Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

TÓM TẮT

Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa

được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế

độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng

lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam

(VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc

kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho

SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối

cảnh hiện nay. Mục tiêu của bài viết này nhằm xác định quan điểm của các kế toán trưởng SMEs về

VAS, về chất lượng thông tin báo cáo tài chính của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu

cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Dữ liệu thu thập thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 358

kế toán trưởng của SMEs ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận. Kết quả phân tích thống kê đã khẳng

định chất lượng thông tin báo cáo tài chính SMEs không đáng tin cậy và VAS chỉ phù hợp với SMEs

ở mức trung bình. Cho nên, SMEs ủng hộ xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs và có nhu

cầu áp dụng IFRS for SMEs khá cao. Kết quả phân tích này rất hữu ích cho các nhà chuyên môn

nghề nghiệp, các nhà ban hành quy định kế toán trong quá trình thay đổi, cải tiến các quy định về

kế toán cho SMEs Việt Nam.

pdf 14 trang yennguyen 4140
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
22
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NHẬN THỨC CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ 
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ NHU CẦU ÁP DỤNG 
CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
 Hồ Xuân Thủy*
TÓM TẮT
Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa 
được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế 
độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng 
lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam 
(VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc 
kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho 
SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối 
cảnh hiện nay. Mục tiêu của bài viết này nhằm xác định quan điểm của các kế toán trưởng SMEs về 
VAS, về chất lượng thông tin báo cáo tài chính của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu 
cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Dữ liệu thu thập thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 358 
kế toán trưởng của SMEs ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận. Kết quả phân tích thống kê đã khẳng 
định chất lượng thông tin báo cáo tài chính SMEs không đáng tin cậy và VAS chỉ phù hợp với SMEs 
ở mức trung bình. Cho nên, SMEs ủng hộ xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs và có nhu 
cầu áp dụng IFRS for SMEs khá cao. Kết quả phân tích này rất hữu ích cho các nhà chuyên môn 
nghề nghiệp, các nhà ban hành quy định kế toán trong quá trình thay đổi, cải tiến các quy định về 
kế toán cho SMEs Việt Nam.
Từ khóa: Chuẩn mực kế toán Việt Nam, báo cáo tài chính, SMEs, IFRS for SMEs
PERCEPTIONS OF SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES REGARDING 
VIETNAMESE ACCOUNTING STANDARDS AND THE NEED OF 
IMPLEMENTING THE INTERNATIONAL FINANCIAL REPORTING 
STANDARDS FOR SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES
ABSTRACT
The very first Vietnamese accounting standards (VAS) introduced in 2001 has remained 
without updates and modifications since then. Although the Ministry of Finance recently issued 
the Circular 200/2014/TT-BTC regarding entity accounting regulations with some updates in line 
with the IFRS, it was but a superficial instruction without rational modifications to the current 
* GV.NCS. Trường Đại học Kinh tế - Luật TP.HCM. Email: hoxuanthuy@uel.edu.vn
23
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
Vietnamese Accounting Standard (VAS). This fact has caused substantial difficulties to entities, in 
particular small and medium-sized entities (SMEs), when referring to legal procedures in daily 
accounting activities and hence has justified the current demand for researches about VAS for SMEs 
and the International Financial Reporting Standards (IFRS) for SMEs. This paper, therefore, aims 
to determine the general perceptions of Chief Accountants in many SMEs about VAS, the quality 
of recent financial reports of their SMEs, and the need for implementing IFRS for SMEs. Data are 
collected from questionnaires to 385 Chief Accountants of SMEs in HCM City and neighbouring 
provinces. Our analysis shows that financial reports from SMEs are of unreliable qualities and 
the level of compatibility of VAS to SMEs can only be rated “average”. Therefore, we conclude 
that SMEs are largely in favour of a separate set of accounting standards and that the need of 
implementing of IFRS for SMEs is considerably high. Our findings are particularly useful for 
professional experts and accounting regulators to amend and improve accounting regulations and 
policies for SMEs in Vietnam.
Keywords: Vietnamese accounting standards, financial reporting, SMEs, IFRS for SMEs
1. GIỚI THIỆU
SMEs là thành phần kinh tế nhiều tiềm 
năng và là xương sống cho sự phát triển của 
cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. 
Vì thế, thông tin kế toán được cung cấp bởi 
các doanh nghiệp (DN) này là đặc biệt quan 
trọng [24]. Chuẩn mực kế toán thích hợp sẽ 
giúp DN lập báo cáo tài chính (BCTC) có chất 
lượng đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho 
các đối tượng sử dụng thông tin. VAS được 
ban hành đầu tiên năm 2001. Mặc dù, VAS 
được xây dựng trên cơ sở của IFRS nhưng 
đã lạc hậu do không được cập nhật, sửa đổi 
trong một thời gian dài và còn khác biệt quá 
nhiều so với IFRS nên không thể đảm bảo 
cung cấp thông tin có thể so sánh với các DN 
khác trên thế giới. Trong thời gian vừa qua, 
Bộ Tài Chính (BTC) ban hành thông tư (TT) 
200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán 
DN [4], dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn 
với IFRS nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ 
thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ 
VAS. Hơn nữa, thông tư đề cập “những nội 
dung tại các thông tư hướng dẫn VAS không 
trái với TT 200/2014/TT-BTC thì vẫn còn 
hiệu lực”. Điều này gây khó khăn cho các 
DN khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý 
công việc kế toán, đặc biệt là SMEs trong quá 
trình áp dụng VAS vì BTC không quy định bỏ 
quyết định (QĐ) số 48/2006/QĐ-BTC mà chỉ 
yêu cầu SMEs tự dựa vào TT 200/2014/TT-
BTC để kế toán cho phù hợp. 
Mặt khác, SMEs Việt Nam (VN) ngày càng 
tăng cường tham gia vào các hoạt động quốc 
tế, yêu cầu thông tin tài chính minh bạch trở 
nên bức thiết. “Chiến lược kế toán- kiểm toán 
đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030” được Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt theo QĐ 480/2013/
QĐ-TTg cũng đã xác định quan điểm là “hoàn 
thiện khuôn khổ pháp lý hệ thống chuẩn mực”, 
“hòa nhập với thông lệ quốc tế” [10]. Vì thế, 
cũng như các quốc gia khác, Việt Nam cũng 
đang có những áp lực về hội tụ kế toán quốc tế. 
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện nghiên cứu 
về VAS và IFRS for SMEs dựa trên nhận thức 
của SMEs là thật sự cần thiết trong điều kiện 
hội tụ kế toán quốc tế diễn ra mạnh mẽ đồng 
thời IFRS for SMEs đã ban hành và được áp 
dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là 
các quốc gia đang phát triển. 
24
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Người tạo lập thông tin BCTC của SMEs 
là một trong những thành phần quan trọng nhất 
đóng vai trò quyết định sự thành công quá trình 
áp dụng VAS cũng như hội tụ với kế toán quốc 
tế ở VN. Bài viết này nhằm thu thập quan 
điểm của kế toán trưởng (KTT) SMEsvề VAS 
hiện hành, về chất lượng thông tin BCTC của 
SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu 
cầu của SMEs cần hội tụ với IFRS for SMEs. 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích 
thống kê dựa trên dữ liệu được thu thập thông 
qua bảng câu hỏi khảo sát 358 KTT SMEs ở 
TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An 
Kết quả nghiên cứu này thật sự cần thiết và thu 
hút sự quan tâm của các nhà chuyên môn nghề 
nghiệp kế toán và các nhà ban hành chuẩn 
mực trong quá trình xem xét, cải tiến các quy 
định kế toán cho SMEs VN vì thiếu hụt các 
nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho SMEs 
trong thời gian vừa qua.Đồng thời,kết quả của 
nghiên cứu cũng góp phần bổ sung thêm vào 
các nghiên cứu trước quan điểm về nhu cầu 
cần áp dụng IFRS for SMEs của một quốc gia 
đang phát triển với đặc thù áp dụng IFRS còn 
khá hạn chế như VN.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. VAS và các quy định pháp lý về kế 
toán cho SMES Việt Nam
Tại VN, SMEs đóng vai trò quan trọng 
trong nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập 
cho người lao động, và đóng góp cho ngân 
sách Nhà nước (NN). Vì thế, NN đã ban hành 
nhiều chính sách, quy định để hỗ trợ SMEs 
phát triển. Theo đó, xác định tiêu chí phân 
loại SMEs, bắt đầu bằng Công văn số 681/
CP-KTN ngày 20/6/1998 [13]. Theo quy định 
này, SMEs là DN có số lao động bình quân 
dưới 200 người và vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng. 
Tiếp sau, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 
23/11/2001 quy định tiêu chí chính thức phân 
loại SMEs cũng dựa trên vốn và lao động [12]. 
Đó là, SMEs là DN có vốn đăng ký không 
quá 10 tỷ đồng và số lao động không quá 300 
người. Hiện nay, SMEs đã được phân loại chi 
tiết hơn theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, chia 
thành 3 nhóm siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo từng 
lĩnh vực kinh doanh dựa vào số lượng lao 
động hoặc quy mô vốn xác định theo tổng tài 
sản trên bảng cân đối kế toán [11]. 
Song song đó, các quy định về kế toán 
liên quan đến SMEs cũng được ban hành. 
Đầu tiên phải kể đến là chế độ kế toán cho 
SMEs ban hành theo quyết định số 1171/TC/
QĐ-CĐKT ngày 23/12/1996 [8], sau đó là 
quyết định số 144/TC/QĐ-CĐKT quy định 
sửa đổi bổ sung chế độ kế toán theo quyết 
định 1171/TC/QĐ-CĐKT ngày 21/12/2001 
giúp SMEs có những hướng dẫn cụ thể trong 
xử lý công việc kế toán [7]. Để hội nhập với 
kế toán quốc tế, xây dựng khuôn khổ pháp lý 
về kế toán cho các DN, được sự trợ giúp của 
Liên minh Châu Âu, trong gần 7 năm nghiên 
cứu và triển khai, những VAS đầu tiên của 
VN đã được ban hành vào năm 2001. Cho 
đến nay, đã có tất cả 26 VAS được ban hành. 
Sau khi hoàn tất việc ban hành VAS, BTC 
cũng đã ra các quyết định về chế độ kế toán 
DN cho DN lớn (QĐ 15/2006/QĐ-BTC) và 
SMEs (QĐ 48/2006/QĐ-BTC) [5],[6]. Theo 
quyết định 48/2006/QĐ-BTC, trong 26 VAS, 
quy định áp dụng VAS cho SMEs được chia 
thành 3 nhóm, nhóm các VAS áp dụng đầy 
đủ, áp dụng không đầy đủ và nhóm các VAS 
không áp dụng đối với SMEs [6]. Tuy nhiên, 
đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu thông 
tin kế toán đối với SMEs mang tính đặc thù 
không giống các DN có quy mô lớn. Do đó, áp 
dụng chung VAS với những quy định giảm trừ 
dẫn đến thông tin kế toán dàn trải, không đáp 
ứng tập trung nhu cầu thông tin cho nhóm đối 
25
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
tượng này. Một số VAS không áp dụng hoặc 
áp dụng không đầy đủ đã gây tình trạng thiếu 
quy định để tham chiếu khi xử lý công việc kế 
toán nhưng mặt khác vẫn tồn tại một số quy 
định không cần thiết. Trong xu thế hội nhập 
kế toán quốc tế ngày càng mạnh mẽ, VN cũng 
đã có những nỗ lực để hoàn thiện hệ thống 
chuẩn mực kế toán. Dự thảo chỉnh sửa, bổ 
sung các nội dung liên quan đến 8 chuẩn mực 
kế toán đã ban hành lấy ý kiến. TT 200/2014/
TT-BTC về chế độ kế toán cho DN cũng đã 
ban hành vào ngày 22/12/2014 với các quy 
định phù hợp hơn với IFRS [4]. Tuy nhiên, sự 
khác biệt giữa VAS và IFRS vẫn còn khá xa 
và tốc độ hội tụ được đánh giá còn chậm. Mặt 
khác, BTC cũng chỉ mới dừng lại ở thông tư 
hướng dẫn chế độ kế toán, chưa có sự đổi mới 
toàn diện liên quan đến hệ thống chuẩn mực 
kế toán. Đồng thời, QĐ 48/2006/QĐ-BTC 
vẫn còn hiệu lực với những quy định cũ đã 
gây nhiều khó khăn cho SMEs trong giai đoạn 
hiện nay [6]. 
2.2. IFRS FOR SMES và áp dụng IFRS 
FOR SMES trên thế giới
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy nhu cầu cần 
chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs. SMEs 
ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động 
quốc tế, nhu cầu thông tin BCTC đáng tin cậy 
vả có thể so sánh được với các DN khác trên 
thế giới nảy sinh đòi hỏi phải có những quy 
định, chuẩn mực kế toán có có chất lượng. 
IFRS là một bộ chuẩn mực được đề nghị áp 
dụng. Tuy nhiên, SMEs bị hạn chế về nguồn 
lực, đồng thời không có nhiều nghiệp vụ phức 
tạp như các DN lớn nên việc áp dụng IFRS 
trở nên không cân xứng giữa chi phí và lợi 
ích. Với mục tiêu cung cấp cho SMEs trên 
toàn thế giới một bộ chuẩn mực phù hợp 
giúp SMEs thuận lợi hơn khi tham gia vào 
thị trường quốc tế, tháng 7/2009, Hội đồng 
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã ban 
hành IFRS for SMEs. IFRS for SMEs là bộ 
chuẩn mực độc lập, dài 230 trang, trình bày 
thành 35 phần cho từng chuẩn mực. IFRS for 
SMEs đơn giản hơn IFRS về cả yêu cầu công 
bố, đo lường và phương pháp ghi nhận, đồng 
thời chú ý đến sự cân đối giữa chi phí và lợi 
ích khi áp dụng cho SMEs.
Quyết định áp dụng IFRS for SMEs là 
tự nguyện, tuy nhiên IASB mong muốn bộ 
chuẩn mực này sẽ được chấp nhận rộng rãi 
trên toàn thế giới. Theo IASB, SMEs là: “các 
công ty không có trách nhiệm giải trình công 
khai và phát hành BCTC cho đối tượng bên 
ngoài DN”. IASB cho rằng, các quốc gia khi 
chấp nhận áp dụng IFRS for SMEs sẽ tự quyết 
định tiêu chí DN phù hợp nên áp dụng [16]. 
Theo Pacter [23], từ khi ban hành đến năm 
2011, 74 quốc gia đã tiếp nhận và đang xây 
dựng lộ trình áp dụng trong 3 năm tiếp theo.
Lý do một số quốc gia vẫn chưa áp dụng 
IFRS for SMEs được Ploybut [25] đề cập là: 
quốc gia đã có chuẩn mực BCTC cho SMEs, 
IFRS for SMEs quá phức tạp cho SMEs có 
quy mô nhỏ hay SMEs thích chuẩn mực kế 
toán quốc gia hơn vì phù hợp với kế toán 
thuế. Các quốc gia đã áp dụng IFRS for 
SMEs thường theo hai cách thức phổ biến là 
áp dụng hoàn toàn không sửa đổi như Nam 
Phi, Singapore, Philippines, Campuchia hoặc 
là có điều chỉnh nhưng không nhiều cho phù 
hợp với điều kiện của quốc gia như Hồng 
Kông, Brazil. Một số quốc gia khác cũng đã 
có kế hoạch cho việc áp dụng như Anh, mặc 
dù đã ban hành chuẩn mực kế toán quốc gia 
riêng cho các công ty chưa niêm yết nhưng 
cũng xây dựng dự thảo sửa đổi bộ chuẩn mực 
này dựa trên IFRS for SMEs và dự kiến áp 
dụng bắt đầu năm 2015[17], [18]. Malaysia từ 
tháng 2/2014 đã ban hành chuẩn mực BCTC 
26
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cho SMEs (MPERS) xây dựng dựa trên IFRS 
for SMEs và dự kiến áp dụng năm 2016[20].
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước
BCTC cho SMEs và chuẩn mực BCTC 
riêng cho SMEs bắt đầu thu hút sự quan 
tâm mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu từ đầu 
những năm 2000, khi dự án xây dựng IFRS for 
SMEs được IASB ban hành. Các nghiên cứu 
trước được tổng quan trong bài viết này xoay 
quanh những vấn đề về BCTC cho SMEs và 
nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs.
Maingot & Zeghal [19] thực hiện nghiên 
cứu đánh giá nhận thức của 600 KTT, chủ 
DN, nhà quản lýSMEs Canada về những khó 
khăn khi lập BCTC và sự lựa chọn của các 
đối tượng này về mô hình BCTC tốt nhất cho 
SMEs Canada. Sử dụng phương pháp định 
lượng thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi 
đóng và thu được 162 bảng trả lời. Kết quả 
của nghiên cứu cho thấy mục đích lập BCTC 
của SMEs chủ yếu cho thuế và ngân hàng. 
SMEs nhận định chuẩn mực kế toán hiện 
hành quá phức tạp, tốn nhiều chi phí cho việc 
tuân thủ và không thích hợp cho SMEs. SMEs 
đề nghị áp dụng một bộ chuẩn mực kế toán 
chung cho tất cả DN nhưng có yêu cầu giảm 
trừ cho SMEs. Những yêu cầu giảm trừ được 
tán thành nhiều nhất là giảm những quy định 
phức tạp và giảm yêu cầu công bố, đồng thời 
bắt buộc SMEs phải kiểm toán BCTC.Kết 
quả nghiên cứu tương tự, Dang et al [15] thực 
hiện nghiên cứu định tính khi thực hiện phỏng 
vấn với 19 chuyên gia gồm cả người tạo lập 
và người sử dụng thông tin của BCTC SMEs 
về đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu của 
đối tượng sử dụng thông tin BCTC của SMEs 
VN. Kết quả cho thấy cơ quan thuế và các 
cơ quan NN khác là đối tượng chính sử dụng 
BCTC của SMEs. BCTC chủ yếu được lập 
để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, không sử 
dụng cho mục đích kinh tế. Chất lượng thông 
tin BCTC thấp vì chủ DN không nỗ lực để 
tăng chất lượng thông tin mà còn chi phối đến 
kế toán để cung cấp những thông tin không 
chính xác phục vụ cho mục đích thuế. 
Ngoài ra, Atik [2] khám phá nhận thức của 
chủ sở hữu, nhà quản lý và KTT của SMEs 
Thổ Nhĩ Kỳ về IFRS for SMEs. Phương pháp 
chọn mẫu thuận tiện được sử dụng để gửi bảng 
câu hỏi khảo sát đến gần 2.700 SMEs. 216 
chủ DN, nhà quản lý và kế toán viên SME ... ông tin.
Hình 4. Mục đích sử dụng BCTC của SMEs
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4.2.2. Mức độ tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin BCTC SMEs
Bảng 2. Nhận thức của SMEs về mức độ tuân thủ VAS, sự phù hợp của VAS, 
độ tin cậy của TT BCTC
Mean SD % trên tổng phản hồi
1 2 3 4 5
Mức độ tuân thủ chuẩn mực (1)
3,94
0,602 0 0 21,5 63,4 15,1
Sự phù hợp của VAS (2) 3,32 0,607 0,3 5,9 56,7 36,3 0,8
Độ tin cậy của thông tin BCTC (3) 3,26 0,757 2,5 6,7 57,8 28,2 4,7
(1): thang đo: 1- rất thấp, 2- thấp, 3- trung bình, 4- cao, 5- rất cao
(2): thang đo: 1- rất không phù hợp 5- rất phù hợp
(3): thang đo: 1- chưa đạt, 2- kém, 3- trung bình, 4- khá, 5- tốt
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Mức độ tuân thủ chuẩn mực của SMEs 
được đa số đối tượng khảo sát đánh giá ở mức 
cao (xem bảng 2). Các lý do được đề nghị 
nhiều là kế toán viên nhận thức tốt về chuẩn 
mực kế toán (67,1%), trình độ chuyên môn 
của kế toán trưởng cao (53,9%) và chủ DN/ 
nhà quản lý quan tâm đến công việc kế toán 
(52,5%). Tuy nhiên, chỉ có 19,3% DN khẳng 
định việc tuân thủ cao là do DN nhận thức 
được lợi ích cao hơn chi phí khi tuân thủ (xem 
hình 5). Kết quả này có điểm giống với nghiên 
cứu của Dang (2006), SMEs không quan tâm 
đến chi phí và lợi ích của việc tuân thủ chuẩn 
mực kế toán. 
Hình 5. Lý do mức tuân thủ tuân thủ VAS cao
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
21,5% số SMEs tham gia khảo sát thừa 
nhận mức độ tuân thủ không cao chủ yếu 
do VAS phức tạp và chủ DN/nhà quản lý 
không nhận thấy lợi ích khi tuân thủ VAS (> 
50% tán thành) (xem hình 6). Hơn nữa, gần 
50% ý kiến đồng ý lý do SMEs có mức tuân 
thủ chuẩn mực không cao vì BCTC không 
hữu ích cho việc ra quyết định. Lý do này 
tiếp tục hỗ trợ thêm có các kết luận trên về 
mục đích sử dụng thông tin BCTC. SMEs 
tuân thủ chuẩn mực xuất phát từ chính bản 
thân của người làm kế toán có nhận thấy 
tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán đối 
với chất lượng thông tin BCTC hay không, 
31
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
nếu SMEs không thấy được lợi ích từ việc 
tuân thủ chuẩn mực, BCTC chỉ lập để nộp 
theo yêu cầu quản lý của NN, ngoài ra 
không hữu ích đối với chính bản thân DN, 
thì vai trò của chuẩn mực kế toán trở nên vô 
nghĩa đối với SMEs. 
Hình 6. Lý do mức tuân thủ tuân thủ VAS thấp
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Hơn nữa, 62,9% đối tượng khảo sát tán 
đồng ở mức cao là BCTC lập theo VAS hiện 
hành chỉ đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin 
hữu ích do cho các đối tượng sử dụng thông 
tin ở mức thấp và trung bình (xem bảng 2). 
Lý do được đề cập gồm chi phí cao hơn lợi 
ích khi áp dụng chuẩn mực, quy mô của DN 
không phù hợp để áp dụng và chủ yếu là các 
DN khảo sát phàn nàn về khả năng xử lý của 
VAS đối với các vấn đề liên quan đến hoạt 
động SXKD của DN còn thấp (71,4%) (xem 
hình 7). 
Hình 7. Lý do VAS hiện hành không phù hợp
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Ngoài ý kiến về sự hữu ích của thông tin 
BCTC lập theo VAS hiện hành, SMEs còn 
đánh giá độ tin cậy về thông tin cung cấp 
trên BCTC chỉ ở mức trung bình (Mean = 
3,26) (xem bảng 2). Lý giải tại sao BCTC 
theo VAS hiện hành không đáp ứng yêu 
cầu thông tin hữu ích và mức độ tin cậy của 
thông tin BCTC thấp, ngoài lý do chuẩn mực 
không phù hợp, DN không thấy lợi ích khi 
áp dụng chuẩn mực, SMEs thừa nhận kế toán 
của DN quan tâm đến việc tuân thủ các quy 
định của thuế nhiều hơn các chuẩn mực kế 
toán và tỷ lệ cũng khá cao khẳng định chủ 
DN cũng chỉ quan tâm đến kê khai thuế hơn 
là chất lượng thông tin BCTC (69,5%) (xem 
hình 8). 
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Hình 8. Lý do mức độ tin cậy thông tin BCTC thấp
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Thuế tác động mạnh mẽ đến DN nên chủ 
DN cũng tác động đến kế toán và cả bản thân 
người làm kế toán cũng sẽ lựa chọn những 
phương pháp kế toán tương tự như quy định 
của thuế nhiều hơn nhằm tránh sự khác biệt 
với thuế, để hạn chế khó khăn khi giải trình 
với chủ DN và cả cơ quan thuế. Những nguyên 
nhân này đã làm cho chất lượng BCTC kém. 
Kết quả nghiên cứu này tương tự nghiên cứu 
của Albu et al [1] và Dang et al [15]. Như vậy, 
dường như có sự mâu thuẫn trong trả lời khảo 
sát, SMEs khẳng định mức độ tuân thủ chuẩn 
mực của DN cao nhưng lại đánh giá mức độ 
tin cậy của thông tin BCTC rất thấp. Mẫu 
thuẫn này chứng tỏ tuân thủ chuẩn mực kế 
toán chỉ là hình thức, thực chất việc lựa chọn 
phương pháp kế toán theo thuế và thông tin 
BCTC của SMEs hiện hành cũng chỉ chủ yếu 
phục vụ cho thuế đối với hầu hết SMEs. 
4.2. Sự cần thiết của chuẩn mực BCTC 
riêng cho SMEs và nhu cầu cần áp dụng 
IFRS for SMEs
Hình 9. Nhu cầu cần xây dựng chuẩn mực BCTC 
riêng cho SMEs
Hình 10. Nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Từ nhận định thông tin BCTC SMEs 
không đáng tin cậy, kết hợp với việc đánh 
giá VAS hiện hành chưa phù hợp, phần lớn 
DN khảo sát cho rằng cần thiết phải xây 
dựng CMBCTC riêng cho SMEs (73,7%) 
(xem hình 9). 
Hình11 tổng kết một số nhân tố tác động 
làm nảy sinh nhu cầu này. Cụ thể là, chuẩn 
mực hiện hành phức tạp, đối tượng sử dụng 
thông tin và mức độ phức tạp các nghiệp 
vụ kinh tế phát sinh của SMEs khác với 
công ty niêm yết, chi phí vượt quá lợi ích 
khi SMEs tuân thủ chuẩn mực hiện hành. 
Trong đó, sự khác biệt về đối tượng sử dụng 
thông tin giữa SMEs và các công ty niêm 
yết là nhân tố quan trọng nhất trong quyết 
định cho rằng chuẩn mực BCTC riêng thật 
sự cần thiết đối với SMEs (58,2%). Kết 
luận này phù hợp với lý do cần thiết phải có 
hệ thống BCTC khác nhau theo nghiên cứu 
của Morris & Campell [21].
33
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
Hình 11. Lý do cần xây dựng CMBCTC riêng cho SMEs
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả
Mặc dù SMEs VN có một số đặc tính 
không thuận lợi cho việc áp dụng IFRS for 
SMEs vì đa số SMEs có quy mô khá nhỏ, 
hoạt động chủ yếu ở thị trường trong nước, 
thông tin BCTC dường như hiếm khi được 
sử dụng cho việc ra quyết định đối với SMEs 
tổ chức dưới dạng gia đình, nhưng gần 
60% DN đánh giá IFRS for SMEs cần thiết 
đối với nhu cầu của họ trong xu hướng VN 
ngày càng hội nhập với kế toán quốc tế (hình 
10). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên 
cứu của Bohusova & Blaskova [3] khi thực 
hiện nghiên cứu về cách thức áp dụng của các 
quốc gia trên thế giới.Họ cho rằng các quốc 
gia đang phát triển có chất lượng BCTC thấp 
thường có xu hướng thích áp dụng IFRS for 
SMEs vì cần hội nhập kinh tế quốc tế và có 
nhu cầu mạnh mẽ trong việc xây dựng chuẩn 
mực báo cáo tài chính có chất lượng cao.
5. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN 
CỨU TIẾP THEO
Mục tiêu nghiên cứu của bài báo nhằm 
xác định nhận thức của KTT SMEs VN về 
VAS, chất lượng BCTC và nhu cầu cần hội 
tụ với IFRS for SMEs. Để thực hiện mực tiêu 
này, tác giả đã thực hiện khảo sát bằng bẳng 
câu hỏi và nhận được 358 phản hồi đạt yêu 
cầu đưa vào phân tích. 
Với kết quả khảo sát trên, một số đặc điểm 
của SMEs VN đã thể hiện khá rõ nét. Nhìn 
chung, SMEs của VN có quy mô không lớn 
so với SMEs của các quốc gia trên thế giới 
và còn khá hạn chế trong các hoạt động liên 
quan quốc tế. Những đặc điểm này là vấn đề 
cần cân nhắc khi khi quyết định áp dụng IFRS 
for SMEs ở VN.
SMEs nhận định đối tượng chính sử dụng 
BCTC của SMEs là cơ quan thuế, chủ sở hữu, 
ngân hàng, nhà đầu tư. Mức độ tuân thủ VAS 
được đánh giá khá cao, nhưngtỷ lệ SMEs nhận 
định mức độ tuân thủ cao do DN nhận thức 
được lợi ích cao hơn chi phí khi tuân thủ thấp 
nhất trong các lý do, chỉ có 19,3%. Vì thế, 
việc tuân thủ VAS ở SMEs chỉ là hình thức.
Điều này cũng bổ sung thêm cho kết quả khảo 
sát về mục tiêu sử dụng BCTC của SMEs, hơn 
80% đối tượng khảo sát thừa nhận BCTC của 
SMEs hiện hành chủ yếu chỉ để đáp ứng yêu 
cầu quản lý của các cơ quan NN. Hơn nữa, 
62,9 % SMEs thừa nhận mức VAS chỉ đáp 
ứng yêu cầu của SMEs ở mức độ trung bình, 
đồng thời độ tin cậy của thông tin BCTC cũng 
được đánh giá ở mức độ không cao. Như vậy, 
các kết quả khảo sát về lý do dẫn đến mức 
tuân thủ cao hay thấp, thông tin BCTC có 
đáng tin cậy và hữu ích đối với người sử dụng 
thông tin hay không đã có thể giúp nghiên cứu 
kết luận VAS không phù hợp với yêu cầu của 
SMEs. SMEs không quan tâm đến áp dụng 
chuẩn mực, hoặc áp dụng chỉ mang tính chất 
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đối phó. Mặt khác, các chính sách về thuế 
ảnh hưởng mạnh đến DN dẫn đến chất lượng 
thông tin BCTC không cao, mục đích sử dụng 
BCTC để ra các quyết định kinh tế đã không 
phát huy tác dụng. Vì vậy, để khuyến khích 
SMEs tự nguyện tuân thủ chuẩn mực kế toán, 
không chỉ là bản thân chuẩn mực kế toán phù 
hợp mà cả vấn đề thay đổi nhận thức của các 
cơ quan NN và của DN là một trong những 
vấn đề cần lưu ý.
Với quan điểm đánh giá về VAS hiện 
hành, SMEs cho rằng cần thiết phải xây dựng 
chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs. Mặc dù 
sự tham gia vào các hoạt động quốc tế của 
SMEs VN còn hạn chế nhưng nhu cầu cần áp 
dụng IFRS for SMEs cũng được đánh giá khá 
cao (trên 60%). 
Nghiên cứu của tác giả vẫn còn một vài 
giới hạn bởi vì tác giả chỉ khảo sát ý kiến của 
KTT SMEs, đây chỉ là một trong số các đối 
tượng liên quan đến BCTC của SMEs. Các 
khảo sát để thu thập ý kiến của các đối tượng 
tạo lập và sử dụng thông tin BCTC của SMEs 
nên được tiếp tục thực hiện.
Mặc dù có một vài hạn chế, nhưng với kết 
quả phân tích trên, các vấn đề tồn tại của VAS, 
chất lượng thông tin BCTC của SMEs đã 
được đánh giá và giải thích lý do của những 
tồn tại trên nhiều khía cạnh. Đồng thời, bước 
đầu xác lập nhu cầu cần áp dụng IFRS for 
SMEs VN. Đây là một trong những điều kiện 
và động lựcthúc đẩy các nhà ban hành chuẩn 
mực nhanh chóng thực hiện các kế hoạch hội 
tụ với kế toán quốc tế. Với những đóng góp 
đó, tác giả tin rằng bài viết thật sự hữu ích đối 
với các nhà ban hành chuẩn mực, các chuyên 
gia kế toán, kiểm toán và cả những đối tượng 
có liên quan khác đến BCTC của SMEs. 
CHÚ THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ
1. IASB- International Accounting Standards Board: Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
2. IFRS- International Financial Reporting Standards: Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
3. IFRS for SMEs- International Financial Reporting Standards for small-medium sized entities: 
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho các DN nhỏ và vừa
4. SMEs- Small- medium sized entities: DN nhỏ và vừa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Albu, C.N., Albu, N., Pali-Pista, S. F., Girbina, M. M., Selimoglu, S. K., Kovacs, D. M., Lukacs, 
J., Mohl, G., Mullerova, L. (2013),Implementation of IFRS for Smes in emrging economies: 
Stakeholder perceptions in the Czech Republic, Hungary, Romania and Turkey,Journal of 
international financial management & accounting, 24(2), 141-75.
[2]. Atik, A. (2010). SME’s views on the adopiton and application of “IFRS for SMEs” in Turkey. 
European research studies, XIII(4), 19-31.
[3]. Bohusova, H. & Blaskova, V.(2012), In what way are countries which have already adopted IFRS 
for SMEs different,Acta. Univ. Agric. Silvic. Mendelianae Brun, 60(2), 37-44
[4]. Bộ Tài Chính (2014), Chế độ kế toán doanh nghiệp, theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 
22/12/2014, Bộ Tài Chính, Hà Nội.
[5]. Bộ Tài Chính (2006), Chế độ kế toán doanh nghiệp DN, theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 
20/03/2006, Bộ Tài Chính, Hà Nội.
[6]. Bộ Tài Chính (2006), Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Quyết định số 48/2006/QĐ-
BTC ngày 14/09/2006, Bộ Tài Chính, Hà Nội.
[7]. Bộ Tài Chính (2001), Sửa đổi chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo QĐ 144/TC/QĐ-CĐKT 
ngày 21/12/2001, Bộ Tài Chính, Hà Nội.
35
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
[8]. Bộ Tài Chính (1996), Chế độ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Quyết định số 1171/TC/
QĐ-CĐKT ngày 23/12/1996, Bộ Tài Chính, Hà Nội.
[9]. Bunea, S., Sacarin, M. & Minu, M. (2012),Romanian professional accountants’ perception on the 
differential financial reporting for small and medium-sized enterprises, Accounting and management 
information systems, 11(1), pp. 27- 43.
[10]. Chính phủ (2013), Chiến lược kế toán- kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, theo 
Quyết định số 480/2013/QĐ-TTg ngày 18/03/2013, Hà Nội.
[11]. Chính phủ (2009), Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Nghị định số 56/2009/
NĐ-CP ngày 30/06/2009, Hà Nội.
[12]. Chính phủ (2001), Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Nghị định số 90/2001/
NĐ-CP ngày 23/11/2001, Hà Nội.
[13]. Chính phủ (1998), Định hướng chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/06/1998, Hà Nội.
[14]. Chúc Anh Tú (2010), Chuẩn mực kế toán cho DN nhỏ và vừa, Tạp chí kế toán, Số 86, tháng 
10/2010.
[15]. Dang, D.S., Marriott, N. & Marriott, P. (2006), Users’ perceptions and users of financial reports 
of small and medium companies (SMCs) in transitional economies: qualitative evidence from 
VietNam,Qualitative research in accounting & management, 3(3), 218-235.
[16]. IASB (2009), International financial reporting standards for small and medium- sized entities 
(IFRS for SMEs),  truy cập ngày 12 tháng 
12 năm 2010.
[17]. ICAEW (2013a),The future of UK GAAP, 
uk-gaap/uk-gaap-consultations/future-of-uk-gaap, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013.
[18]. ICAEW (2013b),The new UK regime- new UK GAAP factsheet – Extract,
media/Files/Join-us/Join-a-faculty-sig/the-new-uk-gaap-regime-09092013-sample.pdf, truy cập 
ngày 4 tháng 6 năm 2014.
[19]. Maingot, M. & Zeghal, D., 2006. Financial reporting of small business entities in Canada. Journal 
of small business management, 44(4), pp. 513-530.
[20]. MASB (2013),MASB issues Roadmap for Private Entities Financial Reporting Framework (1 
March 2013),
temid=14, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2013. 
[21]. Morris, P. & Campell, J., 2006. Big GAAP- little GAAP: does one- size- fits- all still work?. 
Journal of business & economics research, 4(5), pp. 73-81
[22]. Nguyễn Vũ Việt & Mai Ngọc Anh (2010), Chuẩn mực kế toán áp dụng cho DN nhỏ và vừa: Kinh 
nghiệm quốc tế và vận dụng ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện. Học viện tài 
chính- Hà Nội.
[23]. Pacter, P.(2011), Presentations about the SMEs- IFRS for SMEs. Meeting of Representatives of the 
CIS and Baltic States professional bodies and standard setters,
Documents/1111CISBalticSMEEnglish.pdf,truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2012.
[24]. Perera, D., Chand, P. (2015), Issues in the adoption of international financial reporting standards 
(IFRS) for small and medium- sized enterprises (SMEs), Advances in accounting, incorporating 
advances in international accounting, 31(2015), 165-178.
[25]. Ploybut, S. (2012). Financial reporting by small and medium enterprises in Thailand. PhD thesis, 
university of Portsmouth, UK. 
[26]. Phạm Quang Huy (2011), Chuẩn mực lập và trình bày BCTC quốc tế đối với DN nhỏ và vừa: 
Những hướng dẫn mới năm 2010, Tạp chí kế toán, Số 90, tháng 3/2011.
[27]. Trần Đình Khôi Nguyên (2011), Các nhân tố ảnh hưởng vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DN 
nhỏ và vừa tại Đà Nẵng,Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 252, tháng 10/2011.

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_cua_doanh_nghiep_nho_va_vua_ve_chuan_muc_ke_toan_v.pdf