wudghr v ehwzhhq Lq dwlrq dqg Rxwsxw0Jds Yduldqfhv lq dq Rswlpl } lqj0Djhqw Prgho’, in Conference on Monetary Policy Rules. Stockholm. Fuhrer, J. C. (1997) ‘Inflation / Output Variance Trade-Offs and Optimal Monetary Policy’, Journal of Money, Credit and Banking, 29(2), pp. 214–234. Greene, W. H. (2012) Econometric Analysis. Seventh. New Jersey: Upper Saddle River. Available at: https://spu.fem.uniag.sk/cvicenia/ksov/obtulovic/Manaž. štatistika a ekonometria/ EconometricsGREENE.pdf (Accessed: 10 August 2018). Hamilton, J. D. and Herrera, A. M. (2004) ‘Comment: Oil Shocks and Aggregate Macroeconomic Behavior: The Role of Monetary Policy’, Journal of Money, Credit and Banking. Ohio State University Press, 36(2), pp. 265–286. doi: 10.2307/3839020. Hendry, D. and Ericsson, N. R. (1991) ‘Modeling the Demand for Narrow Money in the United Kingdom and the United States’, European Economic Review, 35, pp. 833–886. Hodrick, R. J. and Prescott, E. C. (1997) ‘Postwar U.S. Business Cycles: An Empirical Investigation’, Journal of Money, Credit and Banking, 29(1), pp. 1–16. doi: 10/07/2009 11:45. 15 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 Key Monetary Policy Dates Since 1990 (2018) Bank of England. Available at: bankofengland.co.uk/monetarypolicy/history.htm. Kilian, L. and Vigfusson, R. J. (2011) ‘Nonlinearities in the oil price–output relationship’, Macroeconomic Dynamics. Cambridge University Press, 15(S3), pp. 337–363. doi: 10.1017/ S1365100511000186. King, M. (1999) ‘Challenges for Monetary Policy: New and Old’, in New Challenges for Monetary Policy. Federal Reserve Bank of Kansas City Jackson Hole, pp. 11–57. King, M. (2003) Remit for the Monetary Policy Committee of the Bank of England and the New Inflation Target. London. Available at: https://www.bankofengland.co.uk/-/media/boe/files/ letter/2003/chancellor-letter-101203 (Accessed: 27 November 2018). King, M. (2013) ‘Monetary policy - many targets, many instruments. Where do we stand?’, in Rethinking macro policy II: first steps and early lessons. Washington DC: IMF, pp. 1–8. Lee, J. (1999) ‘The Inflation-Output Variability Tradeoff and Monetary Policy: Evidence from a GARCH Model’, Economics Letters, 62, pp. 63–67. doi: 10.2307/1061563. Lee, J. (2002) ‘The Inflation-Output Variability Tradeoff and Monetary Policy: Evidence from a GARCH Model’, Southern Economic Journal, 69(1), pp. 175–188. doi: 10.2307/1061563. Lee, J. (2004) ‘The inflation-output variability trade-off: OECD evidence’, Contemporary Economic Policy, 22(3), pp. 344–356. doi: 10.1093/cep/byh025. Mankiw, N. G. (1989) ‘Real Business Cycles: A New Keynesian Perspective’, The Journal of Economic Perspectives. American Economic Association, 3(3), pp. 79–90. doi: 10.2307/1942761. Mishkin, F. S. and Posen, A. S. (1997) Inflation targeting: Lessons from four countries. 6126. Cambridge. Available at: https://www.nber.org/papers/w6126.pdf (Accessed: 27 November 2018). Mishkin, F. S. and Schmidt-Hebbel, K. (2007) Does inflation targeting make a difference?, NBER Working Paper. Cambridge, MA. Mishkin, F. and Schmidt-Hebbel, K. (2002) ‘One Decade of Inflation Targeting in the World: What Do We Know and What Do We Need to Know?’, in Loayza, N. and Raimundo Soto (eds) Inflation Targeting: Design, Performance, Challenges. Santiago: : Central Bank of Chile, pp. 171–219. doi: 10.3386/w8397. Mitchell, D. W. (1994) ‘Business cycle sources and price level-output correlation’, Journal of Macroeconomics. North-Holland, 16(3), pp. 547–551. doi: 10.1016/0164-0704(94)90023-X. Ndou, E. et al. (1999) The Inflation- Output Variability Tradeoff and Price-Level Targets, Working Paper Series. Edited by J. C. Fuhrer. Tunis, Tunisia: Central Bank of Chile. doi: 10.1111/j.1467- 9957.2009.02153.x. Olson, E., Enders, W. and Wohar, M. E. (2012) ‘An empirical investigation of the Taylor curve’, Journal of Macroeconomics. Elsevier Inc., 34(2), pp. 380–390. doi: 10.1016/j. jmacro.2011.12.005. Phelps, E. S. and Taylor, J. B. (1977) ‘Stabilizing Powers of Monetary Policy under Rational Expectations’, Journal of Polttical Economy, 85(1), pp. 163–190. Available at: https:// 16 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019 web.stanford.edu/~johntayl/Onlinepaperscombinedbyyear/1977/Stabilizing_Powers_of_ Monetary_Policy_under_Rational_Expectations.pdf (Accessed: 7 August 2018). Rudebusch, G. and Svensson, L. E. O. (1999) ‘Policy Rules for Inflation Targeting’, in John B. Taylor (ed.) Monetary Policy Rules. University of Chicago Press, pp. 203–262. Available at: (Accessed: 9 August 2018). Taylor, J. B. (1979) ‘Estimation and Control of a Macroeconomic Model with Rational Expectations’, Econometrica, 47(5), pp. 1267–1286. Taylor, J. B. (1994) ‘The Inflation/Output Variability Trade-off Revisited’, in Fuhrer, J. C. (ed.) Goals, Guidelines, and Constraints Facing Monetary Policymakers, pp. 21–28. Taylor, J. B. (2006) ‘Comments on “Tradeoffs in Monetary Policy” by Milton Friedman’, in Festschrift Conference in Honor of David Laidler. Zellner, A. (1962) ‘An Efficient Method of Estimating Seemingly Unrelated Regressions and Tests for Aggregation Bias’, Journal of the American Statistical Association. Taylor & Francis, Ltd. American Statistical Association, 57(298), p. 348. doi: 10.2307/2281644.
File đính kèm:
- moi_quan_he_danh_doi_giua_on_dinh_san_luong_va_on_dinh_lam_p.pdf