Môi trường văn hóa và diện mạo mới của văn hóa Nam Bộ
TÓM TẮT:
Từ các góc nhìn địa văn hoá, hệ thống, và
dân tộc-ngôn ngữ học, bài viết xem xét những
tác động của hai nhân tố địa lý tự nhiên và
giao lưu văn hóa đối với sự biến đổi văn hóa
truyền thống Việt Nam trên địa bàn Nam Bộ.
Điều kiện địa lý tự nhiên đa dạng, phối hợp với
ảnh hưởng chi phối của văn hóa Việt, đã làm
phát triển ở nơi đây một truyền thống văn hóa
đồng bằng song hành với văn hóa biển. Điều
kiện giao lưu văn hóa sôi động đã làm biến đổi
sâu sắc văn hóa của tất cả các tộc người nơi
đây, kể cả văn hóa Việt. Do đó, để có thể hiểu
đúng, lý giải đúng sự hình thành, biến đổi văn
hóa tộc người và văn hóa vùng Nam Bộ, trước
hết cần xem xét sự tác động của hai nhân tố
ấy đối với các chủ thể văn hóa tộc người và
các hoạt động văn hóa của họ ở nơi đây.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Môi trường văn hóa và diện mạo mới của văn hóa Nam Bộ
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 Trang 61 Môi trường văn hóa và diện mạo mới của văn hóa Nam Bộ Lý Tùng Hiếu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM TÓM TẮT: Từ các góc nhìn địa văn hoá, hệ thống, và dân tộc-ngôn ngữ học, bài viết xem xét những tác động của hai nhân tố địa lý tự nhiên và giao lưu văn hóa đối với sự biến đổi văn hóa truyền thống Việt Nam trên địa bàn Nam Bộ. Điều kiện địa lý tự nhiên đa dạng, phối hợp với ảnh hưởng chi phối của văn hóa Việt, đã làm phát triển ở nơi đây một truyền thống văn hóa đồng bằng song hành với văn hóa biển. Điều kiện giao lưu văn hóa sôi động đã làm biến đổi sâu sắc văn hóa của tất cả các tộc người nơi đây, kể cả văn hóa Việt. Do đó, để có thể hiểu đúng, lý giải đúng sự hình thành, biến đổi văn hóa tộc người và văn hóa vùng Nam Bộ, trước hết cần xem xét sự tác động của hai nhân tố ấy đối với các chủ thể văn hóa tộc người và các hoạt động văn hóa của họ ở nơi đây. Từ khóa: góc nhìn địa văn hoá, góc nhìn hệ thống, góc nhìn dân tộc-ngôn ngữ học, điều kiện địa lý tự nhiên, điều kiện giao lưu văn hoá, tiếp biến văn hoá, môi trường văn hoá, hoạt động văn hoá, văn hóa Việt, văn hóa Nam Bộ 1. Đặt vấn đề Khởi nguồn từ trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ, trải hơn 4.000 năm lịch sử, nền văn hóa Việt Nam trên các vùng miền đã không còn giữ nguyên nội dung ban đầu mà đã phát triển, biến đổi một cách sâu xa. Văn hóa Nam Bộ cũng vậy. Cho dù di dân đến Nam Bộ vào thời điểm lịch sử nào, không có tộc người nào bảo tồn được một cách tuyệt đối nền văn hóa truyền thống của mình mà không biến đổi nó sau nhiều thế kỷ cộng cư, cộng sinh cùng các tộc người khác trên mảnh đất này. Sự hình thành và biến đổi đó của văn hóa các tộc người Nam Bộ có thể được lý giải theo những cách khác nhau. Nhìn từ quan điểm địa văn hóa (perspective of cultural geography) và quan điểm hệ thống (systematic perspective), sự hình thành và biến đổi của văn hóa truyền thống các tộc người Việt Nam và văn hóa Việt Nam trên các vùng miền trước hết bắt nguồn từ hai nhân tố then chốt: điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hoá. Điều kiện địa lý tự nhiên: cung cấp nguyên liệu, phương tiện đồng thời quy định cách thức thích nghi, ứng phó của con người đối với tự nhiên và xã hội để duy trì cuộc sống. Nhờ có tính cộng đồng cao và có tư duy phát triển, con người có thể dựa vào tự nhiên để sáng tạo ra văn hoá, và dần dần có thể tác động trở lại tự nhiên, làm biến đổi môi trường sinh thái quanh mình. Do đó, điều kiện địa lý tự nhiên là một trong những tiền đề của văn hoá, góp phần làm nên văn hóa tộc người. Điều kiện giao lưu văn hoá: Những vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi như vị trí tiếp giáp các tuyến đường giao thương, địa hình đồng bằng châu thổ như Nam Bộ, cơ hội giao lưu văn hóa nội vùng và giao lưu văn hóa với bên ngoài sẽ gia tăng. Thông thường, giao lưu văn hóa sẽ được khởi đầu bằng trao đổi thương mại và tôn giáo. Qua đó, nó cung cấp cho con người những SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 62 nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích nghi, ứng phó mới, làm giàu, làm mới hành trang văn hóa của họ trên những chặng đường cải biến tự nhiên và xã hội để sinh tồn và phát triển. Giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp biến văn hoá, tức là tiếp thu, biến đổi những yếu tố văn hóa ngoại sinh thành những yếu tố văn hóa tộc người, đồng thời biến đổi văn hóa tộc người để thích ứng với những yếu tố văn hóa mới. Hai nhân tố địa lý tự nhiên và giao lưu văn hóa là tiền đề của văn hóa tộc người và văn hóa vùng, nên khi chúng biến đổi, văn hóa tộc người và văn hóa vùng sẽ tất yếu biến đổi. Nói cách khác, hai nhân tố ấy hợp thành một môi trường văn hóa mà trong đó, các chủ thể văn hóa tộc người và văn hóa vùng phải tự điều chỉnh, biến đổi để thích nghi. Do đó, để có thể hiểu đúng, lý giải đúng sự hình thành, biến đổi văn hóa tộc người và văn hóa vùng Nam Bộ, trước hết cần xem xét sự tác động của hai nhân tố ấy đối với các chủ thể văn hóa tộc người và các hoạt động văn hóa của họ ở nơi đây. 2. Môi trường văn hóa đa dạng, sôi động và sự biến đổi văn hóa Việt ở phương Nam Hiện nay, Nam Bộ bao gồm 19 tỉnh thành1. Về địa hình, đây là một vùng đồng bằng sông nước rất đặc trưng, có diện tích và độ phì nhiêu cao nhất trong tất cả các đồng bằng nước ta. Bên cạnh đó là vùng thềm cao nguyên rộng nhất nước ở miền Đông Nam Bộ, với thổ nhưỡng là đất đỏ phong hóa trên đá basalt và đất xám trên thềm phù sa cổ. Ngoài khơi Nam Bộ là vùng biển nông, bao quanh ba phía, với nhiều đảo và quần đảo như Côn Sơn, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc Sau khi văn hóa Óc Eo lụi tàn vào cuối thế kỷ VIII, hầu hết đồng bằng Nam Bộ đã rơi vào tình trạng hoang hoá. Nhưng sau khi vương quốc Chân Lạp bị người Xiêm tấn công, phải dời đô đến Phnom Penh vào năm 1434, rồi dời đến Lovek vào 1 Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. năm 1539, người Khmer đã chuyển trọng tâm đất nước từ tây bắc xuống đông nam Biển Hồ, và tìm đến Nam Bộ định cư ngày một đông hơn. Từ khoảng cuối thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XX, đến lượt các cộng đồng lưu dân người Việt, người Hoa, người Chăm nối tiếp nhau tiến vào Nam Bộ, chia nhau khai khẩn, đào kinh, canh tác, định cư, buôn bán, dần dần biến một vùng đất hoang vu rộng lớn thành những vùng nông nghiệp trù phú và những đô thị sầm uất. Nền văn hóa Nam Bộ từ đó đã hình thành như một kết quả dung hợp giữa cái nền là văn hóa Việt từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa Chăm, Hoa, Khmer và cả phương Tây sau này. Do các làn sóng nhập cư vẫn tiếp diễn, Nam Bộ hôm nay là một vùng đất đa tộc người, nơi sinh tụ của người Việt và đông đủ đại diện của 53 tộc người thiểu số. Trong đó, người Việt là tộc người đa số với dân số hơn 28 triệu người, chiếm khoảng 90% dân số của vùng, cư trú trên khắp địa bàn, là chủ thể văn hóa chính của toàn vùng. Người Hoa ở Nam Bộ có khoảng 750.000 người (trên tổng dân số 823.071 người), cư trú ở tập trung ở 3 tỉnh thành: thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), và rải rác ở các tỉnh thành khác. Người Hoa là một tộc người thiểu số đông dân và có trình độ kinh tế - xã hội phát triển. Do quê quán khác nhau (chủ yếu từ các tỉnh duyên hải Giang Nam) và nhập cư vào những thời điểm khác nhau, người Hoa ở Nam Bộ là một cộng đồng không thuần nhất về văn hóa và ngôn ngữ. Những người Hoa đến Nam Bộ vào thế kỷ XVII-XVIII, được gọi là “người Minh Hương”, thì phần nhiều con cháu đã trở thành người Việt hoặc Khmer, đóng góp vào văn hóa Việt nơi đây những yếu tố đặc thù của văn hóa người Hoa. Còn những người Hoa mà trước đây gọi là “người Đường” và hiện nay vẫn còn giữ nguyên ngôn ngữ, văn hoá, ý thức tộc người, thì chủ yếu là con cháu của di dân người Hoa đến Nam Bộ vào thế kỷ XIX-XX. Họ không tự gọi mình là người TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 Trang 63 Trung Quốc, người Hán, người Hoa, mà là “Thoòng Dành” (tiếng Quảng Đông) hoặc “Từng Nán” (tiếng Triều Châu), tức là “người Đường”. Người Việt Nam Bộ thì gọi chung tất cả những người Hoa cộng cư là “người Tàu”, “Cắc Chú” (Khách Trú). Hiện nay, Nhà nước và giới khoa học Việt Nam gọi chung tất cả người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam là “người Hoa”, phân biệt với “Hoa kiều” là những người Trung Quốc có mặt ở Việt Nam nhưng không nhập tịch Việt Nam. Người Khmer có dân số 1.260.640 người (1/4/2009), cư trú tập trung ở 5 tỉnh: Sóc Trăng (397.014 người, chiếm 30,7% dân số toàn tỉnh, 31,5% dân số Khmer cả nước), Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6% dân số toàn tỉnh, 25,2% dân số Khmer cả nước), Kiên Giang (210.899 người), An Giang (90.271 người), Bạc Liêu (70.667 người), và rải rác ở các tỉnh thành khác. Người Khmer là một tộc người thiểu số đông dân và có trình độ kinh tế - xã hội phát triển. Người Khmer Nam Bộ có tộc danh tự gọi là “Khêmarăʔ”, “Khêmarăʔ Krôm”. Người Việt Nam Bộ thì gọi chung những người Khmer cộng cư là “người Miên”. Người Chăm ở Nam Bộ có khoảng 33.000 người (trên tổng dân số 161.729 người), cư trú tập trung ở An Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), và rải rác ở Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Kiên Giang Các tộc người khác (Tày, Nùng, Dao, Mường, Thái, Thổ) thì di dân vào Nam Bộ theo ba đợt chính: di dân có tổ chức vào các năm 1954, 1975, và di dân tự do ồ ạt từ năm 1994. Hiện nay, theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009, dân số Nam Bộ đã lên tới 31.145.000 người, chiếm 36,3% trong tổng dân số toàn quốc, vượt xa đồng bằng sông Hồng. Trong đó, miền Đông Nam Bộ có 13.985.000 người, chiếm 16,3% dân số toàn quốc; miền Tây Nam Bộ có 17.160.000 người, chiếm 20% dân số toàn quốc. Trong thập niên 1999-2009, miền Đông Nam Bộ là khu vực có tốc độ gia tăng dân số cao nhất nước: bình quân 3,2% mỗi năm, gần gấp ba lần so với tỷ lệ gia tăng dân số toàn quốc là 1,2% mỗi năm. Hiện nay miền Đông Nam Bộ, với ba trung tâm đô thị lớn là thành phố Hồ Chí Minh (7.162.864 dân), Đồng Nai (2.486.154 dân), Bà Rịa - Vũng Tàu (996.682 dân), cũng là khu vực có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước, với 57,1% dân số sống trong các vùng đô thị, gần gấp đôi so với tỷ lệ 30% dân số toàn quốc sống trong các vùng đô thị. Điều kiện địa lý tự nhiên đa dạng và phong phú, khiến cho các tộc người Nam Bộ đều mau chóng hình thành và phát huy nhiều sở trường văn hóa mới. Và quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa sôi động đã khiến cho trong văn hóa của các tộc người Hoa, Khmer, Chăm ở Nam Bộ đều có các yếu tố của văn hóa Việt. Người Minh Hương trước đây và một bộ phận người Hoa hiện nay đều dần dần đồng hóa tự nhiên thành người Việt. Người Khmer không còn theo chế độ mẫu hệ mà đã chuyển sang song hệ. Ngược lại, trong văn hóa của người Việt nơi đây, có sự hiện diện của các yếu tố văn hóa Chăm, Hoa, Khmer. Đối với văn hóa Chăm, chúng ta đã thấy những ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa này đối với văn hóa Việt trên địa bàn Trung Bộ. Khi di dân Việt tiến vào Nam Bộ, những kinh nghiệm chinh phục núi rừng và biển cả được sáng tạo và tiếp biến từ người Chăm lại tiếp tục được mở rộng, phát huy trên một địa bàn có đầy đủ các loại địa hình thềm cao nguyên rộng lớn, đồng bằng châu thổ mênh mông, rừng ngập mặn bạt ngàn, và vùng biển bao la. Đồng thời, các tôn giáo, thần linh, phong tục, lễ hội gốc Việt và gốc Chăm cũng được mang theo để phù trợ cho cuộc mưu sinh của cư dân. Về văn học, nghệ thuật và ngôn ngữ, những ảnh hưởng từ người Chăm cũng được họ mang theo, tiếp tục tiếp biến và sáng tạo để tạo ra một diện mạo văn học, nghệ thuật và ngôn ngữ đa dạng trên địa bàn Nam Bộ [xem: Lý Tùng Hiếu, 2014c, trang 101-122]. Đối với văn hóa Hoa, sau hơn ba thế kỷ cộng cư, cộng sinh, nền văn hóa này đã tác động sâu sắc đến văn hóa Việt trên địa bàn Nam Bộ. Hầu hết các SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 64 bình diện văn hóa vật thể và phi vật thể của người Việt Nam Bộ đều có những dấu ấn đậm nhạt khác nhau của văn hóa người Hoa. Trong văn hóa mưu sinh, các hoạt động doanh thương rất thành công của người Hoa Nam Bộ (với biểu tượng là tứ trụ thời Pháp thuộc: Hứa Bồn Hoa, Quách Đàm, Hộ Xưởng, Trần Ích), đã góp phần thay đổi quan niệm trọng nông khinh thương của người Việt Nam, và góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh thành khác ở phía nam. Trong văn hóa ẩm thực, nhiều món ăn và kỹ thuật chế biến món ăn rất cầu kỳ của người Hoa đã được người Việt Nam Bộ tiếp nhận và biến đổi, khiến cho văn hóa ẩm thực Nam Bộ trở nên phong phú nhất trong tất cả các vùng miền. Trong văn hóa tín ngưỡng, các tôn giáo dân gian và hệ thống thần thánh rất phong phú của người Hoa đã được người Việt Nam Bộ tiếp biến gần như trọn vẹn: các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm Thiên Hậu Thánh Mẫu (Việt: Bà Thiên Hậu), Quan Thánh Đế Quân (Việt: Quan Công), Ngọc Hoàng (Việt: Ngọc Hoàng), Bổn Đầu Công (Việt: Ông Bổn); các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước (Việt: Ông Thiên), Thổ Địa Bản Gia (Việt: Ông Địa), Táo Quân (Việt: Ông Táo), Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần (Việt: Thần Tài), Quan Âm Bồ Tát (Việt: Phật Bà Quan Âm), Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ sư các nghề thủ công tinh xảo. Người Việt Nam Bộ tiếp thu Nho giáo và học thuật của Trung Hoa, một phần cũng là nhờ vai trò cầu nối của những trí thức Minh Hương và trí thức người Hoa Nam Bộ như Võ Trường Toản, Gia Định tam gia (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh), Gia Định tam hùng (Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Châu Văn Tiếp), Ngô Tùng Châu, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản... Trong văn hóa phong tục, các phong tục vòng đời của người Hoa đều có ảnh hưởng ít nhiều đến phong tục vòng đời của người Việt Nam Bộ: sinh sản (đầy tháng, thôi nôi), hôn lễ, tang lễ, chăm sóc mộ phần và thờ cúng tổ tiên. Trong văn hóa lễ hội, hầu hết các lễ hội truyền thống của người Hoa Nam Bộ như tết Nguyên đán 1/1 (âm lịch), vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1, tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng 3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10... cũng là ngày lễ hoặc ngày hội của người Việt trong vùng. Trong đó, ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hóa Hoa là ở các hoạt động thương mại, ẩm thực, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, ngôn ngữ. Những ảnh hưởng này không chỉ do giá trị và sức hấp dẫn của văn hóa người Hoa mà còn do quá trình đồng hóa tự nhiên thành người Việt của các thế hệ người Hoa. Khi trở thành người Việt, họ đã chuyển giao cho văn hóa người Việt Nam Bộ các giá trị văn hóa tộc người của tổ tiên mình. Những ảnh hưởng của văn hóa Hoa đối với văn hóa người Việt Nam Bộ để lại dấu ấn rõ nét qua các từ ngữ gốc Hoa trong tiếng Việt Nam Bộ. Từ góc nhìn dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistic perspective), có thể thấy rằng, bộ phận từ vựng gốc Hoa này phản ánh rất trung thành những bình diện văn hóa mà người Việt Nam Bộ đã chịu ảnh hưởng của người Hoa: (1) cách thức hoạt động sản xuất: nghề buôn bán; (2) cách thức ăn, mặc, ở, đi lại: ẩm thực, phục sức, giao thông vận tải; (3) cách thức tổ chức xã hội cổ truyền: con người, quan hệ thân tộc; (4) tín ngưỡng, phong tục, lễ hội: các tín ngưỡng thờ cúng Bà Thiên Hậu, Quan Công, Ngọc Hoàng, Ông Bổn, Ông Thiên, Ông Địa, Thần Tài, Phật Bà Quan Âm, các trò cờ bạc; (5) ngôn ngữ: cấu tạo tính từ, động từ Đó là chưa kể các địa danh (xin xem phụ lục). Đối với văn hóa Khmer, người Việt Nam Bộ cũng tiếp biến ít nhiều, nhất là ở miền Tây Nam Bộ. Trong đó, ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hóa Khmer đối với người Việt Na ... Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn đều là những lễ hội long trọng do nhân dân tổ chức, với sự bảo trợ của chính quyền địa phương. Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo bao gồm hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen; lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam; các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ; các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Công giáo, đạo Tin Lành Trong số đó, lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ 23/4 âm lịch ở núi Sam, Châu Đốc, một địa chỉ hành hương tiêu biểu của Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,9 triệu người hành hương và du khách (2008). Nam Bộ cũng có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, v.v.. Bên cạnh đó, Nam Bộ còn có một số thể loại văn học dân gian đặc sắc khác là nói vè, nói tuồng, nói thơ, những thể loại tự sự dân gian, thông tin nhanh những nỗi niềm, tâm sự. Trong đó, vè chiếm vị trí quan trọng, với những bài vè tiêu biểu như vè Chàng Lía, vè Trịnh Hâm, vè thầy Thông Chánh Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến tại Nam Bộ, với các truyện thơ nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương, Thạch Sanh - Lý Thông, Dương Ngọc, Hoàng Trừu, Tấm Cám, Hậu Vân Tiên Hình thức văn xuôi thì có các SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 70 truyện dân gian phản ánh sự nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử. Các thể loại và tác phẩm văn học này đáp ứng rất tốt nhu cầu của người bình dân Nam Bộ ít chữ nghĩa trong buổi đầu khai hoang lập ấp. Cuối thế kỷ XIX, loại hình đờn ca tài tử có nguồn gốc từ nhạc lễ và ca Huế, đã phát sinh ở Gia Định rồi lan khắp Nam Kỳ, thu hút hàng ngàn nghệ sĩ, nghệ nhân, người mộ điệu. Cuối năm 2013, đờn ca tài tử Nam Bộ, với phạm vi phổ biến lên đến 21 tỉnh thành Nam Bộ và lân cận, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Từ đờn ca tài tử, loại hình ca ra bộ hình thành, và từ đó phát sinh loại hình sân khấu cải lương ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở khai thác đặc điểm ngữ âm Nam Bộ và những thành tựu của ca nhạc, sân khấu dân gian và đờn ca tài tử Nam Bộ, cùng với sự tiếp biến loại hình sân khấu kịch nói phương Tây, cải lương đã nhanh chóng trở thành một trong ba loại hình sân khấu dân tộc phổ biến ở Việt Nam. Hát bội từ miền Trung đưa vào Nam Bộ cũng tìm được đất diễn là các lễ hội Kỳ Yên, lễ hội Nghinh Ông. Bên cạnh đó, từ thế kỷ XVIII, văn hóa bác học ở Nam Bộ đã bắt đầu phát triển với Tao đàn Chiêu Anh Các, Bình Dương Thi xã, Bạch Mai Thi xã, trường tư thục của Gia Định Xử sĩ Võ Trường Toản ở Hoà Hưng Tao đàn Chiêu Anh Các còn để lại tác phẩm Hà Tiên thập vịnh. “Gia Định tam gia” gồm Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh là tác giả các công trình biên khảo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Gia Định Thành thông chí Tiến sĩ đầu tiên của Nam Bộ là Phan Thanh Giản là Tổng tài biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trong thời kỳ cận đại, do Nam Kỳ tiếp nhận văn hóa Pháp sớm nhất, nên các thể loại văn học, truyền thông hiện đại như tiểu thuyết, truyện ngắn, báo chí cũng ra đời sớm nhất Việt Nam. Năm 1865, tờ Gia Định Báo viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Hán, đã ra số đầu tiên. Năm 1887, Nam Kỳ có cuốn tiểu thuyết đầu tiên là Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, do nhà J. Linage, Libraire- Éditeur (đường Catinat, Sài Gòn) xuất bản. Truyện được viết bằng chữ Quốc ngữ, dài hơn 50 trang, có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết phương Tây, với nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Tiếp đó là các tác gia tiểu thuyết: Trần Chánh Chiếu với Hoàng Tố Anh hàm oan, Trương Duy Toản với Phan Yên ngoại sử, và đặc biệt là Hồ Biểu Chánh với một văn nghiệp cự phách: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn, 12 vở kịch và ca kịch, 5 tập tản văn và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu và phê bình Bằng một thứ ngôn ngữ Nam Bộ thuần thục của những năm đầu thế kỷ XX, các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã phản ánh sâu sắc đời sống văn hoá, phong tục tập quán và tâm lý, tính cách của con người Nam Bộ. Bên cạnh đó còn có những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu nổi tiếng khác, như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Thông, Trần Chánh Chiếu, Sương Nguyệt Ánh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, v.v.. Là vùng đất mới nhưng Nam Bộ cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử - văn hoá. Trước hết là các cơ sở thờ tự như đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở Tây Ninh; chùa Bà Thiên Hậu ở Bình Dương; đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; lăng Ông Lê Văn Duyệt, chùa Ông, chùa Bà ở thành phố Hồ Chí Minh; lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định, lăng Tứ Kiệt ở Tiền Giang; Văn Miếu ở Vĩnh Long; lăng và đền thờ Thoại Ngọc Hầu, miễu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc; đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá Kế tiếp là các di tích quân sự như Rạch Gầm - Xoài Mút, luỹ Pháo Đài, Ấp Bắc ở Tiền Giang, v.v.. Gần đây, một số địa phương ở Nam Bộ đã tiến hành phục dựng, trùng tu các di tích này để tôn vinh những người có công đối với lịch sử và văn hóa của vùng đất phương nam. 4. Kết luận Qua những điều phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, hai nhân tố địa lý tự nhiên và giao lưu TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 Trang 71 văn hóa đã phối hợp chặt chẽ để vừa phát huy, vừa biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trên địa bàn Nam Bộ. Nó buộc văn hóa Việt cũng như văn hóa của các cư dân khác sinh tụ nơi đây phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị không còn phù hợp, sáng tạo và tiếp biến những giá trị mới giúp con người có thể tồn tại và phát triển trong môi trường mới. Điều kiện địa lý tự nhiên đa dạng, phối hợp với ảnh hưởng chi phối của văn hóa Việt, đã làm phát triển ở nơi đây một truyền thống văn hóa đồng bằng song hành với văn hóa biển. Đây là một truyền thống kế tục truyền thống của vùng văn hóa đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ. Nhưng trong điều kiện đồng bằng châu thổ rộng lớn có biển bao quanh của địa bàn Nam Bộ, cả hai truyền thống văn hóa đồng bằng và văn hóa biển của di dân người Việt đã được phát huy đến mức tối đa, tạo nên sự khác biệt đáng kể so với vùng văn hóa đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ. Điều kiện giao lưu văn hóa sôi động đã làm biến đổi sâu sắc văn hóa của tất cả các tộc người nơi đây, kể cả văn hóa Việt. Nam Bộ là nơi duy nhất ở Việt Nam mà tộc người Việt cùng chia sẻ không gian văn hóa đồng bằng với ba tộc người thiểu số có nền văn hóa phát triển: Hoa, Khmer, Chăm; chưa kể các nhóm cư dân khác. Đây cũng là nơi mà người Việt tiếp xúc thuận lợi nhất với Đông Nam Á, và là nơi văn hóa Việt tiếp xúc lâu dài nhất với văn hóa phương Tây. Chính vì vậy, mặc dù các vùng văn hóa đồng bằng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đều có tiếp biến văn hóa của các tộc người khác nhau, nhưng chỉ ở Nam Bộ văn hóa các tộc người thiểu số cộng cư và văn hóa nước ngoài mới đủ sức khúc xạ văn hóa của cư dân Việt trong vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa quen vừa lạ đối với chính người Việt đến từ miền Bắc, miền Trung. Cultural environment and the new face of Southern Vietnam culture Ly Tung Hieu University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: From the perspectives of cultural geography, systematic approach, and ethnolinguistics, the paper examines the impact of two factors of natural geography and cultural exchanges on the change of Vietnam traditional culture in Southern Vietnam. Natural geographic diversity, in collaboration with the dominant influence of Vietnamese culture, has developed here the tradition of plain culture parallel with sea culture. Vibrant cultural exchange has made a profound cultural transformation of all ethnic groups here, including Vietnamese culture. Therefore, in order to properly understand, correctly interpret the formation, change of ethnic cultures and region culture in Southern Vietnam,first of all we need to consider the impact of the two factors on subjects of ethnic cultures and their cultural activities here. Keywords: cultural geographic perspective, systematic perspective, ethnolinguistic perspective, conditions of natural geography, conditions of cultural exchange, acculturation, cultural environment, cultural activities, Viet culture, Southern Vietnam culture. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đinh Thị Dung (2008), Địa văn hoá và các vùng văn hoá Việt Nam, bài giảng lớp Cao học văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh. [2]. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 6, NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học. [3]. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học Xã hội. [4]. Lê Trung Hoa (2003), Văn hoá Nam Bộ, bài giảng lớp Cao học văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh. [5]. Lý Tùng Hiếu (2009), “Văn hoá Nam Bộ: phiên bản mới của văn hoá truyền thống Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập, do UBND tỉnh Đồng Nai, BCN Chương trình KX.03/06-10 và Khoa Văn hoá học Trường ĐH KHXH-NV, ĐHQG-HCM tổ chức, Biên Hoà, 17-19/9/2009. [6]. Lý Tùng Hiếu (2012a), Ngôn ngữ - văn hoá vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, ISBN: 9786045804193, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. [7]. Lý Tùng Hiếu (2012b), “Diện mạo văn hoá đa dân tộc - đa tôn giáo ở An Giang qua khảo sát điền dã”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn (Annals of USSH), số 56 (9/2012), trang 25-40; 1/11/2012. [8]. Lý Tùng Hiếu (2012c), “Văn hoá và hệ thống văn hoá”, Tạp chí Khoa học Văn hoá và Du lịch, số 7 (61), 11/2012, trang 19-28; 12/12/2012. [9]. Lý Tùng Hiếu & Lê Trung Hoa (2013), Văn hoá Việt Nam qua ngôn ngữ, giáo trình đại học, Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh. [10]. Lý Tùng Hiếu (2014a),“Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan”, Thời sự Thần học, chủ đề Phụng vụ & lòng đạo đức bình dân, số 64, tháng 5/2014, Trung tâm Học vấn Đa Minh, TP. Hồ Chí Minh, trang 187-211. [11]. Lý Tùng Hiếu (2014b), Các vùng văn hoá Việt Nam, giáo trình đại học, Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Văn hoá TP. Hồ Chí Minh. [12]. Lý Tùng Hiếu (2014c), “Những ảnh hưởng của văn hoá Chăm đối với văn hoá Việt và dấu ấn trong ngôn ngữ”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, ISSN: 1859-0128, tập 17, số X3-2014, tháng 1/2015, trang 101-122. [13]. Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm 1945), NXB Khoa học Xã hội. [14]. Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khmer (ngữ âm - từ vựng - ngữ pháp), NXB Khoa học Xã hội. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 Trang 73 PHỤ LỤC Bảng 1. So sánh từ vựng tiếng Hoa và từ vựng gốc Hoa trong tiếng Việt Nam Bộ TT Tiếng Hoa Nam Bộ Tiếng Việt Nam Bộ Cách thức hoạt động sản xuất 1 biền “biên” biền 2 chạp phô “tạp hoá” chạp phô 3 đìa “trì” đìa 4 thối “thoái” thối 5 tiệm “điếm” tiệm Cách thức ăn, mặc, ở, đi lại 6 bò bía “bạc bỉnh” bò bía 7 chí mạ phủ chí mạ phủ 8 dẩm chẩu “ẩm tửu” nhậu 9 giò chá quảy “du tạc quỷ” giò chá quảy 10 há cảo há cảo 11 hủ qua “khổ qua” hủ qua 12 hủ tíu hủ tíu 13 lào táo xa “lục đậu sa” lục tào xá 14 lạp xưởng “lạp trường” lạp xưởng 15 lẩu “lô” lẩu 16 ngầu dục phảnh “ngưu nhục bỉnh” phở 17 pò chài (ghe) chài 18 tàu hủ “đậu hủ” tàu hủ 19 thèo lèo “trà liệu” thèo lèo 20 xá bấu, xá bú xá bấu, xá bú 21 xá xẩu xá xẩu 22 xì dầu xì dầu 23 xí quách “trư cốt” xí quách 24 xíu mại xíu mại SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 74 25 xực “thực” xực 26 xùn “thuyền” xuồng Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền 27 cắc chú “khách trú” cắc chú 28 chế “tỷ” chế 29 củ “cữu” củ 30 hia “huynh” hia 31 má “mẫu” má 32 tía “phụ” tía 33 xếnh xáng “tiên sinh” xếnh xáng 34 ý “di” ý Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội 35 Bổn Đầu Công Ông Bổn 36 dách-dì-xám “nhất-nhị-tam” dách-dì-xám, xìn xầm 37 dì dách “nhị nhất” dì dách 38 hui nhị tì “quy nghĩa địa” hui nhị tì 39 lì xì “lợi thị” lì xì 40 Ngọc Hoàng Ngọc Hoàng 41 Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần Thần Tài 42 nhị tì “nghĩa địa” nhị tì 43 Quan Thánh Đế Quân, Quan Công Quan Công 44 Quán Thế Âm Bồ Tát Phật Bà Quan Âm 45 tài xiểu “đại tiểu” tài xiểu 46 tẩy chay “để chế” tẩy chay 47 Thiên Hậu Thánh Mẫu Bà Thiên Hậu 48 Thiên Quan Tứ Phước Ông Thiên 49 Thổ Địa Bản Gia Ông Địa 50 xập xám “thập tam” xập xám Ngôn ngữ 51 dách “nhất” (số) dách TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X4-2015 Trang 75 52 dách lầu “nhất lưu” dách lầu 53 hên “hạnh” hên 54 xập xí xập ngầu “thập tứ thập ngũ” xập xí xập ngầu 55 xẩy “tử” (hết) xẩy, xí (lắt léo) 56 xui “tai” xui Nguồn: Ngữ liệu đưa vào bảng đối chiếu này do tác giả sàng lọc từ: Lý Tùng Hiếu & Lê Trung Hoa [2013], Hoàng Phê cb [1998], Huỳnh Công Tín [2007]. Ngữ liệu tiếng Hoa và tiếng Việt đều được ghi bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng mẫu tự La Tinh và gần gũi với hình thức phát âm thực tế của người Hoa (chủ yếu là tiếng Quảng Đông), người Việt. Bảng 2. So sánh từ vựng tiếng Khmer và từ vựng gốc Khmer trong tiếng Việt Nam Bộ TT Tiếng Khmer Tiếng Việt Nam Bộ Cách thức hoạt động sản xuất 1 bâng bưng 2 kanchê cần xé 3 kantuok chùm giuộc 4 lung lung 5 piêm vàm 6 ping pong tầm vông 7 pra (cá) tra 8 prêk rạch 9 sanen xà nen 10 tnôt thốt nốt Cách thức ăn, mặc, ở, đi lại 11 krang cà ràng 12 nop nóp 13 prahoc (mắm) bò hóc 14 pro ot (mắm) bò ót 15 sarong xà rông 16 sòm lo ko kô (canh) sim lo Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền 17 lôk lục 18 ph:um phum 19 srok sóc Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X4-2015 Trang 76 20 (tuk) ngua (ghe) ngo 21 ne-ak ta Ông Tà 22 ram vong lâm thôn 23 sarvan xà quần Ngôn ngữ 24 beh buôi “lẻo mép” bãi buôi 25 chah “già” (già) chác 26 ên “một mình” ên, (mình) ên 27 kmêng “trẻ” (trẻ) măng 28 knanh “bực mình” cà nanh 29 lắ-ất “nhỏ, bé” lắt chắt, (chuột) lắt 30 mêk “trời” mèng (ơi) 31 mêk đây “trời đất” mèng đéc (ơi) 32 nah, na “nhé, đấy” nà 33 têch “ít” (ít) xịt 34 thom “to, lớn” sồn, sồn sồn, (lớn) xộn Nguồn: Ngữ liệu đưa vào bảng đối chiếu này do tác giả sàng lọc từ: Thái Văn Chải [1997], Hoàng Phê cb [1998], Huỳnh Công Tín [2007]. Ngữ liệu tiếng Khmer và tiếng Việt đều được ghi bằng chữ Quốc ngữ, sử dụng mẫu tự La Tinh và gần gũi với hình thức phát âm thực tế của người Khmer, người Việt.
File đính kèm:
- moi_truong_van_hoa_va_dien_mao_moi_cua_van_hoa_nam_bo.pdf