Một số vấn đề trong kiểm tra, đối chiếu thuế qua công tác kiểm toán ngân sách địa phương

Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước số 1500, mục 22 quy định: “Kiểm tra, đối chiếu là việc nghiên cứu, xem xét sổ sách, ghi chép và các hồ sơ tài liệu khác trên cơ sở đó để đánh giá, xác nhận về nội dung kiểm toán so với tiêu chí kiểm toán đã xác định. Việc kiểm tra, đối chiếu bao gồm kiểm tra tài liệu, sổ kế toán, chứng từ, hiện vật có thể từ trong hoặc ngoài đơn vị. Việc kiểm tra, đối chiếu tài liệu, sổ kế toán và chứng từ cung cấp các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy khác nhau, tùy thuộc vào nội dung, nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán và tùy thuộc vào tính hữu hiệu của các kiểm soát của đơn vị đối với quá trình tạo lập tài liệu, sổ kế toán, chứng từ thuộc nội bộ đơn vị. Chẳng hạn, về thủ tục kiểm tra trong thử nghiệm kiểm soát là kiểm tra tài liệu, sổ kế toán và chứng từ để thu thập bằng chứng về việc phê duyệt. Việc kiểm tra các tài sản hữu hình có thể cung cấp bằng chứng đáng tin cậy về sự hiện hữu của tài sản, nhưng không hẳn là bằng chứng đủ tin cậy về quyền sở hữu và giá trị của tài sản.”

Như vậy, có thể hiểu kiểm tra, đối chiếu thuế là hoạt động xem xét, đánh giá của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế,

phí và lệ phí (gọi chung là thuế).

pdf 7 trang yennguyen 8340
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề trong kiểm tra, đối chiếu thuế qua công tác kiểm toán ngân sách địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề trong kiểm tra, đối chiếu thuế qua công tác kiểm toán ngân sách địa phương

Một số vấn đề trong kiểm tra, đối chiếu thuế qua công tác kiểm toán ngân sách địa phương
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 21Số 122 - tháng 12/2017
MOÄT SOÁ VAÁN ÑEÀ TRONG KIEÅM TRA,
ÑOÁI CHIEÁU THUEÁ qUA COâNG TAÙC
KIEÅM TOAÙN NGAâN SAÙCH ÑÒA pHÖÔNG
ThS. PHẠM NGọC TUấN
ThS. NGUYỄN MAI LIÊN
ThS. Vũ HOÀNG ANH*
*Kiểm toán nhà nước Khu vực VI
Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước số 1500, mục 22 quy định: “Kiểm tra, đối chiếu là việc nghiên cứu, xem xét sổ sách, ghi chép và các hồ sơ tài liệu khác trên cơ sở đó để đánh giá, xác nhận về nội dung kiểm toán so với tiêu chí kiểm toán đã xác định. Việc kiểm tra, đối chiếu bao gồm kiểm tra tài liệu, sổ kế toán, chứng từ, hiện vật có thể từ trong hoặc ngoài 
đơn vị. Việc kiểm tra, đối chiếu tài liệu, sổ kế toán và chứng từ cung cấp các bằng chứng kiểm toán có độ 
tin cậy khác nhau, tùy thuộc vào nội dung, nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán và tùy thuộc vào tính hữu 
hiệu của các kiểm soát của đơn vị đối với quá trình tạo lập tài liệu, sổ kế toán, chứng từ thuộc nội bộ đơn 
vị. Chẳng hạn, về thủ tục kiểm tra trong thử nghiệm kiểm soát là kiểm tra tài liệu, sổ kế toán và chứng từ 
để thu thập bằng chứng về việc phê duyệt. Việc kiểm tra các tài sản hữu hình có thể cung cấp bằng chứng 
đáng tin cậy về sự hiện hữu của tài sản, nhưng không hẳn là bằng chứng đủ tin cậy về quyền sở hữu và giá 
trị của tài sản.”
Như vậy, có thể hiểu kiểm tra, đối chiếu thuế là hoạt động xem xét, đánh giá của cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, 
phí và lệ phí (gọi chung là thuế).
Từ khóa: Đối chiếu thuế; kiểm toán ngân sách địa phương.
Several problems in testing, for tax assessment through local budget audit
Auditing Standard No. 1500, Section 22 states: “Inspection and reconciliation means the study, 
review of records and other documents on that basis for evaluation and certification of audit contents as 
compared with the determined auditing criteria. The inspection and reconciliation includes examination of 
documents, accounting books, vouchers and artefacts may be from inside or outside the audited entity. The 
audit, reconciliation of documents, accounting books and vouchers provide credible evidence of different 
reliability, depending on the content and origin of the audit evidence and depending on the effectiveness 
the control measures of the entity for the process of creating documents, accounting books, vouchers within 
the entity. For example, the test procedure in control tests is to check documents, accounting books and 
documents to gather evidence of approval. “The test of tangible assets may provide reliable evidence for the 
existence of assets, but not necessarily sufficiently reliable evidence on the ownership and value of property”. 
Thus, it is possible to understand that tax examination and reconciliation is the examination and 
evaluation by competent state agencies of agencies, organizations and individuals subject to the management 
in the implementation of the tax law, fees and charges (collectively referred to as taxes).
key words: Tax assessment, auditing local budget.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN22 Số 122 - tháng 12/2017
Những phát hiện cơ bản qua công tác kiểm 
tra, đối chiếu việc kê khai, tính thuế và nộp thuế
Về kê khai thuế
Qua quá trình kiểm tra hồ sơ khai thuế tại cơ 
quan thuế và kiểm tra, đối chiếu thuế cho thấy các 
sai phạm chủ yếu trong việc kê khai thuế như: không 
kê khai đầy đủ các chỉ tiêu trên mẫu tờ khai; không 
tách doanh thu và thuế GTGT hàng hóa dịch vụ 
bán ra của các loại thuế suất; số thuế TNCN kê khai 
không khớp với số thuế trong báo cáo tài chính và 
sổ sách kế toán; hàng tháng đã khấu trừ thuế thu 
nhập của người lao động nhưng chiếm dụng không 
kê khai và nộp vào Ngân sách nhà nước kịp thời 
đúng quy định; một số trường hợp người nộp thuế 
(NNT) không nắm rõ các quy định về thời hạn nộp 
hồ sơ khai thuế của từng sắc thuế để chủ động nộp 
trước ngày hết hạn, nên cơ quan thuế phải thường 
xuyên nhắc nhở và tính phạt chậm nộp.
Về tính thuế
 Có thể thấy một số hành vi vi phạm chủ yếu 
phát hiện qua kiểm tra, đối chiếu thuế như sau: 
Kê khai doanh thu theo giá trị đã thanh toán tiền 
mà không theo tiến độ nghiệm thu công trình bàn 
giao; xuất hàng hoá qua nghiệp vụ đổi hàng không 
kê khai thuế; xuất hàng hoá trả lương, thưởng cán 
bộ công nhân viên, hàng hoá để biếu tặng không 
đưa vào doanh thu tính thuế; xác định sai thuế 
suất; hoá đơn GTGT ghi giá bán trên hoá đơn 
không đúng với thực tế thu tiền; áp dụng thuế suất 
0% không đủ các điều kiện quy định. Kê khai thuế 
đối với các hóa đơn không đủ điều kiện khấu trừ 
thuế theo quy định; kê khai hoá đơn GTGT đầu 
vào trùng lắp nhiều lần trong kỳ hoàn thuế; kê khai 
doanh thu thanh toán qua ngân hàng của các kỳ 
hoàn thuế trước; kê khai hoàn thuế các hoá đơn 
bất hợp pháp; kê khai các hoá đơn không phục vụ 
cho sản xuất kinh doanh; đưa vào khấu trừ đối với 
những hàng hoá phục vụ cho doanh thu không 
chịu thuế GTGT; không kê khai điều chỉnh giảm 
số thuế GTGT đã khấu trừ đối với hàng hoá, vật 
tư, nguyên liệu bị tổn thất đã được cơ quan Bảo 
hiểm hoặc tổ chức, cá nhân khác bồi thường, dẫn 
đến làm giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc làm 
tăng số thuế được hoàn. Kê khai sai, thiếu doanh 
thu tính thuế hoặc không trừ ra khỏi chi phí tính 
thuế đối với các khoản chi không được trừ khi tính 
thu nhập chịu thuế dẫn đến tính thiếu thuế TNDN; 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 23Số 122 - tháng 12/2017
Doanh nghiệp cố tình hạch toán tăng, giảm chi phí 
giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh được ưu 
đãi về thuế và không được ưu đãi thuế để làm giảm 
số thuế TNDN phải nộp theo hướng có lợi nhất.
Về nộp thuế
Nhiều đối tượng nộp thuế (ĐTNT) do chủ quan 
đến ngày cuối cùng mới đem nộp hồ sơ khai thuế 
dẫn đến tình trạng nghẽn tắc do quá đông người và 
không kịp nộp theo thời hạn quy định; không nắm 
rõ các quy định về thời hạn nộp thuế của từng sắc 
thuế để chủ động nộp trước ngày hết hạn; giấy nộp 
tiền vào ngân sách nhà nước, ghi nhầm tên người 
nộp là tên cá nhân đi nộp tiền; không ghi rõ tài 
khoản của cơ quan thuế trên giấy nộp tiền, thiếu 
quan tâm đến ý nghĩa của những mã hiệu mục lục 
ngân sách nhà nước có liên quan để ghi cho đúng.
Hầu hết các ĐTNT được kiểm tra, đối chiếu đều 
có sai phạm, chứng tỏ việc lập kế hoạch và thực 
hiện kiểm tra, đối chiếu đối với NNT đã có kết quả 
rõ rệt, không còn kiểm tra tràn lan, mà dựa trên cơ 
sở thu thập thông tin, phân tích rủi ro, đem lại hiệu 
quả cao. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, đối chiếu 
thuế trong kiểm toán ngân sách địa phương vẫn 
còn nhiều vấn đề đặt ra.
Về cơ sở pháp lý và các văn bản hướng dẫn công 
tác kiểm tra đối chiếu thuế
Khi kiểm toán công tác quản lý thu thuế, KTNN, 
thông qua cơ quan quản lý thuế, yêu cầu người 
nộp thuế cung cấp các tài liệu nhằm bổ sung bằng 
chứng cho các xét đoán chuyên môn của KTV. Ở 
đây, người nộp thuế không phải là đối tượng kiểm 
toán trực tiếp của KTNN mà là “tổ chức, cá nhân 
có liên quan”. Cơ sở pháp lý của việc kiểm tra, đối 
chiếu là khoản 2, điều 11, Luật KTNN 2015, theo 
đó, KTNN có quyền “Yêu cầu đơn vị được kiểm 
toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy 
đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ 
cho việc kiểm toán”. Đồng thời chúng ta cũng có 
quy định về trách nhiệm của “cơ quan, tổ chức, cá 
nhân có liên quan” đến hoạt động KTNN tại Điều 
68: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có 
liên quan đến hoạt động KTNN “(1) Cơ quan, tổ 
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN 
có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời 
thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, KTV 
nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về 
tính chính xác, trung thực, khách quan của thông 
tin, tài liệu đã cung cấp; (2) Cơ quan, tổ chức, cá 
nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện kết 
luận và kiến nghị kiểm toán của KTNN, đồng thời 
gửi báo cáo kết quả cho KTNN; (3) Bộ Tài chính, 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan khác của Chính 
phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc 
trung ương có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp 
thời các thông tin, tài liệu để phục vụ cho KTNN 
thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 4 Điều 10 
của Luật này.”
Công văn số 275/KTNN-CĐ ngày 18/3/2016 
của KTNN hướng dẫn nâng cao hiệu lực công tác 
kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp 
thuế khi kiểm toán tại cơ quan thuế, cơ quan hải 
quan trong cuộc kiểm toán ngân sách, tiền và tài 
sản nhà nước tại tỉnh, thành phố thuộc trung ương. 
Theo đó, việc kiểm tra, đối chiếu “chỉ được thực 
hiện khi kiểm toán tại cơ quan thuế thấy có nội 
dung chưa rõ hoặc có chưa chấp hành đầy đủ nghĩa 
vụ nộp ngân sách”. Như vậy, mục tiêu của việc kiểm 
tra đối chiếu là nhằm thu thập các bằng chứng cho 
các đánh giá của KTV về việc người nộp thuế chưa 
chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách. Mục 
tiêu này có điểm tương đồng với mục tiêu của 
thanh tra ngành thuế. 
Như vậy, về mặt pháp lý, KTNN chưa xây dựng 
các văn bản quy phạm dưới luật quy định cụ thể về 
quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có 
liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN, 
chưa có các chế định đủ mạnh để xử lý các tình 
huống phát sinh gây ảnh hưởng hoạt động kiểm 
toán của KTNN như việc đối tượng nộp thuế 
không hợp tác, tìm mọi cách trì hoãn, kéo dài thời 
gian cung cấp hồ sơ, tài liệu làm ảnh hưởng đến 
kế hoạch đối chiếu của Đoàn kiểm toán, hạn chế 
KTV đưa ra ý kiến của mình một cách đầy đủ, 
thuyết phục. Bên cạnh đó, Luật KTNN chưa quy 
định cụ thể nhiệm vụ kiểm toán thuế của cơ quan 
KTNN cũng như thẩm quyền kiểm toán nghĩa vụ 
nộp NSNN của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc 
mọi thành phần kinh tế, nên phạm vi kiểm toán 
còn hẹp, chưa bao quát hết các đối tượng nộp thuế. 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN24 Số 122 - tháng 12/2017
Vì vậy, các kiến nghị trực tiếp đối với người nộp 
thuế chưa nhiều, chưa tương xứng với yêu cầu ngày 
càng cao khi cơ chế quản lý thuế chuyển từ thực 
hiện theo thông báo thuế của cơ quan quản lý thuế 
sang tự kê khai, tự nộp thuế.
Đối với Công văn số 275/KTNN-CĐ do tương 
đồng về mục tiêu nên phạm vi giữa công tác đối 
chiếu và kiểm tra, thanh tra không có ranh giới rõ 
ràng. Chẳng hạn, đối chiếu thuế thu nhập doanh 
nghiệp phải nộp, KTV phải kiểm tra các khoản 
doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Để kiểm 
tra được tính phù hợp của các chỉ tiêu doanh thu, 
chi phí, người đối chiếu phải được kiểm tra các tài 
khoản liên quan như tiền, công nợ, tài sản, liên 
quan hầu hết đến các khoản mục trên báo cáo tài 
chính của đơn vị. Tuy nhiên, giới hạn về thời gian 
đối chiếu dẫn đến khả năng bằng chứng thu thập 
không đầy đủ về số lượng và chất lượng.
Về công tác phối hợp giữa cơ quan thuế trong 
quá trình kiểm tra, đối chiếu thuế
Việc lựa chọn doanh nghiệp để thực hiện kiểm 
tra, đối chiếu thuế dựa trên cơ sở phân tích Báo cáo 
tài chính, hồ sơ khai thuế của người nộp thuế tại cơ 
quan thuế; tuy nhiên sự phối hợp của cơ quan thuế 
tại một số nơi chưa tốt, KTNN chưa thể truy cập và 
khai thác được dữ liệu quản lý của ngành Thuế mà 
chủ yếu phụ thuộc vào việc cung cấp tài liệu của cơ 
quan thuế trong khi đó số lượng người nộp thuế 
lớn. Bên cạnh đó, việc chưa thừa nhận kết quả của 
KTNN tại biên bản đối chiếu thuế dẫn đến việc cơ 
quan thuế tiếp tục kiểm tra, thanh tra ĐTNT về 
nội dung kiểm toán viên đã thực hiện hoặc kiểm 
tra sắc thuế khác trong cùng một năm cũng gây 
phiền hà cho đơn vị và chồng chéo trong công tác 
thanh, kiểm tra NNT. Hay như, việc KTNN không 
có quá trình khảo sát người nộp thuế trước khi 
đối chiếu, dẫn đến dễ bị chồng chéo với các cuộc 
thanh tra, kiểm tra của cơ quan khác, không đúng 
với Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ 
tướng Chính phủ.
Trong quá trình kiểm tra đối chiếu, khi Tổ kiểm 
toán yêu cầu phải có cán bộ Thuế tham gia cùng, cơ 
quan Thuế thường từ chối do phải giải quyết công 
việc thường xuyên theo nhiệm vụ. Mặt khác, Biên 
bản kiểm tra đối chiếu của KTNN yêu cầu phải 
có lãnh đạo cơ quan Thuế ký cũng đã gặp phải rất 
nhiều ý kiến không đồng tình từ phía ngành Thuế 
với lý do: Kiểm toán có con dấu, có tính pháp lý 
cao nên độc lập ban hành Quyết định đối chiếu; 
Biên bản đối chiếu Tổ kiểm toán ký trực tiếp với 
doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm. Thực tế, 
tại nhiều Biên bản đối chiếu cơ quan Thuế có ký 
nhưng chỉ xác nhận Kiểm toán nhà nước có làm 
việc với doanh nghiệp; hoặc cử cán bộ thuế ký 
nhưng chỉ xác nhận chữ ký của Ông (bà) là cán bộ 
của Cơ quan Thuế hoặc cán bộ Thuế đi cùng chỉ 
ký xác nhận việc dẫn Tổ kiểm toán xuống làm việc 
mà không xác định kết quả đúng sai. Dẫn đến tình 
trạng nhiều trường hợp đơn vị được kiểm tra đối 
chiếu chưa đồng nhất với kết quả kiểm toán và có 
văn bản kiến nghị lên KTNN về kết quả kiểm toán.
Năng lực của kiểm toán viên làm công tác đối 
chiếu thuế
Năng lực của KTV khi thực hiện đối chiếu còn 
hạn chế cả về số lượng và chất lượng trong khi thời 
gian kiểm tra, đối chiếu ngắn, khối lượng công việc 
nhiều. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các 
KTV chưa đồng đều, phương pháp tiếp cận và thu 
thập, phân tích hồ sơ để đánh giá rủi ro, sai phạm 
có thể xảy ra khi lựa chọn doanh nghiệp kiểm tra, 
đối chiếu chưa cao. Một số KTV mới vào ngành 
còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ và chưa 
trang bị đầy đủ kỹ năng đọc hiểu và phân tích báo 
cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế để đánh giá 
đúng các rủi ro trên báo cáo của người nộp thuế từ 
đó dẫn đến việc lựa chọn các doanh nghiệp có rủi 
ro cao về thuế vẫn còn chưa sát với tình hình thực 
tế. Thậm chí khi đã lựa chọn đúng đối tượng nhưng 
do đối tượng nộp thuế rất tinh vi trong việc thực 
hiện hành vi kê khai không đúng hoặc cố tình kê 
khai sai để trốn thuế do đó không phát hiện được 
các gian lận và sai sót.
Giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác 
kiểm tra, đối chiếu thuế qua kiểm toán ngân 
sách địa phương
Trong Kiểm toán ngân sách địa phương, công 
tác đối chiếu thuế là thành phần quan trọng trong 
một cuộc kiểm toán. Công tác đối chiếu thuế được 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 25Số 122 - tháng 12/2017
thực hiện trong quá trình kiểm toán tổng hợp thu 
tại cơ quan Thuế. Trước những hạn chế, bất cập 
như trên, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp 
tháo gỡ trong công tác kiểm tra, đối chiếu thuế qua 
kiểm toán ngân sách địa phương: 
Thứ nhất, hoàn thiện các văn bản pháp luật 
liên quan đến công tác kiểm tra, đối chiếu thuế 
Bổ sung, sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Đề xuất kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị 
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 
KTNN để có cơ sở pháp lý xử phạt những hành vi 
không chấp hành kiểm tra, đối chiếu thuế, không 
cung cấp thông tin, tài liệu, không thực hiện kết 
luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN góp phần 
quan trọng vào việc tăng cường hiệu lực hiệu quả 
trong hoạt động KTNN. Nghị định này cần tập 
trung vào 03 nhóm hành vi vi phạm sau đây: hành 
vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, 
cá nhân có liên quan vi phạm các điều cấm, vi 
phạm các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của Luật 
KTNN trong quá trình thực hiện kiểm toán; hành 
vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, 
cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận, 
kiến nghị của KTNN; hành vi vi phạm của đơn vị 
được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan 
trong công khai kết quả kiểm toán.
Xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Kiểm 
toán nhà nước như cần ban hành văn bản hướng 
dẫn cụ thể khoản 1 Điều 68 nhằm quy định rõ hơn 
quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá 
nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán, quy 
định về cách thức cung cấp, thời gian cung cấp số 
liệu, hình thức cung cấp cho đầy đủ hơn hay ban 
hành văn bản để hướng dẫn cụ thể khoản 2 Điều 
68 nhằm quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ 
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (về cách thức 
thực hiện, thời gian thực hiện kết luận kiến nghị) 
cho đầy đủ tính pháp lý, làm căn cứ để thực hiện 
trên thực tế; bổ sung, điều chỉnh một số mẫu biểu 
kèm theo tại Công văn số 275/KTNN-CĐ như: ban 
hành Mẫu thông báo các doanh nghiệp được kiểm 
tra, đối chiếu; thời gian kiểm tra, đối chiếu khi 
trình phê duyệt cần để các tổ kiểm toán chủ động 
theo thực tế; tại Biên bản kiểm tra, đối chiếu không 
quy định bắt buộc cơ quan Thuế ký nếu không cử 
cán bộ tham gia; ban hành các quy định về thời 
hạn kiểm toán, trong một số lĩnh vực. Ví dụ lĩnh 
vực kiểm toán tổng hợp thu, kiểm toán viên có thể 
làm việc tại trụ sở cơ quan Kiểm toán nhà nước để 
kiểm tra, tra cứu thông tin NNT, kiểm tra thuế
nên thời hạn kiểm toán có thể xuyên suốt quá trình 
quản lý thu của cơ quan thuế; ban hành mới hoặc 
bổ sung, sửa đổi Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước, 
quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán, Quy chế tổ 
chức và hoạt động của Đoàn KTNN, Quy trình, 
phương pháp kiểm tra, đối chiếu thuế...
Xây dựng quy trình kiểm tra, đối chiếu thuế 
nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra đối chiếu thuế, 
đồng thời giúp cho kiểm toán viên xử lý tình huống 
trong trường hợp phát hiện trùng lặp, chồng chéo 
trong kiểm tra, đối chiếu thuế. Quy trình kiểm 
tra, đối chiếu thuế phải trên cơ sở căn cứ vào hệ 
thống thông tin về doanh nghiệp, hồ sơ đánh giá về 
doanh nghiệp, thực hiện việc đánh giá, phân tích 
theo hệ thống tiêu chí đã được xây dựng để xếp loại 
mức độ rủi ro, tín nhiệm. 
Thứ hai, thực hiện tốt khâu khảo sát lập kế 
hoạch kiểm tra, đối chiếu thuế
Để thực hiện tốt, có hiệu quả công tác kiểm 
toán thuế trong bối cảnh số lượng doanh nghiệp 
lớn, kiểm toán viên có hạn, trước hết cần phải lựa 
chọn đối tượng kiểm toán trong đó ưu tiên lựa 
chọn các doanh nghiệp có độ “rủi ro” cao (dễ có 
khả năng kê khai, nộp thuế không đầy đủ, doanh 
nghiệp có số thu nộp NSNN lớn); hoạt động có địa 
bàn rộng, đa dạng, phức tạp và cần làm tốt công 
tác thu thập, phân tích thông tin, cơ sở dữ liệu của 
doanh nghiệp. 
Để cân bằng giữa nguồn lực và kết quả công tác 
kiểm tra, đối chiếu, các Kiểm toán nhà nước khu 
vực phải lựa chọn áp dụng nguyên tắc quản lý rủi 
ro nhằm xây dựng các phương pháp quản lý cho 
tất cả các chức năng quản lý của mình. Đây là một 
phương pháp quản lý khoa học và hiệu quả để giải 
quyết bài toán thanh tra, kiểm tra, đối chiếu thuế 
trong điều kiện số lượng người nộp thuế ngày càng 
tăng lên nhanh chóng, mức độ quản lý ngày càng 
phức tạp do trình độ của người nộp thuế ngày càng 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN26 Số 122 - tháng 12/2017
cao, các hoạt động kinh tế phát sinh ngày càng đa 
dạng và phong phú dẫn đến khối lượng công việc 
của công tác kiểm tra, đối chiếu thuế tăng lên vượt 
quá khả năng và nguồn lực bị hạn chế nhất định 
của các cơ quan quản lý.
+ Các tiêu thức lựa chọn: Cần sử dụng các tiêu 
thức phân tích, đánh giá rủi ro để lựa chọn các 
người nộp thuế cụ thể tương ứng với các loại hình 
thanh tra, kiểm tra khác nhau.
+ Phạm vi và tính thường xuyên: NNT có quy 
mô lớn cần được kiểm tra, đối chiếu thường xuyên 
và phạm vị kiểm tra rộng hơn các NNT khác. Với 
các NNT này có thể thực hiện kiểm tra, đối chiếu 
hàng năm.
+ Loại hình kiểm tra, đối chiếu: Chương trình 
kiểm tra, đối chiếu sẽ bao gồm các cuộc kiểm tra 
toàn diện (đối với tất cả các sắc thuế và các kỳ tính 
thuế), hoặc kiểm tra, đối chiếu hạn chế (chỉ kiểm 
tra, đối chiếu những phần có dấu hiệu nghi ngờ). 
+ Trao đổi thông tin: Cần tăng cường và liên tục 
việc thu thập, trao đổi và đối chiếu chéo thông tin 
giữa các NNT có quy mô lớn và các cơ quan Chính 
phủ khác cụ thể là với cơ quan thuế, Kho bạc và các 
bên thứ 3. 
+ Giám sát và rà soát đánh giá: Việc kiểm tra, 
đối chiếu các người nộp thuế lớn và các hoạt động 
kiểm tra, đối chiếu toàn diện đòi hỏi phải được 
giám sát và rà soát lại nhiều hơn so với kiểm tra, 
đối chiếu người nộp thuế quy mô vừa, nhỏ. NNT 
thuế lớn có thể đưa vào diện được kiểm toán trong 
cuộc kiểm toán ngân sách 
địa phương.
Bên cạnh đó, cần xây 
dựng hệ thống tiêu chí 
đánh giá, lựa chọn, xếp loại 
doanh nghiệp theo mức 
độ tín nhiệm tương ứng 
để lựa chọn đối tượng đưa 
vào kế hoạch kiểm tra, đối 
chiếu. Hệ thống tiêu chí 
này được xây dựng trên cơ 
sở: tình hình sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp 
(có các tiêu chí về doanh 
thu, chi phí, tỷ suất lợi nhuận), tình hình tài chính 
của doanh nghiệp (có các tiêu chí về tỷ suất thử 
nhanh, về vốn lưu động, vốn chủ sở hữu, vốn vay), 
tình hình tuân thủ nghĩa vụ thuế (có các tiêu chí 
về thuế phát sinh, thuế còn nợ, những ưu điểm và 
vi phạm qua các cuộc kiểm tra, đối chiếu thuế) và 
qua việc thu thập, xử lý các thông tin bên ngoài từ 
cơ quan thuế, Ngân hàng, Hải quan, Báo chí, các 
cơ quan bảo vệ pháp luật (có các tiêu chí về nợ xấu, 
khả năng trả nợ, nợ thuế hoặc trốn thuế xuất, nhập 
khẩu, làm ăn phi pháp, vi phạm pháp luật...). Theo 
đó chỉ tập trung vào việc kiểm tra, đối chiếu các 
doanh nghiệp đã được đánh giá, phân loại có mức 
độ tín nhiệm thấp và rất thấp.
Để kế hoạch kiểm tra, đối chiếu được xây dựng 
hiệu quả và đảm bảo người nộp thuế không bị thanh 
tra, kiểm tra trùng lắp bởi các cấp khác nhau và 
NNT không bị thanh tra, kiểm tra quá một lần về 
cùng một nội dung trong một năm cần xây dựng 
hoàn chỉnh dữ liệu thông tin doanh nghiệp trên địa 
bàn quản lý phục vụ cho công tác thu thập thông tin, 
phân tích lựa chọn doanh nghiệp lựa chọn đối chiếu.
Hồ sơ đánh giá về doanh nghiệp sẽ ghi chép 
tất cả những thông tin nổi bật và chủ yếu. Cho 
phép cơ quan Kiểm toán nhà nước nắm sâu hơn 
và toàn diện hơn về hoạt động của doanh nghiệp, 
phục vụ tối đa cho việc kiểm toán tổng hợp thu và 
phân tích, đánh giá, xếp loại mức độ tín nhiệm để 
lựa chọn đối tượng kiểm tra, đối chiếu thuế. Hồ sơ 
doanh nghiệp phải phản ánh đầy đủ các nội dung 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 27Số 122 - tháng 12/2017
chủ yếu: tình hình tổ chức và cơ cấu; các đối tác 
chủ yếu; kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp qua các năm; tình hình tài chính; 
tình hình tổ chức hạch toán kế toán; tình hình thực 
hiện nghĩa vụ thuế; những điểm nổi bật qua các 
cuộc kiểm toán, thanh tra, kiểm tra thuế; những 
thông tin nổi bật khác liên quan đến doanh nghiệp, 
mức độ tín nhiệm của cơ quan thuế đối với doanh 
nghiệp. Hồ sơ doanh nghiệp này phải được cập 
nhật và lưu trữ trên hệ thống máy tính vừa phục vụ 
cho công tác kiểm toán tổng hợp thu nói chung và 
công tác kiểm tra, đối chiếu thuế nói riêng. 
KTV cần tiếp cận với phần mềm quản lý rủi ro 
ngành thuế để có thể vận dụng xác định lựa chọn 
doanh nghiệp như cơ quan thuế lựa chọn trong 
công tác thanh tra, kiểm tra.
Thứ ba, tăng cường phối hợp với các cơ quan 
liên quan và ĐTNT
Tăng cường sự phối hợp với chính quyền địa 
phương, cơ quan thuế trong việc phối hợp kiểm 
tra, đối chiếu thuế như việc cung cấp tài liệu, kết 
nối thông tin, khai thác cơ sở dữ liệu của cơ quan 
thuế. Thường xuyên trao đổi và phối hợp tốt với 
chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo đôn 
đốc các cá nhân liên quan trong việc cung cấp, giải 
trình kịp thời các phát hiện tồn tại sai sót.
Đẩy mạnh tuyên truyền nhằm thay đổi nhận 
thức của ĐTNT về KTNN và hoạt động kiểm toán 
của KTNN đảm bảo việc tuân thủ chế độ chính 
sách của Nhà nước và chấp hành nghĩa vụ với 
NSNN của ĐTNT.
Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kỹ 
thuật phân tích cho lực lượng kiểm toán viên làm 
công tác lập kế hoạch kiểm tra, đối chiếu
Việc lựa chọn các đối tượng để lập kế hoạch 
thanh tra, kiểm tra không chỉ dựa vào mỗi dữ liệu, 
mà đó còn là kết quả của việc phân tích, đánh giá 
các dữ liệu của người nộp thuế. Để có thể lựa chọn 
được đúng người nộp thuế đưa vào kế hoạch kiểm 
tra trong mỗi cuộc kiểm toán cũng như để thực hiện 
kiểm tra, đối chiếu thuế hiệu quả thì KTV phải thực 
hiện được những yêu cầu: tập hợp đầy đủ các thông 
tin liên quan đến người nộp thuế; hiểu và áp dụng 
các tiêu thức lựa chọn người nộp thuế kiểm tra, đối 
chiếu; đưa ra quyết định lựa chọn trường hợp kiểm 
tra, đối chiếu thuế dựa trên những hiểu biết và sự 
đánh giá chuyên nghiệp về người nộp thuế. Điều 
này liên quan trực tiếp đến năng lực, trình độ của 
KTV, do đó cần tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kỹ 
thuật phân tích cho lực lượng kiểm toán viên làm 
công tác lập kế hoạch kiểm tra, đối chiếu:
+ Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ KTV theo hướng 
chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực chuyên môn 
sâu đảm bảo nắm được quy trình sản xuất, chế tạo 
sản phầm; nắm vững định mức kinh tế - kỹ thuật 
của khâu sản xuất sản phẩm của NNT. Xác định 
mối quan hệ hữu cơ qua các khâu để xem xét các 
gian lận và sai sót có thể xảy ra.
+ Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ KTV làm công 
tác kiểm tra, đối chiếu thuế các kỹ năng phân tích, 
đánh giá rủi ro để lựa chọn đúng người nộp thuế 
đưa vào kế hoạch kiểm tra, đối chiếu. Điều này sẽ 
góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đối 
chiếu thuế hạn chế được sự lãng phí về thời gian 
và nguồn lực của công tác kiểm tra, đối chiếu. Mặt 
khác kiểm toán viên cần phải có những kỹ năng về 
công nghệ thông tin để có thể khai thác và sử dụng 
được thông tin từ hệ thống cơ sở dữ liệu người nộp 
thuế và nâng cao hiệu quả công việc. Việc phân tích 
này còn giúp kiểm toán viên có những nghi nghờ 
về sự trùng lặp khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm 
tra, đối chiếu thuế.
+ Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, cập 
nhật kiến thức và tọa đàm trao đổi kinh nghiệm 
giữa các đơn vị trong toàn ngành để nâng cao kiến 
thức chuyên môn, nắm bắt các văn bản mới cho 
các KTV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Tổ chức Quốc hôi.;
2. Luật Tổ chức Chính quyền địa phương;
3. Luật Kiểm toán nhà nước 2015;
4. Chuẩn mực KTNN số 1500;
5. Công văn 275/KTNN-CV ngày 18/3/2016 
của Tổng KTNN.
6. Đề tài NCKH cấp cơ sở “Nâng cao hiệu quả 
công tác đối chiếu thuế trong Kiểm toán 
ngân sách địa phương”.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_trong_kiem_tra_doi_chieu_thue_qua_cong_tac_kie.pdf