Nghệ thuật sân khấu Dù kê – Di sản văn hoá độc đáo của dân tộc Khmer Nam Bộ
Tóm tắt
Bài viết trình bày một số vấn đề về sự hình thành, phát triển, phương hướng bảo tồn, phát huy nghệ
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bô, một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Khmer Nam Bộ.
Từ khoá: Nghệ thuật sân khấu Dù kê, kịch mặt nạ Rô băm Khmer, sân khấu dân gian; sự hình thành,
bảo tồn phát huy gắn với học thuật và du lịch.
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật sân khấu Dù kê – Di sản văn hoá độc đáo của dân tộc Khmer Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật sân khấu Dù kê – Di sản văn hoá độc đáo của dân tộc Khmer Nam Bộ
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201410 Soá 13, thaùng 3/2014 11 miền sông nước. Giữa nhịp sống hiện đại, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng là cách để gìn giữ bản sắc dân tộc. Trong cơ chế thị trường và nhịp sống số hôm nay, sân khấu Dù kê dù không còn ở giai đoạn cực thịnh nhưng vẫn là niềm đam mê lớn của đồng bào Khmer và các dân tộc anh em trên mảnh đất Nam Bộ. Những vấn đề về nguồn gốc, về các yếu tố nghệ thuật, về sự giao thoa giữa sân khấu Dù kê Nam Bộ với các loại hình sân khấu khác, về những giải pháp bảo tồn và phát triển của sân khấu Dù kê sẽ là những định hướng nghiên cứu cần thiết và khả khi cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Khmer Nam Bộ. Tài liệu tham khảo Huỳnh Thanh Quang. 2011. Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Chính trị Quốc gia. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường. 1990. Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội. Nguyễn Mạnh Cường. 2002. Vài nét về người Khmer Nam Bộ. NXB Khoa học Xã hội. Nhiều tác giả. 2004. Xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc Khmer Nam Bộ (Kỉ yếu hội thảo khoa học). Bộ VHTT và Vụ Văn hóa-Dân tộc. Hà Nội. Nhiều tác giả. 2013. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở Văn hóa Thông tin, Sóc Trăng. Sang Sết. 2010. Nét đẹp độc đáo của nghệ thuật sân khấu Dù kê dân tộc Khmer Nam Bộ (Song ngữ Việt – Khmer). Tài liệu nội bộ. Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng. Trường Lưu. 1993. Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa Dân tộc. HN Viện Văn hoá. 1998. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ – DI SẢN VĂN HOÁ ĐỘC ĐÁO CỦA DÂN TỘC KHMER NAM BỘ Sang Sết1 Tóm tắt Bài viết trình bày một số vấn đề về sự hình thành, phát triển, phương hướng bảo tồn, phát huy nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bô, một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Khmer Nam Bộ. Từ khoá: Nghệ thuật sân khấu Dù kê, kịch mặt nạ Rô băm Khmer, sân khấu dân gian; sự hình thành, bảo tồn phát huy gắn với học thuật và du lịch. Abstract This paper focuses on the shape, developing, some suggestion for improving Du ke Khmer stage artists in Mekong delta, a unique national cultural heritage of the Southern Khmer. Key words: Du ke Khmer stage artists, Khmer Ro bam mask drama, folk drama, the formation, conserving and improving folk drama asscociated with academic and tourism. 1 Chuyên viên cao cấp - Nguyên .P.Giám đốc Đài PTTH Trà Vinh. DẪN NHẬP Dân tộc Khmer là một trong những dân tộc ít người có số dân cao trong cộng đồng người Việt Nam. Ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long người Khmer, người Kinh, người Hoa từ lâu đời đã sống chung với nhau cùng một vùng đất và có sự giao thoa văn hóa. Người Khmer Nam Bộ có quá trình khai khẩn đất hoang thuộc hạ lưu dòng sông Mê Kông và có quá trình xây dựng cuộc sống có hệ số thời gian lâu dài. Dân tộc Khmer đã sáng tạo ra được một kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú, trong đó nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê - là di sản văn hoá nằm trong nền nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam. 1. Sự hình thành 1.1. Nguồn gốc Kịch hát Dù kê là di sản văn hóa tốt đẹp của cộng đồng người Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long hay còn gọi là vùng sông Ba Sắc. Nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời muộn hơn nghệ thuật sân khấu múa Rô băm, sân khấu múa hát Dì kê về thời điểm và nơi xuất thân của loại hình nghệ thuật sân khấu này. Thông qua các công trình tìm hiểu đã được các nhà nghiên cứu nhất trí là nó ra đời trước năm 1920 và phát triển trong khoảng thập niên (1920 -1930) của thế kỷ XX; nhưng việc xác định niên đại và nguồn gốc của nó lại khác nhau. Đại để có ba ý kiến như sau: Một là, tiền thân của nghệ thuật sân khấu Dù kê là Lkhôn Trơng Khlôôc (kịch giàn bầu) ra đời vào khoảng (1910 - 1920) do À Kê sáng lập ra ở Trà Vinh2. Hai là, vào khoảng năm (1915-1920 ) tại ấp Lộ Sỏi, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, có vợ chồng ông bà Thanh Danh, một gia đình trí thức tiểu tư sản thời đó đứng ra thành lập gánh hát Dù kê, mà bà con đặt tên cho là gánh Dù kê “Thanh Danh ” tức là lấy tên của ông bà ấy làm tên của gánh hát3. Ba là, nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời vào khoảng năm 1921, sau nghệ thuật sân khấu Cải lương vài năm, địa điểm ở Trà Vinh, thầy tổ của Đoàn Dù kê là Cru Cưu4. Hiện nay, nhiều người khẳng định nghệ thuật sân khấu Dù kê xuất phát từ Trà Vinh, do ông “Kim Sua” sáng lập trong khoảng thời gian (1915 - 1920). Nói chung, các ý kiến trên đều xuất phát từ ký ức của từng cá nhân riêng lẻ, chưa được xem xét tường tận và có căn cứ cần thiết để có một kết luận khoa học. 2 Theo ông Kim Hoà (1901 - 1976) là võ sư dạy vũ đạo Dù kê, quê ở ấp Lò Ngò, xã Hiếu Tử, Tiểu Cần, Trà Vinh, thời niên thiếu ông đã từng tham gia kịch giàn bầu do À Kê sáng lập này. Phỏng vấn và ghi chép 1975. 3 Theo ông Thạch Thanh, sinh năm 1937 là nghệ sĩ, đạo diễn Dù kê ở ấp Bà Giam, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Phỏng vấn và ghi chép 1982. 4 Theo ông Thạch Voi, xem Đặng Vũ Thị Thảo, Sân khấu người Khmer ở ĐBSCL, T. 291, NXB Hậu Giang 1987. Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201412 Soá 13, thaùng 3/2014 13 Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đi vào nghiên cứu nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê và sự chuyển mình của nó từ “nghệ thuật vị nghệ thuật” trở thành“nghệ thuật vị nhân sinh” trong suốt thời gian gần 100 năm qua. Nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời là do nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của đồng bào Khmer ở những đầu năm của thế kỷ XX, giống như nghệ thuật sân khấu Hát bội của người Kinh khi không còn thu hút được khán giả thì cho ra đời nghệ thuật sân khấu Cải lương... Và nghệ thuật sân khấu Rô băm, khi mà tuồng tích và cách diễn xuất của nó không còn đáp ứng trọn vẹn theo nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của đồng bào Khmer nữa thì nghệ thuật sân khấu Dù kê cũng ra đời. Vậy Dù kê là gì? Ý nghĩa của nó ra sao? Vì rằng trong bộ Từ điển tiếng Việt và bộ Từ điển tiếng Khmer đều hoàn toàn không có hai từ “Dù kê” này! Theo ông Kim Hoà 5 cho biết: Đứa trẻ mà hát hay, múa giỏi nhất và dẫn đầu đám trẻ con múa hát ở dưới giàn bầu kia, quê ở Phnô Đôông (Hiếu Tử), có tên là “Kê”. Do khán giả kéo nhau đến xem đám múa hát trẻ con đó ngày càng đông và cứ rủ nhau rằng đi coi “À KÊ”. “À” trong tiếng Khmer ở đây có nghĩa là “Thằng”, “À KÊ ” tức “Thằng Kê ”. Theo thói quen của người Khmer hễ bất cứ những người nghệ sĩ nào đó có tài danh nhất đứng ở trên sân khấu, thông thường họ gọi bằng “À” (thằng). Cụ thể như: À Kê, À Day, À Sà Muth, À Săng Sà Run, À Sa Lauth... chẳng hạn. Tiếng tăm của đội múa hát thiếu nhi ngày càng đồn xa, lôi cuốn cả khán giả người Kinh cũng đến xem, bà con người Kinh rất khó mà gọi tiếng“À KÊ”, hơn nữa nó không phù hợp với thói quen của mình và trong đó có múa, nên họ gọi là “Vũ Kê” (tức là múa của thằng Kê) và cứ rủ nhau đi coi “Vũ Kê”. Theo âm đọc tiếng Việt ở Nam Bộ thì chữ “V” và “D” đều phát âm giống nhau “D” (dờ). Như vậy, “Vũ Kê” trở thành “Dũ Kê”. Tiếng “Dũ Kê” nghe cũng hay hay và có vẻ lịch sự hơn, vì đã lược bỏ được tiếng “À” (thằng). Sau này bà con Khmer, Hoa cũng như Kinh, mỗi lần đi xem múa hát thiếu nhi thì cứ rủ nhau đi coi “Dũ Kê”. Đối với dân tộc Khmer chữ “Dũ” trong “Dũ Kê” rất khó mà phát âm đúng theo thanh “~” (ngã) nên họ 5 Kim Hoà ( 1901-1976 ) là võ sư dạy vũ đạo Dù Kê, quê ở ấp Lò Ngò, xã Hiếu Tử, Tiểu Cần, Trà Vinh, thời niên thiếu ông đã từng tham gia kịch giàn bầu do À Kê sáng lập này. Phỏng vấn và ghi chép 1975. chỉ nói được là “Du ke” hơi có thanh “ø” (huyền) trên chữ “Du”. Vì cùng sống, quan hệ và sinh hoạt chung với nhau, nên tiếng địa phương giữa người Khmer, Hoa cũng như Kinh có ảnh hưởng lẫn nhau. Từ đó, tiếng “Dũ Kê ” đã trở thành “Dù kê” mãi cho đến ngày hôm nay. Như vậy hai từ “Dù kê” là kết quả giao lưu văn hoá giữa tiếng Việt và tiếng Khmer; có nghiã là múa của thằng Kê, có nguồn gốc từ xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Theo ngữ văn Khmer, viết là “យូរ កេរ ្តិ៍”(DUR- KÊRTI) khử bỏ chữ TI, còn lại DUR- KÊR đọc là “Dù kê”, có nghiã là: Di sản đã có từ lâu hoặc tên “Kê” nổi tiếng từ lâu. Nghệ thuật sân khấu Dù kê là kết quả do sự phấn đấu không biết mệt mỏi trong hoạt động, yêu lao động, yêu nghệ thuật dân tộc và yêu ca hát của người Khmer đã nhào nặn từ Lkhôn Trơng Khlôôc (kịch giàn bầu) tạo thành. Nếu như ở nghệ thuật sân khấu Rô băm, nhân vật phản diện và các loài thú đều đeo mặt nạ; thì ở nghệ thuật sân khấu Dù kê các nhân vật phản diện và các loài thú được hóa trang, đối thoại và ca hát trực tiếp, chứ không gò bó như ở nghệ thuật sân khấu Rô băm. Trong mỗi vở diễn của nghệ thuật sân khấu Dù kê đều có màn, cảnh, lớp, hồi từ đầu chí cuối một cách tuần tự theo không gian và thời gian nhất định; còn ở nghệ thuật sân khấu Rô băm vở diễn có thể kéo dài lê thê và chỉ dừng lại khi kết thúc một đoạn tương đối hoàn chỉnh tức “Chính nghĩa thắng hung tàn”. Cốt truyện thường dựa theo bản anh hùng ca RAMAYANA của Ấn Độ hay Ream kê Khmer, các hình ảnh điêu khắc trên đền Ăng Kor hoặc trên các bức tranh vẽ trong các nhà chùa của dân tộc Khmer Nam Bộ. Nghệ thuật sân khấu Rô băm khi chuyển sang nghệ thuật sân khấu Dù kê, các vở diễn được biên soạn và dàn dựng theo màn, cảnh, hồi, lớp tiến triển theo hành động kịch. 1.2. Về đề tài cốt truyện Lúc đầu, nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê ngoài trình diễn theo các truyện Ream kê, Chea Đóc (tích Phật) cùng một số truyện cổ, dân gian, thần thoại còn dung nạp thêm một số truyện của Trung Quốc. 1.3. Về ca nhạc Nghệ thuật sân khấu Dù kê là loại kịch hát nên các soạn giả viết lời thường dựa theo những bản nhạc dân gian có sẵn phù hợp với sắc thái tình cảm và tình huống kịch. Nhạc lồng bản của nghệ thuật sân khấu Dù kê có bốn giai điệu chính bắt nguồn từ nghệ thuật sân khấu Chòm Riêng Chà Pây (đờn ca). Bốn giai điệu đó là: SOM PÔÔNG: Dùng để diễn tả cảnh vật, thiên nhiên. LÔÔM: Dùng để diễn tả tâm trạng yêu đương, tỏ tình, năn nỉ. PHÁT CHEAI: Dùng để miêu tả về tính cách nổi giận, đấu tranh. NÔKÔR REACH: Dùng để diễn tả tâm trạng đau khổ, ly biệt. Bốn giai điệu chính của ca kịch Dù kê này tương ứng với nhạc bốn mùa của phương Tây: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Và trong mỗi bản nhạc của bốn giai điệu trên còn chia ra thành nhiều tiểu bản nhỏ. Cụ thể như: SOM PÔÔNG được chia thành Som Pôông Phon. LÔÔM được chia thành Lôôm Tâng, Lôôm Thu, Lôôm Chum Hiêng . PHÁT CHEAI được chia thành Phát cheai clai. NÔKÔR REACH được chia thành Nôkôr Reach clai, Nôkôr Reach Chơng Prây. Qua tư liệu tổng kết của Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật Hoàng gia Campuchia và qua công tác nghiên cứu thực tế cho thấy: Bài bản sử dụng trong nghệ thuật sân khấu Dù kê gồm có tất cả 169 bài. Được chia ra thành bốn nhóm như sau: Nhóm 1: Bài ca Dù kê chính thống: 37 bài. Nhóm 2: Bài ca Dù kê có gốc từ nhạc Mah Hô Ry, Lào, Thái Lan, Myamar: 94 bài. Nhóm 3: Bài ca Dù kê có gốc từ Quãng, Triều (Trung Quốc): 22 bài. Nhóm 4: Bài ca Dù kê có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài. 1.4. Về nhạc cụ Nhạc cụ sử dụng trong nghệ thuật sân khấu Dù kê được chia ra thành hai nhóm là: nhóm nhạc gõ, nhóm nhạc dây và thổi. Theo ông Săng Sa Run, sinh năm 1922, quê ở xã Ô Mlu, Huyện Stưng Trong, Campuchia, là nghệ sĩ nổi tiếng nhất về sân khấu Ba sắc (Dù kê) phát biểu vào năm 1964: nhóm nhạc gõ của Hí kịch Trung Quốc có tên gọi là “Shing, Pô, Lô, Kea”. Về phần nhóm nhạc gõ trong ca kịch Ba Sắc (tức Dù kê) thì gọi là “Chhing, Pô, Lô, Kea”. Ở đây Shing hoặc Chhing là tên gọi của Phèng la, Pô là tên gọi của cái Mõ hoặc cặp song loan, Lô là tên gọi của cái Chiêng, Kea là tên gọi của cồng (đực, cái). Trong nhóm nhạc gõ gồm có: một cái trống lớn, một cái trống nhỏ, một phèng la, một cái mõ hoặc cặp song loan, một cái chiêng, hai cái cồng đực, hai cái cồng cái. Trong nhóm nhạc dây và thổi gồm có: một cây đàn gáo, một cây đàn Trô Chhe (nhị), một cây sáo trúc và có bổ sung thêm một loại nhạc cụ của Trung Quốc được cải biên bao gồm một cây đàn khưm lớn và một cây đàn khưm nhỏ (đàn tam thập lục). Ngoài ra, còn đưa các loại nhạc cụ phương Tây vào như: Kèn Clarinet, Trumpet, đàn Guitar, đàn Violon, Acordéon, Organ, trống Jazz phục vụ cho hát và múa. Đặc biệt, nhóm nhạc gõ chiếm một phần rất quan trọng mang tính hấp dẫn trong vở diễn, để gây sinh khí, tạo các giai điệu cho lớp võ thuật, vũ đạo và mỗi lớp ra, vào đều có nhịp điệu trống- chiêng. Đó chính là linh hồn của nghệ thuật sân khấu ca kịch Dù kê, tạo được sự chú ý và cuốn hút khán giả đến xem ngày càng đông vui hơn. 1.5. Về vũ đạo Về vũ đạo gồm có 13 bài vũ đạo, được chia ra như sau: - Nhân vật chính diện: 10 bài. - Nhân vật phản diện (Chằn, vai nịnh): hai bài. - Nhân vật vai thú dữ: một bài. Về võ thuật gồm sáu môn: Dao găm, mã tấu, gươm, giáo, gậy và tay không. 1.6. Về diễn xuất Cũng như nghệ thuật sân khấu Cải lương, nghệ thuật sân khấu Dù kê là sân khấu đồng cảm, cũng ca ra bộ, đây là yếu tố rất quan trọng trong diễn xuất. Đặc biệt là trong ca ra bộ có pha múa nên động tác của nghệ thuật sân khấu Dù kê mềm mại, uyển chuyển; nhưng đến khi giao đấu thì dùng võ thuật tạo được cảnh sinh động, kết hợp với nghệ thuật xiếc đu bay giao chiến trên không rất hấp dẫn và một điều rất quan trọng không thể thiếu được trong vở diễn nghệ thuật sân khấu ca kịch Dù kê đó là vai Hề; vì vai Hề này có khả năng dẫn chuyện bằng cả tiếng Khmer, tiếng Việt và tiếng Hoa nên cuốn hút được đông đảo người xem. Lúc đầu chỉ trình diễn ở vùng Trà Vinh và Sóc Trăng, nhưng sau đó đi lưu diễn khắp cả các tỉnh Nam Bộ, ngay Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201412 Soá 13, thaùng 3/2014 13 Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đi vào nghiên cứu nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê và sự chuyển mình của nó từ “nghệ thuật vị nghệ thuật” trở thành“nghệ thuật vị nhân sinh” trong suốt thời gian gần 100 năm qua. Nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời là do nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của đồng bào Khmer ở những đầu năm của thế kỷ XX, giống như nghệ thuật sân khấu Hát bội của người Kinh khi không còn thu hút được khán giả thì cho ra đời nghệ thuật sân khấu Cải lương... Và nghệ thuật sân khấu Rô băm, khi mà tuồng tích và cách diễn xuất của nó không còn đáp ứng trọn vẹn theo nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của đồng bào Khmer nữa thì nghệ thuật sân khấu Dù kê cũng ra đời. Vậy Dù kê là gì? Ý nghĩa của nó ra sao? Vì rằng trong bộ Từ điển tiếng Việt và bộ Từ điển tiếng Khmer đều hoàn toàn không có hai từ “Dù ... c nghệ thuật của mọi tầng lớp khán giả trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai lâu dài. 3. Đề xuất và kiến nghị Dù kê là một loại hình nghệ thuật sân khấu kịch hát có đầy đủ truyện kịch, tính kịch, vũ đạo, võ thuật đúng theo mọi tình huống kịch. Dù kê có đất dựng võ, có sân khấu để đào tạo diễn viên, có nghệ nhân, nghệ sĩ giảng dạy về kỹ thuật biểu diễn để phục vụ công chúng thưởng thức. Hình thức và nội dung của nghệ thuật sân khấu Dù kê này đã xuất thân từ mảnh đất Nam Bộ thân yêu của chúng ta hoà nhập vào đất nước Campuchia từ năm 1927, góp phần làm giàu đẹp thêm nền văn 9 105 lời nói của Bác Hồ, T.73, NXB Văn hoá Thông tin 1997 hoá nghệ thuật cho đất nước chùa Tháp ngày càng thêm phong phú hơn và được các giới yêu mến nghệ thuật Dù kê của đất nước bạn đón nhận loại hình nghệ thuật kịch hát Dù kê mới mẻ này vào đất nước của mình và đặt lại tên mới gọi là “Lkhôn Ba Sắc” tức ca kịch vùng sông Ba Sắc để làm kỷ niệm. Ngược lại, nếu một ai đó không thừa nhận nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê ấy, có nghĩa là phủ nhận mọi tầng lớp khán giả đã và đang mến mộ loại hình nghệ thuật sân khấu này. Với những kết quả to lớn mà các đoàn nghệ thuật Khmer đã giành được như trên chính là được sự quan tâm, chỉ đạo đúng đắn về chủ trương đường lối văn nghệ của Đảng, Nhà nước, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, trực tiếp là Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch các tỉnh, cùng với sự yêu thích nghệ thuật cách mạng, yêu thích nghệ thuật dân tộc Khmer của tất cả anh, chị, em nghệ nhân, nghệ sĩ và diễn viên từ trong công tác thực tiễn, cùng với năng khiếu của mỗi cá nhân đã xây dựng nên và đã giành được mọi sự thắng lợi thật đáng biểu dương. Trong thời đại khoa học kỹ thuật công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngày nay, làm theo vốn sống bằng phương pháp kinh nghiệm không thì chưa đủ, cần phải có phương pháp khoa học kỹ thuật để khai thác mới đáp ứng kịp thời, đúng theo nhịp sống của con người hiện đại. Ở trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, tuy chúng ta có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng nếu chúng ta thiếu tính khoa học, không có cán bộ chuyên môn dùng phương pháp khoa học kỹ thuật để khai thác tài nguyên phong phú đó, thì chúng ta ắt hẳn sẽ bị giới hạn tại một thời điểm nào đó và biết đến bao giờ chúng ta sẽ tiến tới mục đích được? Trong lĩnh vực văn hoá – nghệ thuật cũng thế, tuy dân tộc Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu biểu diễn, nhất là nghệ thuật sân khấu Dù kê, nhưng lại thiếu tính khoa học, thiếu cán bộ chuyên môn thì chắc chắn nghệ thuật sân khấu Dù kê ấy rất khó phát triển một cách đúng đắn theo nguyện vọng được. Nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê là một loại hình nghệ thuật biểu diễn tổng hợp của dân tộc Khmer Nam Bộ. Nguyện vọng của những người làm nghệ thuật sân khấu Dù kê là dựa theo quan điểm mỹ học Mác-xít, cố gắng phấn đấu đưa nghệ thuật sân khấu Dù kê của dân tộc Khmer tiến lên “Nghệ thuật sân khấu Dù kê hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Vấn đề này mới chỉ là bước đầu, nên đòi hỏi cần phải có sự trao đổi cả về mặt lý luận lẫn cách thể nghiệm và học thuật thêm nhiều hơn nữa. Để thực hiện được những vấn đề này, nghệ thuật sân khấu Khmer Nam Bộ phải có tính khoa học để đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân, góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn của người Việt Nam, nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, có nghĩa là: cần phải có đầy đủ cán bộ chuyên môn của từng bộ phận, bộ môn. Do đó, chúng tôi có vài ý kiến đề xuất và kiến nghị đến Hội đồng Dân tộc Quốc hội, Ủy ban Dân tộc, Ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hội Văn học - Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ như sau: Cần đào tạo đội ngũ cán bộ nghệ thuật sân khấu chuyên môn như: Lý luận phê bình sân khấu, đạo diễn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, biên đạo múa là người dân tộc Khmer để nghiên cứu, sưu tầm, dàn dựng, trang trí mỹ thuật, ghi chép đưa vào học thuật tất cả các bài bản về âm nhạc, ca, múa và nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Cần thành lập một nhà hát nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long để khai thác, giảng dạy và đào tạo diễn viên người dân tộc Khmer, nhằm bổ sung diễn viên cho các đoàn nghệ thuật Khmer Nam Bộ, để phục vụ công chúng và khách du lịch. Cần thành lập Hội Văn học – Nghệ thuật Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long để sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác, in ấn xuất bản phát hành rộng rãi, kiểm tra và quản lý các loại văn hoá phẩm này. 4. Kết luận Qua việc sưu tầm, nghiên cứu, học thuật, những đề xuất và kiến nghị trên đây, chúng tôi tin chắc rằng nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ sẽ được Đảng, Nhà nước, đăc biệt là Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ chú ý, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ để nghệ thuật sân khấu Dù kê này đạt đến nguyện vọng như trên, để cùng góp thêm những đoá hoa tươi thắm đầy hương sắc của mình vào vườn hoa nghệ thuật của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Tài liệu tham khảo Hội Nhà văn. 1985. Bác Hồ với văn nghệ sĩ. NXB Tác Phẩm Mới. Hà Nội. Báo cáo của Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh. Kỷ niệm 37 năm (1963-2000) thành lập, tồn tại và phát triển. Sỹ Tiến.1984. Bước đầu tìm hiểu sân khấu Cải lương. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. 2006. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam. NXB Thế Giới. Hà Nội. Khu di tích phủ chủ tịch.1997. 105 lời nói của Bác Hồ. NXB Văn hoá - Thông tin Trần Văn Phác. 1985. Mấy vấn đề cấp bách về công tác Văn Hoá-Nghệ thuật. NXB Văn hoá. Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị Yến Tuyết. 1987. Người Khmer tỉnh Cửu Long. Sở Văn hoá - Thông tin Cửu Long xuất bản. Hoàng Như Mai. 1986. Sân khấu Cải lương. NXB Tổng hợp Đồng Tháp. Thạch Sết (Sang Sết). 2004. Đề án thành lập trường Cao đẳng văn hoá - nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Luận văn tốt nghiệp Chuyên viên cao cấp. Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang Nguyễn Đình Phúc. 1981. Vài nét về văn nghệ truyền thống Cămpuchia. NXB Khoa học Xã hội. Vũ Tuyết Loan. 1986. Tuyển tập văn học Cămpuchia. NXB Văn học. Hà Nội. Đặng Vũ Thị Thảo. 1993. Lễ hội của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Về văn hoá của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long). NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội Nhiều tác giả. 1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Sóc Trăng. Vông Phlêng Khmer. NXB Bộ Văn hoá - Nghệ thuật Campuchia. Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201416 Soá 13, thaùng 3/2014 17 chúng tự xúc động, xin đầu thú và giao nộp vũ khí tại trên sân khấu như: Kih Ry Vông thuộc tỉnh Tà Keo và Bo Sét thuộc tỉnh Com pông Spư. Điều đó chứng tỏ rằng sân khấu Dù kê có tác động lớn đối với kẻ thù, là vũ khí sắc bén của cách mạng khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Đối với những ai đã lầm đường, lạc lối giúp phân biệt được ai bạn, ai thù, rồi thức tỉnh mà quay về với Tổ quốc thân yêu của mình. Điều đó đúng như lời nói của Bác Hồ đã dạy “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”9. Với sự kiện này làm cho ông Chhêng Phun – Bộ tưởng Bộ Văn hoá -Thông tin lúc bấy giờ phải ngạc nhiên và thán phục: “Xưa nay, ở đất nước Campuchia chúng tôi chưa từng dàn dựng được vở diễn Lkhôn Ba Sắc (Dù kê) mang đề tài hiện đại như các bạn. Do đó chúng tôi cần phải học hỏi nghệ thuật sân khấu Lkhôn Ba Sắc từ các bạn thêm nhiều hơn nữa, để cùng xây dựng các vở diễn mang đề tài hiện đại, nhằm phục vụ đáp ứng đúng theo tình hình mới, nhiệm vụ mới của đất nước”. Dù kê là một loại hình nghệ thuật sân khấu kịch hát đồng cảm của dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long hay còn gọi là vùng sông Ba Sắc, nghệ thuật sân khấu Dù kê này hình thành và phát triển theo nhịp sống của xã hội, có lai lịch cụ thể, đây là một loại hình nghệ thuật sân khấu mới, rất độc đáo đã và đang được chú ý quan tâm và càng ngày càng được phát triển. Dù kê có sức sống mãnh liệt, có đầy đủ khả năng để giải quyết mọi vấn đề cả về mặt thẩm mỹ, cả về mặt chính trị, đáp ứng đúng theo sự yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của mọi tầng lớp khán giả trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai lâu dài. 3. Đề xuất và kiến nghị Dù kê là một loại hình nghệ thuật sân khấu kịch hát có đầy đủ truyện kịch, tính kịch, vũ đạo, võ thuật đúng theo mọi tình huống kịch. Dù kê có đất dựng võ, có sân khấu để đào tạo diễn viên, có nghệ nhân, nghệ sĩ giảng dạy về kỹ thuật biểu diễn để phục vụ công chúng thưởng thức. Hình thức và nội dung của nghệ thuật sân khấu Dù kê này đã xuất thân từ mảnh đất Nam Bộ thân yêu của chúng ta hoà nhập vào đất nước Campuchia từ năm 1927, góp phần làm giàu đẹp thêm nền văn 9 105 lời nói của Bác Hồ, T.73, NXB Văn hoá Thông tin 1997 hoá nghệ thuật cho đất nước chùa Tháp ngày càng thêm phong phú hơn và được các giới yêu mến nghệ thuật Dù kê của đất nước bạn đón nhận loại hình nghệ thuật kịch hát Dù kê mới mẻ này vào đất nước của mình và đặt lại tên mới gọi là “Lkhôn Ba Sắc” tức ca kịch vùng sông Ba Sắc để làm kỷ niệm. Ngược lại, nếu một ai đó không thừa nhận nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê ấy, có nghĩa là phủ nhận mọi tầng lớp khán giả đã và đang mến mộ loại hình nghệ thuật sân khấu này. Với những kết quả to lớn mà các đoàn nghệ thuật Khmer đã giành được như trên chính là được sự quan tâm, chỉ đạo đúng đắn về chủ trương đường lối văn nghệ của Đảng, Nhà nước, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, trực tiếp là Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch các tỉnh, cùng với sự yêu thích nghệ thuật cách mạng, yêu thích nghệ thuật dân tộc Khmer của tất cả anh, chị, em nghệ nhân, nghệ sĩ và diễn viên từ trong công tác thực tiễn, cùng với năng khiếu của mỗi cá nhân đã xây dựng nên và đã giành được mọi sự thắng lợi thật đáng biểu dương. Trong thời đại khoa học kỹ thuật công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngày nay, làm theo vốn sống bằng phương pháp kinh nghiệm không thì chưa đủ, cần phải có phương pháp khoa học kỹ thuật để khai thác mới đáp ứng kịp thời, đúng theo nhịp sống của con người hiện đại. Ở trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, tuy chúng ta có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng nếu chúng ta thiếu tính khoa học, không có cán bộ chuyên môn dùng phương pháp khoa học kỹ thuật để khai thác tài nguyên phong phú đó, thì chúng ta ắt hẳn sẽ bị giới hạn tại một thời điểm nào đó và biết đến bao giờ chúng ta sẽ tiến tới mục đích được? Trong lĩnh vực văn hoá – nghệ thuật cũng thế, tuy dân tộc Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu biểu diễn, nhất là nghệ thuật sân khấu Dù kê, nhưng lại thiếu tính khoa học, thiếu cán bộ chuyên môn thì chắc chắn nghệ thuật sân khấu Dù kê ấy rất khó phát triển một cách đúng đắn theo nguyện vọng được. Nghệ thuật sân khấu kịch hát Dù kê là một loại hình nghệ thuật biểu diễn tổng hợp của dân tộc Khmer Nam Bộ. Nguyện vọng của những người làm nghệ thuật sân khấu Dù kê là dựa theo quan điểm mỹ học Mác-xít, cố gắng phấn đấu đưa nghệ thuật sân khấu Dù kê của dân tộc Khmer tiến lên “Nghệ thuật sân khấu Dù kê hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Vấn đề này mới chỉ là bước đầu, nên đòi hỏi cần phải có sự trao đổi cả về mặt lý luận lẫn cách thể nghiệm và học thuật thêm nhiều hơn nữa. Để thực hiện được những vấn đề này, nghệ thuật sân khấu Khmer Nam Bộ phải có tính khoa học để đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân, góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn của người Việt Nam, nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, có nghĩa là: cần phải có đầy đủ cán bộ chuyên môn của từng bộ phận, bộ môn. Do đó, chúng tôi có vài ý kiến đề xuất và kiến nghị đến Hội đồng Dân tộc Quốc hội, Ủy ban Dân tộc, Ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hội Văn học - Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ như sau: Cần đào tạo đội ngũ cán bộ nghệ thuật sân khấu chuyên môn như: Lý luận phê bình sân khấu, đạo diễn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, biên đạo múa là người dân tộc Khmer để nghiên cứu, sưu tầm, dàn dựng, trang trí mỹ thuật, ghi chép đưa vào học thuật tất cả các bài bản về âm nhạc, ca, múa và nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Cần thành lập một nhà hát nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long để khai thác, giảng dạy và đào tạo diễn viên người dân tộc Khmer, nhằm bổ sung diễn viên cho các đoàn nghệ thuật Khmer Nam Bộ, để phục vụ công chúng và khách du lịch. Cần thành lập Hội Văn học – Nghệ thuật Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long để sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác, in ấn xuất bản phát hành rộng rãi, kiểm tra và quản lý các loại văn hoá phẩm này. 4. Kết luận Qua việc sưu tầm, nghiên cứu, học thuật, những đề xuất và kiến nghị trên đây, chúng tôi tin chắc rằng nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ sẽ được Đảng, Nhà nước, đăc biệt là Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ chú ý, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ để nghệ thuật sân khấu Dù kê này đạt đến nguyện vọng như trên, để cùng góp thêm những đoá hoa tươi thắm đầy hương sắc của mình vào vườn hoa nghệ thuật của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Tài liệu tham khảo Hội Nhà văn. 1985. Bác Hồ với văn nghệ sĩ. NXB Tác Phẩm Mới. Hà Nội. Báo cáo của Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh. Kỷ niệm 37 năm (1963-2000) thành lập, tồn tại và phát triển. Sỹ Tiến.1984. Bước đầu tìm hiểu sân khấu Cải lương. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. 2006. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam. NXB Thế Giới. Hà Nội. Khu di tích phủ chủ tịch.1997. 105 lời nói của Bác Hồ. NXB Văn hoá - Thông tin Trần Văn Phác. 1985. Mấy vấn đề cấp bách về công tác Văn Hoá-Nghệ thuật. NXB Văn hoá. Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị Yến Tuyết. 1987. Người Khmer tỉnh Cửu Long. Sở Văn hoá - Thông tin Cửu Long xuất bản. Hoàng Như Mai. 1986. Sân khấu Cải lương. NXB Tổng hợp Đồng Tháp. Thạch Sết (Sang Sết). 2004. Đề án thành lập trường Cao đẳng văn hoá - nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Luận văn tốt nghiệp Chuyên viên cao cấp. Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang Nguyễn Đình Phúc. 1981. Vài nét về văn nghệ truyền thống Cămpuchia. NXB Khoa học Xã hội. Vũ Tuyết Loan. 1986. Tuyển tập văn học Cămpuchia. NXB Văn học. Hà Nội. Đặng Vũ Thị Thảo. 1993. Lễ hội của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Về văn hoá của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long). NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội Nhiều tác giả. 1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Sóc Trăng. Vông Phlêng Khmer. NXB Bộ Văn hoá - Nghệ thuật Campuchia.
File đính kèm:
- nghe_thuat_san_khau_du_ke_di_san_van_hoa_doc_dao_cua_dan_toc.pdf