Nghiên cứu điều dưỡng về kiến thức, thái độ và chăm sóc tại nhà của người lớn mắc bệnh hen
TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ và chăm sóc hen tại nhà của người lớn mắc bệnh hen. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Kết quả: Trong 350 người bệnh hen phế quản (HPQ) gồm có 231 nữ và 119 nam, tỷ lệ kiến thức chung tốt về HPQ chiếm 47,1%, thái độ tích cực chiếm 49,7%, thực hành sử dụng bình xịt định liều (BXĐL) đúng chiếm 31,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ với p=0,0028 (KTC 95%, PR: 1,11‐ 1,71). Có mối liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL với p=0,026 (KTC 95%, PR: 1,02‐1,63). Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức, thái độ chưa cao và thực hành sử dụng BXĐL của người bệnh HPQ còn thấp. Điều này cho thấy cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe cho người bệnh các kiến thức về HPQ đồng thời nhân viên y tế phải kiểm tra lại cách sử dụng thuốc và sử dụng BXĐL, hướng dẫn lại những thông tin liên quan đến HPQ mỗi lần tái khám nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu điều dưỡng về kiến thức, thái độ và chăm sóc tại nhà của người lớn mắc bệnh hen
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 184 NGHIÊN CỨU ĐIỀU DƯỠNG VỀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ CHĂM SÓC TẠI NHÀ CỦA NGƯỜI LỚN MẮC BỆNH HEN Ngô Thanh Trúc*, Nguyễn Thị Thu Ba**, Jane Dimmitt Champion*** TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ và chăm sóc hen tại nhà của người lớn mắc bệnh hen. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Kết quả: Trong 350 người bệnh hen phế quản (HPQ) gồm có 231 nữ và 119 nam, tỷ lệ kiến thức chung tốt về HPQ chiếm 47,1%, thái độ tích cực chiếm 49,7%, thực hành sử dụng bình xịt định liều (BXĐL) đúng chiếm 31,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ với p=0,0028 (KTC 95%, PR: 1,11‐ 1,71). Có mối liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL với p=0,026 (KTC 95%, PR: 1,02‐1,63). Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức, thái độ chưa cao và thực hành sử dụng BXĐL của người bệnh HPQ còn thấp. Điều này cho thấy cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe cho người bệnh các kiến thức về HPQ đồng thời nhân viên y tế phải kiểm tra lại cách sử dụng thuốc và sử dụng BXĐL, hướng dẫn lại những thông tin liên quan đến HPQ mỗi lần tái khám nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Từ khóa: kiến thức, thái độ, bình xịt định liều, hen phế quản ABSTRACT NURSING RESEARCH ON KNOWLEDGE, ATTITUDE AND HOME CARE OF ASTHMATIC ADULT PATIENTS Ngo Thanh Truc, Nguyen Thi Thu Ba, Jane Dimmitt Champion * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 184‐ 189 Objective: Survey on knowledge, attitude and home care of asthmatic adult patients Research methods: descriptive cross‐sectional Results: In 350 asthmatic patients, including 231 females and 119 males, rate of good general knowledge is 47.1%, rate of positive attitude is 49.7%, and rate of correct practice of using MDI is 31.7%. There is a significant relationship between good knowledge and positive attitude about asthma with p=0.0028 (CI 95%, PR: 1.11‐ 1.71). There is a significant relationship between knowledge of patients and practice of using MDI with p=0.026 (CI 95%, PR: 1.02‐1.63). Conclusions: Results of the study showed that knowledge and attitude are not good enough and correct practice of using MDI is low. Hence, there is a need to have educational programs to: provide information about asthma in mass media in order for everyone to approach; Educate health for patients about their disease. Healthcare workers must recheck on asthmatic patients’ using medicines, using inhalers devices and re‐explain information related to asthma to the patients in following‐up checks to increase patients’ quality of life. Key words: knowledge, attitude, asthma, MDI. ĐẶT VẤN ĐỀ Hen phế quản là một trong những bệnh mãn tính ở đường hô hấp, thường gặp nhất trên thế giới, hiện tại trên thế giới có khoảng 300 triệu người mắc bệnh hen phế quản với tỷ lệ từ 2%‐ 12% dân số(4), dự báo đến năm 2025 sẽ có thêm 100‐150 triệu người mắc bệnh này(10). Cho đến nay HPQ vẫn là một trong những căn bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khoẻ. Chi phí cho bệnh HPQ năm 2007 tại Mỹ là 56 tỉ đô la với 3.300 người chết mỗi năm(5). Một số nghiên cứu ở nước ngoài cho * Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch** ĐH Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh*** University of Texas ‐ USA Tác giả liên lạc: ThS. Ngô Thanh Trúc ĐT: 0913 626 087 Email: ngotruc1980@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 185 thấy kiến thức và sử dụng BXĐL trên người bệnh HPQ thấp(8,11). Việc hiểu biết về HPQ sẽ giúp cho người bệnh kiểm soát tốt bệnh của mình, hạn chế số lần tái phát cơn hen, giảm số lần nhập viện, giảm chi phí y tế, ngăn ngăn xảy ra các biến chứng. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm phát hiện những kiến thức, thái độ, chăm sóc tại nhà chưa đúng, từ đó có định hướng tốt hơn trong việc hướng dẫn những kiến thức cần thiết, phù hợp cho người bệnh HPQ để nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Người bệnh được chẩn đoán HPQ từ 18 tuổi trở lên, đến khám tại phòng khám hô hấp bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, từ tháng 02 đến tháng 05 năm 2013. Tiêu chuẩn nhận bệnh Người bệnh từ 18 tuổi trở lên, được chẩn đoán HPQ bởi bác sĩ chuyên khoa hô hấp. Người bệnh có sử dụng BXĐL. Người bệnh tái khám từ lần thứ 2 trở lên. Người bệnh tình nguyện tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ ‐ Người bệnh bị bệnh nặng, câm, điếc. ‐ Người bệnh HPQ kết hợp với COPD. Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện không theo nguyên tắc xác suất. Người bệnh đủ tiêu chí chọn mẫu sẽ được mời phỏng vấn trực tiếp dựa trên bộ câu hỏi có sẵn gồm: các thông tin của người bệnh, kiến thức có liên quan đến HPQ (13 câu), thái độ (5 câu) và bảng kiểm sử dụng BXĐL (6 bước). Phân tích số liệu Số liệu được mã hóa và nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, sử dụng chương trình thống kê SPSS 11.5 để xử lý số liệu. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua khảo sát kiến thức, thái độ và quan sát sử dụng BXĐL của 350 người bệnh HPQ, chúng tôi có kết quả nghiên cứu như sau Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu Bảng 1‐ Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu Đặc điểm của đối tượng Tần số Tỷ lệ % Tuổi 43,7+/- 15,3* 18-40 151 43,1 41-60 153 43,7 > 60 46 13,2 Nơi cư trú Tỉnh 233 66,6 TPHCM 117 33,4 Giới tính Nữ 231 66,0 Nam 119 34,0 Trình độ học vấn Mù chữ 5 1,4 Cấp 1 35 10,0 Cấp 2 73 20,9 Cấp 3 97 27,7 Trung cấp/ CĐ/ĐH/SĐH 140 40,0 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 19 5,4 Giáo viên 23 6,6 Nội trợ 59 16,9 Buôn bán 61 17,4 Nông dân 22 6,3 Khác 166 47,4 Tình trạng hôn nhân Độc thân 69 19,7 Đã kết hôn 279 79,7 Góa 2 0,6 Gia đình có người bị bệnh HPQ Không 214 61,1 Có 136 38,9 Hút thuốc lá Không 307 87,7 Có 43 12,3 * Trung bình ± độ lệch chuẩn Kiến thức có liên quan đến HPQ Bảng 2‐ Kiến thức có liên quan đến HPQ Nội dung Trả lời Tần suất Tỷ lệ % 1. Theo Ông/Bà HPQ là bệnh gì? Bệnh mãn tính 179 51,1 2. Theo Ông/Bà HPQ là bệnh dễ tái đi tái lại? Đúng 293 83,7 3. Theo Ông/Bà HPQ có liên quan đến dị ứng không? Có 254 72,6 4. Theo Ông/Bà HPQ có lây không? Không 259 74,0 5. Theo Ông/Bà HPQ trị có dứt không? Không 171 48,8 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 186 Nội dung Trả lời Tần suất Tỷ lệ % 6. Theo Ông/Bà thời gian điều trị hen chỉ vài tuần là dứt bệnh? Không đúng 296 84,6 7. Theo Ông/Bà nuốt con thằn lằn có trị hết bệnh hen không? Không 191 54,6 8. Theo Ông/Bà hút cà độc dược có trị hết bệnh hen không? Không 188 53,7 9. Theo Ông/Bà cấy chỉ dưới da có trị hết bệnh hen không? Không 179 51,2 10. Theo Ông/Bà sử dụng thuốc hàng ngày theo phác đồ điều trị để làm gì? Ngăn chặn xuất hiện các triệu chứng hen 135 38,6 11. Tác dụng phụ hay gặp của thuốc xịt dùng điều trị bệnh hen hàng ngày là bị nấm miệng? Đúng 113 32,3 12. Các thuốc điều trị bệnh hen có gây nghiện không? Không 263 75,2 13. Theo Ông/Bà hen phế quản có thể phòng ngừa để hạn chế số lần lên cơn hen không? Có 265 75,7 Bảng 3‐ Kiến thức chung của người bệnh về HPQ Kiến thức chung N Tỷ lệ % Tốt 165 47,1 Chưa tốt 185 52,9 Thái độ của người bệnh về HPQ Bảng 4‐ Thái độ của người bệnh về HPQ Nội dung Trả lời Tần suất Tỷ lệ % 1.Ông/Bà có đồng ý với ý kiến cho rằng nuốt con thằn lằn sẽ hết bệnh hen Thái độ tích cực 177 50,6 Thái độ chưa tích cực 173 49,4 2. Ông/Bà có đồng ý với ý kiến cho rằng hút cà độc dược sẽ hết bệnh hen Thái độ tích cực 176 50,3 Thái độ chưa tích cực 174 49,7 3. Ông/Bà có đồng ý với ý kiến cho rằng cấy chỉ dưới da sẽ hết bệnh hen Thái độ tích cực 166 47,4 Thái độ chưa tích cực 184 52,6 4. Theo Ông/Bà tái khám thường xuyên sẽ giúp bệnh hen ổn định Thái độ tích cực 342 97,7 Thái độ chưa tích cực 8 2,3 5. Theo Ông/Bà sử dụng thuốc theo đúng phác đồ điều trị giúp kiểm soát được triệu chứng hen Thái độ tích cực 342 97,7 Thái độ chưa tích cực 8 2,3 Thái độ chung Thái độ tích cực 174 49,7 Thái độ chưa tích cực 176 50,3 Thực hành sử dụng BXĐL Bảng 5‐ Sử dụng BXĐL STT Trình tự các bước Thực hành Tần suất Tỷ lệ % STT Trình tự các bước Thực hành Tần suất Tỷ lệ % 1 Mở nắp bình xịt Đúng 350 100 2 Giữ bình thẳng, lắc kỹ Đúng 340 97,1 3 Thở ra chậm Đúng 197 56,3 4 Ngậm ống kín Đúng 280 80,0 5 Hít vào chậm đồng thời ấn bình và tiếp tục hít vào thật sâu Đúng 198 56,6 6 Nín thở 10 giây Đúng 204 58,3 Bảng 6‐ Thực hành chung đúng Thực hành chung n Tỷ lệ % Đúng 111 31,7 Chưa đúng 239 68,3 Bảng 7‐ Nguồn thông tin về HPQ Nguồn thông tin về HPQ Tần suất Tỷ lệ % Bác sĩ 334 95,4 Điều dưỡng 1 0,3 Người thân 51 14,6 Tivi 13 3,7 Radio 7 2 Báo chí 33 9,4 Internet 20 5,7 Khác (bạn bè, tổng đài tư vấn) 4 1,1 Liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ Bảng 8‐ Liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ Kiến thức Thái độ (n=350) p PR KTC 95% Chưa tích cực (n=176) Tích cực (n=174) Chưa tốt (n=185) 107 (57,8%) 78 (42,2%) 0,0028 1,38 (1,11- 1,71) Tốt (n=165) 69 (41,8%) 96 (58,2%) Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL Bảng 9‐ Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL Kiến thức Thực hành (n=350) p PR KTC 95%Chưa đúng (n=176) Đúng (n=174) Chưa tốt (n=185) 96 (51,9%) 89 (48,1%) 0,026 1,29 (1,02-1,63) Tốt (n=165) 66 (40%) 99 (60%) BÀN LUẬN Tuổi thấp nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là 18 tuổi, cao nhất là 87 tuổi, đa số đối tượng ở các tỉnh nhiều hơn ở TP.HCM với tỷ lệ 66,6%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 187 Tỷ lệ nữ là 66% và nam là 34%, nhiều nghiên cứu cho thấy ở tuổi trưởng thành thì tỷ lệ nữ giới mắc bệnh HPQ nhiều hơn nam giới(9,13), kết quả của chúng tôi phù hợp với y văn. Tỷ lệ người bệnh HPQ có trình độ học vấn từ cấp III trở lên trong mẫu của chúng tôi chiếm đa số (bảng 1), đây là một điểm thuận lợi cho việc giáo dục sức khỏe cho người bệnh. Tỷ lệ người bệnh HPQ hiện có hút thuốc lá trong nghiên cứu của chúng tôi là 12,3%, khói thuốc lá gây kích thích đường hô hấp, làm tăng nguy cơ nhạy cảm với dị nguyên và làm tăng các triệu chứng hen(6,12). Kiến thức của người bệnh về HPQ Kết quả của chúng tôi cho thấy gần một nửa dân số trong mẫu nghiên cứu không biết HPQ là một bệnh mãn tính với tỷ lệ 44,6% và 4,3% cho là bệnh nhiễm trùng, điều này cho thấy người bệnh sẽ không theo dõi cũng như là điều trị hen lâu dài. Họ chỉ đến khám khi triệu chứng hen xuất hiện và có khả năng sẽ không sử dụng thuốc ngừa cơn hàng ngày theo toa khi hết các triệu chứng hen. Đa số người bệnh cho rằng HPQ là bệnh dễ tái đi tái lại chiếm 83,7% và 72,6% cho rằng HPQ có liên quan với dị ứng. Nghiên cứu của Tarig thực hiện tại Sudan cho thấy có 31% (n=490) người bệnh HPQ cho rằng dị ứng có liên quan đến HPQ, kết quả này thấp hơn kết quả của chúng tôi(11). Có 18,3% người bệnh không biết và 7,7% cho rằng HPQ là bệnh lây, điều này cho thấy người bệnh chưa thực sự hiểu biết về HPQ. Về thuốc điều trị HPQ hàng ngày, có 38,6% trả lời đúng là ngăn chặn xuất hiện các triệu chứng hen, 10,6% cho rằng để cắt cơn hen. Sự nhầm lẫn giữa tác dụng của thuốc ngừa cơn và thuốc cắt cơn dẫn tới HPQ không được kiểm soát tốt, đưa đến tăng tỷ lệ nhập viện, tăng chi phí điều trị, chỉ có 32,3% người bệnh biết được tác dụng phụ thường gặp của thuốc xịt sử dụng hàng ngày là nấm miệng. Về phòng ngừa, trong nghiên cứu của chúng tôi có 75,7% trả lời rằng có thể phòng ngừa để hạn chế lên cơn hen, kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Anwar (57,3%)(3). Nhìn chung kiến thức về HPQ của người bệnh vẫn còn thấp. Để đạt được sự kiểm soát HPQ hiệu quả, chúng ta cần phải cung cấp cho người bệnh những kiến thức cơ bản về sinh lý bệnh của HPQ, về các triệu chứng của cơn hen. Bên cạnh đó, NVYT phải hướng dẫn cho người bệnh cách xác định yếu tố nguy cơ gây khởi phát hen cho họ để phòng tránh hen tái phát song song với việc cung cấp kiến thức cơ bản về thuốc điều trị để người bệnh hiểu được vai trò, tác dụng của thuốc. Thái độ của người bệnh về HPQ Chúng tôi nhận thấy đa số người bệnh đồng ý là tái khám thường xuyên sẽ giúp bệnh hen ổn định (97,7%) và sử dụng thuốc trị HPQ theo đúng phác đồ điều trị sẽ kiểm soát được triệu chứng hen (97,7%). HPQ là một bệnh viêm mãn tính ở đường hô hấp hay thay đổi, tùy thuộc vào sự đáp ứng thuốc điều trị, tại mỗi bậc sẽ có phác đồ điều trị khác nhau. Do đó nếu người bệnh sử dụng thuốc điều trị hàng ngày theo đúng chỉ định sẽ làm giảm viêm đường thở, bảo vệ đường thở chống lại các yếu tố gây cơn hen. Khi HPQ được kiểm soát tốt sẽ giảm tối thiểu các triệu chứng hen về đêm, giảm số lần lên cơn hen, giảm lượng thuốc sử dụng mỗi ngày, giảm sử dụng thuốc cắt cơn và người bệnh sẽ có cuộc sống giống như người bình thường. Thái độ của người bệnh đối với các phương pháp trị HPQ trong dân gian như nuốt con thằn lằn, hút cà độc dược, cấy chỉ dưới da chưa cao, điều này có thể do họ chưa nghe đến các phương pháp này nên không biết hoặc họ tin vào điều này là đúng. Do đó, NVYT cần phổ biến những kiến thức về HPQ để thay đổi nhận thức, niềm tin của người bệnh về HPQ, để đạt được sự phối hợp tốt trong điều trị, kiểm soát hen hiệu quả. Thực hành sử dụng BXĐL Kết quả người bệnh thực hành sử dụng BXĐL đúng 6 bước theo bảng kiểm trong nghiên cứu của chúng tôi là 31,7%, nghiên cứu của Anjum Hashmi ở Pakistan cũng cho thấy chỉ có 16,3% (n=215) thực hành đúng hoàn toàn các bước sử dụng BXĐL(2). Chúng tôi ghi nhận đa số Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 188 người bệnh thực hiện sai ở các bước thứ 3, 5, 6, do đó NVYT cần phải kiểm tra cách sử dụng bình xịt mỗi khi người bệnh tái khám, huấn luyện lại cách sử dụng để việc kiểm soát HPQ được hiệu quả hơn, giảm chi phí y tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Hamdan đã chứng minh việc sử dụng bình xịt không đúng có liên quan đến kiểm soát HPQ kém và đi cấp cứu thường xuyên hơn(1,7). Nguồn thông tin về HPQ Các thông tin về HPQ mà người bệnh nhận được từ Điều dưỡng rất thấp 0,3%, điều này gợi ý cho các nhà lãnh đạo Điều dưỡng ở các khoa hô hấp nên có một chiến lược trong việc xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe phù hợp cho người bệnh HPQ. Bởi vì Điều dưỡng là người có thời gian tiếp xúc với người bệnh nhiều nhất trong quá trình chăm sóc, do đó sẽ có cơ hội để giáo dục sức khỏe cho họ, góp phần vào việc kiểm soát HPQ được hiệu quả. Ngoài ra, các thông tin liên quan tới HPQ trên các phương tiện truyền thông đại chúng còn rất thấp, do đó chúng ta cần có các chương trình tuyên truyền về HPQ cho cộng đồng để mọi người có cơ hội tiếp cận (bảng 7). Liên quan giữa kiến thức với thái độ Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức với thái độ về HPQ với p=0,0028. Những người bệnh HPQ có kiến thức tốt sẽ có khả năng có thái độ tích cực cao hơn so với những người bệnh có kiến thức chưa tốt PR=1,38; KTC 95% (1,11‐ 1,71) (bảng 8). Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL (p=0,026), người bệnh HPQ có kiến thức tốt sẽ có khả năng thực hành đúng BXĐL cao hơn người bệnh có kiến thức chưa tốt (PR=1,29; KTC 95% (1,02‐1,63) (bảng 9). Thực hành chưa đúng có thể do chưa có kiến thức tốt hoặc do ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như: khả năng tiếp thu của người bệnh, không được hướng dẫn cách sử dụng BXĐL hoặc do không được kiểm tra lại kỹ thuật mỗi khi tái khám hoặc không có khả năng phối hợp các động tác. Từ mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức với thái độ, giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL của người bệnh HPQ, chúng tôi có thể kết luận là việc nâng cao kiến thức cho người bệnh về HPQ là cần thiết, nó không chỉ nâng cao tỷ lệ người bệnh HPQ có kiến thức tốt mà còn cải thiện được thái độ và thực hành đúng để điều trị được hiệu quả. KẾT LUẬN Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tốt về HPQ chưa cao chiếm 47,1%, thái độ tích cực chiếm 49,7% và sử dụng đúng BXĐL thấp chiếm 31,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ với p=0,0028. Có mối liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL với p=0,026. Qua nghiên cứu, cần thiết phải tăng cường giáo dục sức khỏe cho người bệnh các kiến thức về HPQ. Nhân viên y tế phải kiểm tra lại cách sử dụng BXĐL, hướng dẫn lại những thông tin liên quan đến HPQ mỗi lần người bệnh tái khám để việc kiểm soát hen được hiệu quả, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Cần có những chương trình, các thông tin về HPQ trên các phương tiện truyền thông đại chúng để mọi người cùng được tiếp cận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Coelho ACC et al (2011). “Use of the inhaler devices and asthma control in severe asthma patients at a referral center in the city of Salvador, Brazilʺ. J Bras Pneumol, 37 (6), pp.720‐ 728. 2. Hashmi A, Soomro JA et al (2012). “Incorrect inhaler technique compromising quality of life of asthmatic patients”. J Medicine, 13 (1), pp.16‐21. 3. Anwar H, Hassan N et al (2008). “Asthma knowledge among asthmatic school students”. Oman Madical Journal, 23 (2), pp.90‐95. 4. Beasley R (2004). The global burden of asthma report. In: Global Initiative for asthma, accessed on May 2012. 5. CDC (2012) Vital Sign. Asthma in US, accessed on May 2012. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 189 6. Đặng Quốc Dũng, Nguyễn Thị Thu Ba (2006). “Xác định tần xuất và một số yếu tố nguy cơ hen phế quản ở học sinh cấp 1 quận Gò Vấp”. Tạp chí y học TP.HCM, 12 (4), tr.162‐166. 7. Hamdan AL‐Jahdali et al (2013). “Improper inhaler technique is associated with poor asthma control and frequent emergency department visits”. Allergy, Asthma, and Clinical Immunology, 9 (8), pp.1‐7. 8. Laleh S, Zahra P et al (2011). “Asthma knowledge, Attitude and Self‐efficacy in Iranian asthmatic patients”. Archives of Iranian Medicine, 14 (5), pp.315‐320. 9. Lê Thị Tuyết Lan, Lê Thị Thu Hương (2004). “Đặc điểm suyễn dạng ho ở bệnh nhân Việt Nam trưởng thành”. Tạp chí y học TP.HCM, 8 (1), tr.106‐110. 10. Masoli M, Fabian D et al (2004). “The global burden of asthma: executive summary of the GINA Dissemination Committee Report”. Allegy, 59, pp.469‐478. 11. Tarig HA Mahgoob Z et al (2011). “Knowledge, attitude and behavior of asthmatic patients regarding to asthma in urban areas in Khartoum State, Sudan”. Khartoum Medical Journal, 4 (1), pp.524‐531. 12. Tan NC, Ngoh SHA et al (2012). “Impact of cigarrette smoking on symptoms and quality of life of adults with asthma managed in public primary care clinics in Singapore: a questionnaire study”. Primary Care Respiratory Journal, 21 (1), pp.90‐93. 13. Vương Mỹ Ngọc, Lê Thị Tuyết Lan (2006). “Đặc điểm lâm sàng và hô hấp ký ở bệnh nhân hen lớn tuổi”. Tạp chí y học TP.HCM, 10 (1), tr.6‐13. Ngày nhận bài báo: 05/9/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/9/2014 Ngày bài báo được đăng: 20/10/2014
File đính kèm:
- nghien_cuu_dieu_duong_ve_kien_thuc_thai_do_va_cham_soc_tai_n.pdf