Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh

TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện dạng động kinh trên điện não đồ. Phương pháp: Khảo sát đoàn hệ tiến cứu, trên 150 bản điện não của 75 bệnh nhân động kinh (mỗi BN được đo EEG 02 lần, lần I là EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, lần II là EEG có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) đến khám và điều trị tại khoa Nội Thần Kinh tổng quát – Bệnh viện Nhân Dân 115. Kết quả: Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, chỉ có 13 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 17,3%. Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, có 44 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 58,7%. Có mối liên hệ nhân quả giữa nghiệm pháp gây mất ngủ một phần với các phóng điện dạng động kinh ngoài cơn, thể hiện qua phép kiểm 2McNemar với kết quả Chi-Square = 20 > 1, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001,="" và="" rr="1,32." kết="" luận:="" nghiệm="" pháp="" gây="" mất="" ngủ="" một="" phần="" có="" khả="" năng="" làm="" tăng="" sự="" xuất="" hiện="" các="" phóng="" điện="" dạng="" động="" kinh="" so="" với="" khi="" không="" sử="" dụng="" nghiệm="" pháp="" này.="" do="" đó,="" ngoài="" các="" nghiệm="" pháp="" kích="" thích="" đã="" sử="" dụng="" thường="" qui="" (np="" hít="" thở="" sâu,="" np="" kích="" thích="" ánh="" sáng),="" cần="" ứng="" dụng="" nghiệm="" pháp="" gây="" mất="" ngủ="" một="" phần="" nhiều="" hơn="" trong="" kỹ="" thuật="" đo="" điện="" não;="" để="" nâng="" cao="" chất="" lượng="" bản="" ghi="" eeg,="" hỗ="" trợ="" với="" lâm="" sàng="" và="" hình="" ảnh="" học="" trong="" việc="" chẩn="" đoán="" và="" điều="" trị="" động="">

pdf 6 trang yennguyen 4200
Bạn đang xem tài liệu "Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh

Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 91
NGHIỆM PHÁP GÂY MẤT NGỦ MỘT PHẦN 
TRONG VIỆC PHÁT HIỆN SÓNG DẠNG ĐỘNG KINH 
Lê Văn Tuấn*, Đỗ Quốc Hùng** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện 
dạng động kinh trên điện não đồ. 
Phương pháp: Khảo sát đoàn hệ tiến cứu, trên 150 bản điện não của 75 bệnh nhân động kinh (mỗi BN được 
đo EEG 02 lần, lần I là EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, lần II là EEG có sử dụng 
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) đến khám và điều trị tại khoa Nội Thần Kinh tổng quát – Bệnh viện Nhân 
Dân 115. 
Kết quả: Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, chỉ có 13 trên tổng số 75 bản ghi EEG có 
ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 17,3%. Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây 
mất ngủ một phần, có 44 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động 
kinh, chiếm tỷ lệ 58,7%. Có mối liên hệ nhân quả giữa nghiệm pháp gây mất ngủ một phần với các phóng điện 
dạng động kinh ngoài cơn, thể hiện qua phép kiểm 2 McNemar với kết quả Chi-Square = 20 > 1, có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,001, và RR = 1,32. 
Kết luận: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có khả năng làm tăng sự xuất hiện các phóng điện dạng 
động kinh so với khi không sử dụng nghiệm pháp này. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích đã sử dụng 
thường qui (NP hít thở sâu, NP kích thích ánh sáng), cần ứng dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần nhiều 
hơn trong kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng bản ghi EEG, hỗ trợ với lâm sàng và hình ảnh học trong 
việc chẩn đoán và điều trị động kinh. 
Từ khóa: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, điện não đồ, động kinh 
ABSTRACT 
PARTIAL SLEEP DEPRIVATION FOR ACTIVATING INTERICTAL EPILEPTIFORM DISCHARGES 
Le Van Tuan, Do Quoc Hung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 91 - 96 
Objectives: Define effectiveness of partial sleep deprivation as a trigger method of interictal epileptiform 
discharges (IED) on electroencephalography (EEG). 
Methods: Prospective cohort study on 150 EEG tracings of 75 suspected epilepsy patients admitted on 
Department of General Neurology - 115 People Hospital (two EEG recordings of every patient in which the first 
recording is with non – partial sleep deprivation and the second one was with partial sleep deprivation). 
Results: There were only 13 (17.3%) of the first recordings with non – partial sleep deprivation showed IED. 
The abnormal EEG with IED were increase to 44 (58.7%) among the second recordings with partial sleep 
deprivation. There was a cause – effect relationship between partial sleep deprivation procedure and IED 
presenting by 2 McNemar test (Chi-Square = 20, p<0.001). 
Conclusions: Partial sleep deprivation activates IED and is useful in evaluation of suspected epilepsy. 
Key words: Partial sleep deprivation, electroencephalography, epilepsy 
* Bộ môn Thần Kinh, Đại Học Y Dược TP. HCM ** BV. Nhân Dân 115 
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Quốc Hùng ĐT: 0903886333 Email: doquochung97@yahoo.com.vn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 92
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động kinh là một trong các bệnh mạn tính 
thường gặp của hệ thần kinh trung ương; xảy ra 
ở tất cả các lứa tuổi và chủng tộc, các quốc gia và 
ở cả hai giới. Bệnh có thể gây ra những hậu quả 
nặng nề về mặt xã hội, thể chất và tâm lý. 
Chẩn đoán bệnh động kinh là chẩn đoán lâm 
sàng. Điện não đồ (EEG) đóng vai trò hỗ trợ 
chẩn đoán, giúp phân loại cơn động kinh và hội 
chứng động kinh; từ đó giúp chọn lựa điều trị và 
giúp tiên lượng bệnh. 
Điện não đồ thường qui cho kết quả dương 
tính trong khoảng 20-50% các trường hợp(5). Do 
đó, các nghiệm pháp hoạt hóa như hít thở sâu, 
kích thích ánh sáng, ngủ và gây mất ngủ, được 
áp dụng nhằm làm tăng độ nhạy của kỹ thuật 
chẩn đoán này. 
Gây mất ngủ là một phương pháp hữu ích 
để kích hoạt các phóng điện dạng động kinh 
trong và ngoài cơn ở những bệnh nhân bị 
động kinh. Nghiệm pháp gây mất ngủ có khả 
năng kích hoạt các phóng điện dạng động 
kinh một cách trực tiếp và gián tiếp (do làm 
cho bệnh nhân dễ đi vào giấc ngủ trong quá 
trình đo điện não). 
Tuy nhiên, việc thức suốt đêm trước khi đo 
EEG cũng như khả năng có thể tái phát cơn động 
kinh khi làm nghiệm pháp mất ngủ là một gánh 
nặng đối với bệnh nhân, thân nhân và cả nhân 
viên y tế (4). Để khắc phục nhược điểm này, một 
số tác giả đã đề nghị cho bệnh nhân ngủ một 
thời gian ngắn thay vì phải thức suốt đêm. 
Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần đã được 
chứng minh có hiệu quả trong một vài công 
trình nghiên cứu(1, 9). 
Ở Việt nam hiện nay, kỹ thuật đo EEG chưa 
được quan tâm đúng mức và chuẩn hóa theo 
những tiêu chuẩn của các Hiệp hội chống động 
kinh trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các 
phòng điện não ở các bệnh viện có chuyên khoa 
thần kinh đều chưa ứng dụng nghiệm pháp gây 
ngủ, cũng như gây mất ngủ và gây mất ngủ một 
phần trong qui trình chẩn đoán động kinh. Do 
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Nghiệm 
pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát 
hiện sóng dạng động kinh” với các mục tiêu sau: 
- Xác định tỷ lệ phóng điện dạng động kinh 
trên EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần. 
- Xác định tỷ lệ phóng điện dạng động kinh 
trên EEG có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ 
một phần. 
- Xác định các yếu tố có liên quan đến sự 
xuất hiện của phóng điện dạng động kinh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng bị bệnh 
động kinh đến khám và điều trị tại Bệnh viện 
Nhân dân 115 thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 
08/2010 đến tháng 06/2011. 
Bệnh nhân thỏa các tiêu chí chọn mẫuvà tiêu 
chí loại trừ sẽ được đo EEG 02 lần. Lần 1 (không 
sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) 
thường vào buổi trưa ngay sau khi vào viện. Lần 
2 (có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một 
phần) thường vào buổi trưa ngày kế tiếp. 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ tiến cứu. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Ngẫu nhiên không xác suất. 
Xử lý số liệu 
Phần mềm SPSS phiên bản 11.5. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Tỷ lệ giới tính trong mẫu nghiên cứu: Nam: 
60% - Nữ: 40% 
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu 
nghiên cứu là 43,2 ± 19,2 tuổi, trẻ nhất là 13 và 
lớn nhất là 84. 
45% các trường hợp không có bệnh lý gì 
trước đây. Bệnh lý thường gặp nhất trong tiền sử 
bệnh là tai biến mạch máu não (17,3%), sau đó là 
chấn thương sọ não (12%), còn lại là các bệnh lý 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 93
khác (25,7%). 
Cơn động kinh thường gặp nhất là động 
kinh toàn thể hóa (76%), sau đó là cơn cục bộ vận 
động (10,7%), cục bộ phức tạp (8%), cục bộ cảm 
giác (2,7%). Loại cơn ít gặp nhất là cơn cục bộ 
thực vật (1,3%) và động kinh cơn lớn (1,3%). 
Phần lớn các trường hợp cơn động kinh 
mới xuất hiện trong vòng một tháng (41%). 
Tuy nhiên, có 19% trường hợp đã bị co giật 
trên 1 năm. 
72% các trường hợp có ít hơn 10 cơn động 
kinh trước khi nhập viện; 28% các trường hợp có 
từ 10 cơn động kinh trở lên. 
72% các trường hợp được tiến hành đo EEG 
trong vòng 48 giờ đầu tiên. 
70,6% các trường hợp có bệnh lý khác đi kèm 
với bệnh động kinh. 29,3% trường hợp bệnh 
động kinh là biểu hiện duy nhất. 
20% bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu có 
triệu chứng thần kinh khu trú, 80% trường hợp 
còn lại bình thường khi thăm khám thực thể 
thần kinh. 
Kết quả điện não đồ 
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, tỷ lệ bản ghi EEG có kết quả bất 
thường là 54,6%; Sau khi thực hiện nghiệm pháp, 
tỷ lệ này tăng lên 73,3%. 
Trong 54,6% bản ghi có kết quả bất thường 
trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất ngủ 
một phần: 17,3% có phóng điện dạng động kinh 
và có thể có cả sóng bất thường không có dạng 
động kinh; 37,3% chỉ có các sóng bất thường 
không có dạng động kinh. Trong 73,3% bản ghi 
có kết quả bất thường sau khi thực hiện nghiệm 
pháp: 58,7% có phóng điện dạng động kinh và 
có thể có cả sóng bất thường không có dạng 
động kinh; 14,6% chỉ có các sóng bất thường 
không có dạng động kinh. 
Trước khi sử dụng nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, vị trí thường gặp nhất của các 
phóng điện dạng động kinh là vùng trán (61,5%), 
và cả trán lẫn thái dương hoặc trung tâm (23,1%). 
Sau khi làm nghiệm pháp, vị trí thường gặp nhất 
của các phóng điện dạng động kinh là vùng trán 
(47,7%), kế tiếp là vùng thái dương (31,8%) và cả 
trán lẫn thái dương hoặc trung tâm (9,1%) 
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, các phóng điện dạng động kinh 
xuất hiện trong giai đoạn thức và cả lúc thức lẫn 
lúc ngủ khoảng 39% các trường hợp. Sau khi 
thực hiện nghiệm pháp, tỷ lệ này tăng lên 59%. 
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, có 32 bản ghi không ghi nhận 
được giai đoạn ngủ, chiếm tỷ lệ 42,7%; các 
trường hợp còn lại chỉ có biểu hiện của các giai 
đoạn 1 và 2 của giấc ngủ không có cử động mắt 
nhanh. Sau khi thực hiện nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, số bản ghi không ghi nhận được 
giai đoạn ngủ là 9 trường hợp, chiếm tỷ lệ 12%; 
đặc biệt, ghi nhận được các giai đoạn 3 và 4 của 
giấc ngủ không có cử động mắt nhanh với tỷ lệ 
tương ứng là 14,7% và 1,3%. 
Hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ 
một phần trong việc phát hiện sóng dạng 
động kinh 
Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, chỉ có 17,3% bản ghi EEG có ghi 
nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động 
kinh. Sau khi sử dụng nghiệm pháp, tỷ lệ này là 
58,7%. 
Test 2 McNemar 
N 75 
Chi-Square 20 
P < 0,001 
Phép kiểm 2 McNemar cho kết quả Chi-Square = 20 > 
1, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
Số đo kết hợp RR 
Phóng Điện Dạng Động Kinh 
 Sau NP 
 Có Không Cộng 
Trước NP Không 38 24 62 
Có 6 7 13 
 Cộng 44 31 75 
RR = (38/62)/(6/13) = 1,32 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 94
Các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện 
của phóng điện dạng động kinh 
Yếu tố Hệ số 
B 
Khoảng tin 
cậy 95% của 
hệ số B 
p Hệ số 
chuẩn 
hóa Beta 
Nhóm tuổi 0,008 0,003 0,013 0,001 0,325 
Khoảng thời gian 
bị động kinh 
-0,005 -0,008 -0,002 0,002 -0,319 
Số cơn động kinh 0,016 0,006 0,026 0,002 0,316 
Cơn động kinh 
cuối 
-0,008 -0,013 -0,003 0,002 -0,318 
Khả năng xuất hiện các phóng điện dạng 
động kinh tăng thuận chiều với số tuổi và số cơn 
động kinh, tăng ngược chiều với khoảng thời 
gian bị động kinh cũng như khoảng thời gian 
tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não. 
BÀN LUẬN 
Về tỷ lệ bản điện não có phóng điện dạng 
động kinh trước và sau khi thực hiện 
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các 
bệnh nhân đều trải qua nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần với thời gian ngủ tối đa là 03 giờ 
vào buổi tối trước (đi ngủ lúc 24h, thức dậy lúc 
03 giờ). Hầu hết các bệnh nhân được đo EEG vào 
buổi trưa sau khi ăn, trong phòng tối và yên tĩnh. 
Tất cả các bản ghi EEG đều kéo dài 1 giờ. Trong 
khoảng 15 phút đầu tiên là EEG giai đoạn thức 
với đầy đủ các nghiệm pháp hoạt hóa như kích 
thích ánh sáng cũng như nhắm mở mắt và tăng 
thông khí ở bệnh nhân hợp tác. Khoảng 45 phút 
còn lại là giai đoạn ngủ với giấc ngủ tự nhiên, 
không dùng thuốc. 
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Hồng Thanh(7): Trước “đêm trắng”, 24/35 bệnh 
nhân có kết quả bất thường (60%); trong đó 21/35 
bệnh nhân có các sóng bất thường không có 
dạng động kinh bao gồm các sóng chậm theta và 
delta (60%); chỉ có 2/35 bệnh nhân có ghi nhận 
các phóng điện dạng động kinh bao gồm các 
hình thức tổ hợp của các nhọn/đa nhọn/sóng 
chậm (8,6%). Sau “đêm trắng”, 29/35 bệnh nhân 
có kết quả điện não bất thường (82,9%); trong đó 
chỉ có 8/35 bệnh nhân có các sóng bất thường 
không có dạng động kinh (22,8%); tỷ lệ các bản 
ghi điện não có các phóng điện dạng động kinh 
tăng đáng kể (60,1%). Tác giả đã đưa ra một kết 
luận chung là nghiệm pháp gây mất ngủ làm 
tăng tỷ lệ thay đổi sóng nền và sóng kịch phát 
trên điện não đồ từ 68,6% lên 82,9 % và sự khác 
biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Nghiên cứu của J. A. Carpay và cộng sự(1) 
trên 552 trẻ em và thiếu niên, từ 1 tháng đến 16 
tuổi, có hai hay nhiều cơn động kinh trong quá 
khứ. Tất cả bệnh nhân được đo EEG thường quy. 
Trong các trường hợp EEG thường quy cho kết 
quả bình thường, sẽ tiến hành đo EEG lần thứ II 
có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần. 
Bệnh nhân được gây mất ngủ một phần tùy theo 
lứa tuổi: từ 0-2 tuổi: EEG được ghi trong giấc ngủ 
trưa; từ 3-10 tuổi: bệnh nhân được ngủ tối đa 07 
giờ vào tối hôm trước; từ 11-15 tuổi: thời gian 
ngủ tối đa vào tối hôm trước là 05 giờ. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ phát hiện sóng dạng 
động kinh của EEG thường quy là 56%; Trong 
44% các trường hợp còn lại, EEG có sử dụng 
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần giúp phát 
hiện sóng dạng động kinh thêm 34,5% (tương 
đương 11% nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân). 
Do đó, nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân 
trong nghiên cứu, bản ghi EEG lần thứ II có sử 
dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần làm 
tỷ lệ phát hiện sóng dạng động kinh từ 56% (với 
EEG thường quy) tăng lên 67%. 
R.Peraita-Adrados(8) đã tiến hành ghi EEG 
trên 686 bệnh nhân có ít nhất 1 cơn động kinh 
trong quá khứ. Bệnh nhân được gây mất ngủ 
một phần từ 1 đến 3 giờ vào đêm hôm trước (3 
giờ đối với người lớn; 2 giờ đối với thanh thiếu 
niên; 1 giờ đối với trẻ em và không sử dụng 
nghiệp pháp gây mất ngủ cho trẻ dưới 12 tháng 
tuổi); sau đó được đo EEG liên tục trong 02 tiếng 
(từ 1 đến 3 giờ chiều) ngày hôm sau. Trong số 
này, 40 trường hợp có kết quả không rõ ràng 
được đo EEG lần thứ hai. Phóng điện dạng động 
kinh ngoài và trong cơn được ghi nhận ở 40,4% 
các trường hợp khi đo EEG lần đầu và 35% trong 
40 trường hợp đo lần thứ hai. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 95
Trước khi sử dụng nghiệm pháp gây mất 
ngủ một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện 
dạng động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là 
17%. Kết quả này cao hơn của tác giả Nguyễn 
Hồng Thanh (8,6%) do tác giả ghi EEG theo qui 
trình thường quy(7,2), trong khi đó bản ghi EEG 
của chúng tôi có thời gian dài hơn (01 giờ). Kết 
quả này thấp hơn đáng kể so với kết quả nghiên 
cứu của tác giả J. A. Carpay (56%), do tác giả có 
thể kéo dài thời gian ghi đến 1,5 giờ trong 
trường hợp chưa ghi nhận được EEG giấc ngủ 
của bệnh nhân, và tuổi trung bình trong nhóm 
nghiên của tác giả nhỏ hơn trong nghiên cứu của 
chúng tôi(6,3). 
Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ 
một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện dạng 
động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là 59%. 
Kết quả này tương đương của tác giả Nguyễn 
Hồng Thanh (60,1%) và J.A Carpay (67%). 
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Thanh tuy 
sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ toàn bộ 
(“đêm trắng”) nhưng thời gian của bản ghi ngắn 
hơn (EEG thường quy). 
Về số đo kết hợp RR 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số đo kết 
hợp RR=1,32. Điều này có thể diễn giải như sau: 
Sau nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, khả 
năng xuất hiện các phóng điện dạng động kinh ở 
nhóm không có IED gấp 1,32 lần nhóm có IED 
khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ 
một phần. Giá trị 1,32 nhỏ hơn kỳ vọng (RR=1,5) 
có thể do cỡ mẫu nhỏ, thời gian đo EEG ngắn (01 
giờ) và điều kiện phòng ốc trang thiết bị không 
tốt (tiếng ồn). 
Về các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện 
của phóng điện dạng động kinh 
Sự xuất hiện của các phóng điện dạng động 
kinh ngoài cơn tăng cùng chiều với nhóm tuổi 
của bệnh nhân và số cơn động kinh trước khi đo 
EEG; tăng ngược chiều với khoảng thời gian bị 
động kinh và thời gian tính từ cơn động kinh 
cuối đến lúc đo điện não. Hay nói cách khác: các 
phóng điện dạng động kinh ngoài cơn dễ xuất 
hiện ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều cơn 
động kinh, mới bị động kinh gần đây và được đo 
điện não sớm. 
C. Ajmone Marsan và cộng sự đã tiến hành 
một nghiên cứu trên 1824 bản ghi điện não từ 
308 bệnh nhân (trung bình 6 bản EEG/1 bệnh 
nhân). Từ nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa 
ra kết luận: yếu tố tuổi tác, bao gồm cả tuổi lúc 
đo điện não và tuổi lúc khởi phát động kinh, có 
liên quan đến sự xuất hiện của các phóng điện 
dạng động kinh. Các bản ghi điện não có nhiều 
khả năng bắt được các phóng điện này ở nhóm 
trẻ dưới 10 tuổi và nhiều khả năng bình thường 
ở nhóm bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi. Thêm vào 
đó, khi xét đến các yếu tố như khoảng thời gian 
tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não 
và số cơn động kinh trước khi đo, tác giả nhận 
định: khoảng thời gian tính từ cơn động kinh 
cuối đến lúc đo điện não càng ngắn và/hoặc số 
cơn động kinh càng nhiều thì tỷ lệ bắt được các 
phóng điện dạng động kinh càng cao(6). 
Trong một nghiên cứu đa trung tâm tại Đức, 
Hungary và Thụy Điển trên 303 bệnh nhân, 
Jozsef Janszky và cộng sự thấy rằng: các yếu tố 
như tuổi của bệnh nhân, khoảng thời gian bị 
động kinh và số cơn động kinh càng nhiều thì tỷ 
lệ bắt được các phóng điện dạng động kinh càng 
cao (theo phân tích đơn biến). Tuy nhiên, khi 
phân tích hồi quy logistic, chỉ có tần suất cơn cao 
(p<0,001) và khoảng thời gian bị động kinh lâu 
(p=0,007) là có liên quan đến khả năng bắt được 
các phóng điện dạng động kinh trên điện não 
đồ, còn yếu tố tuổi của bệnh nhân thì không(3). 
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Mark A. 
King và cộng sự, ghi điện não trong vòng 24 giờ 
sau cơn động kinh cuối có khả năng bắt được các 
phóng điện dạng động kinh nhiều hơn so với ghi 
điện não sau 24 giờ (51% so với 34%)(9). 
Như vậy, khi so sánh kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi với các tác giả trên, có thể rút ra một số 
nhận xét: 
- Tuổi của bệnh nhân tại thời điểm đo EEG 
tăng cùng chiều với tần suất của các phóng điện 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 96
dạng động kinh; khác với các kết quả của các tác 
giả C. A. Marsan và J. Janszky. 
- Số cơn động kinh trước khi đo EEG tăng 
cùng chiều với tần suất của các phóng điện dạng 
động kinh; phù hợp với các kết quả của các tác 
giả C. A. Marsan và J. Janszky. 
- Khoảng thời gian tính từ lúc bị động kinh 
đến lúc đo EEG tăng ngược chiều với tần suất 
của các phóng điện dạng động kinh; phù hợp 
với kết quả của tác giả C. A. Marsan nhưng khác 
với kết quả của J. Janszky. 
- Thời gian tính từ cơn động kinh cuối đến 
lúc đo EEG tăng ngược chiều với tần suất của các 
phóng điện dạng động kinh; phù hợp với kết 
quả của các tác giả C. A. Marsan và M. A. King. 
- Sự khác biệt trên có thể do cỡ mẫu của 
chúng tôi quá bé so với các tác giả. 
KẾT LUẬN 
Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có 
tác dụng kích hoạt các phóng điện dạng động 
kinh trên điện não đồ ở bệnh nhân bị động 
kinh. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích 
đã sử dụng thường qui, cần ứng dụng nghiệm 
pháp gây mất ngủ một phần nhiều hơn trong 
kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng 
bản ghi EEG. 
Ngoài nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, 
còn có các yếu tố khác làm tăng khả năng xuất 
hiện của các phóng điện dạng động kinh ngoài 
cơn, bao gồm: nhóm bệnh nhân lớn tuổi, có 
nhiều cơn động kinh, mới bị động kinh gần đây 
và được đo điện não sớm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carpay J.A., et al (1997). "The diagnostic yield of a second EEG 
after partial sleep deprivation: a prospective study in children 
with newly diagnosed seizures". Epilepsia, 38(5): p. 595-9.. 
2. Flink R, Guekht AB, Malmgren K, Michelucci R, Neville B, 
Pinto F, Stephani U, Ozkara C (2002). "Guidelines for the use of 
EEG methodology in the diagnosis of epilepsy. International 
League Against Epilepsy: commission report. Commission on 
European Affairs: Subcommission on European Guidelines". 
Acta Neurol Scand, 106(1): p. 1-7. 
3. Janszky J, et al (2005). "Spike frequency is dependent on 
epilepsy duration and seizure frequency in temporal lobe 
epilepsy". Epileptic Disord, 7(4): p. 355-9. 
4. Kubicki S, Wittenbecher H (1991). "Short-term sleep EEG 
recordings after partial sleep deprivation as a routine 
procedure in order to uncover epileptic phenomena: an 
evaluation of 719 EEG recordings". Epilepsy Res Suppl, 2: p. 
217-30. 
5. Hirsch LJ and Hiba A (2009). "Electroencephalography (EEG) 
in the diagnosis of seizures and epilepsy". Up To Date. 
6. Marsan C, Zivin LS (1970). "Factors related to the occurrence 
of typical paroxysmal abnormalities in the EEG records of 
epileptic patients". Epilepsia, 11: p. 361. 
7. Nguyễn Hồng Thanh (2011). Nghiên cứu đặc điểm điện não đồ 
sau đêm trắng. Y Dược quân sự tập 37, số 1, tr.121-127. 
8. Peraita-Adrados R, et al (2001). "Nap polygraphic recordings 
after partial sleep deprivation in patients with suspected 
epileptic seizures". Neurophysiol Clin, 31(1): p. 34-9. 
9. Werhahn KJ (2009). “Epilepsy in the elderly”. Continuing 
medical education, Review article. Dtsch Arztebl int 2009; 
106(9), pp.135-42. 

File đính kèm:

  • pdfnghiem_phap_gay_mat_ngu_mot_phan_trong_viec_phat_hien_song_d.pdf